Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Ba, 30 tháng 7, 2019

Giải pháp nào cho tranh chấp Tư Chính? - Thiện Ý

trung quốc
HOANG DINH NAM - Tàu hải cảnh Trung Quốc trong vụ giàn khoan HD-981 hồi năm 2014.  Trên BBC có bài , giáo sư đại học Maine ở Mỹ. GS Long cho rằng "VN thua ở bãi Tư Chính", mà nguyên nhân là vì VN không "đa phương hóa Biển Đông". Đây là điều mà GS Long cho rằng ông đã đã cảnh báo VN "từ mười mấy năm nay". Dẫn nguyên văn:  "Họ (TQ) muốn đây là vấn đề song phương, mà vấn đề song phương thì các nước khác không được dính líu vào. Chỉ là giữa Trung Quốc với Việt Nam thôi. Thì vấn đề này Việt Nam phải suy nghĩ, vì trong mười mấy năm qua chúng tôi nói là Việt Nam phải cố gắng đa phương hóa vấn đề Biển Đông."<!>
Điều đáng tiếc là trong bài phỏng vấn, GS Long đã không cắt nghĩa để độc giả hiểu thế nào là "đa phương hóa tranh chấp ở Biển Đông", đặc biệt ở bãi Tư Chính.

Tranh chấp Tư Chính bắt nguồn từ tranh chấp chủ quyền

Vụ bãi Tư Chính, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao của cả hai bên lên tiếng phản đối nhau, nội dung xét ra không khác chi nhiều. 
Phía Trung Quốc ra tuyên bố: "VN phải nghiêm túc tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc đối với các vùng lãnh hải liên quan và không có bất kỳ hành động nào làm phức tạp tình hình."
Phía Việt Nam ra tuyên bố: "Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển ở Biển Đông được xác định theo đúng các quy định của Công ước của LHQ về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và các nước ở Biển Đông đều là thành viên."
Tranh chấp ở Bãi Tư Chính vì vậy là có nguồn gốc từ tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ (chống lấn hải phận, tranh chấp quyền tài phán v.v…). 
Câu hỏi đặt ra cho GS Long là làm thế nào để "đa phương hóa" một tranh chấp vốn có nguồn gốc lâu đời từ "tranh chấp về chủ quyền"? 
Theo tôi Biển Đông có rất nhiều vấn đề, vừa "đa phương" vừa "song phương". 
Việc các quốc gia chung quanh Biển Đông phải tôn trọng quyền tự do hải hành của tàu bè các nước là vấn đề "đa phương". Việc các nước ASEAN cùng TQ thảo luận bộ "qui tắc ứng xử - COC" ở Biển Đông là một vấn đề "đa phương". 
Trung Quốc
Getty ImagesTrung Quốc sử dụng nhiều phương tiện khác nhau, trong đó có các tàu 'nghiên cứu' Hải Dương Địa Chất, đưa vào các khu vực đang có tranh chấp ở Biển Đông và khu vực
Tôi không nghĩ tranh chấp Tư Chính sẽ được giải quyết trong khuôn khổ "quyền tự do hải hành" hay theo nội dung "tuyên bố ứng xử COC". 
Các việc "song phương",chỉ có thể giải quyết bằng thiện chí giữa hai nước, như việc phân định hải phận giữa hai quốc gia kế cận, hay đối diện trên Biển Đông. 
Việt Nam phân định biển với Thái Lan, Malaysia... VN nộp chung hồ sơ "thềm lục địa mở rộng" với Malaysia… là các vấn đề "song phương", không quốc gia nào có thể "xen vào". 
Mọi tranh chấp về "chủ quyền" ở một vùng lãnh thổ đều được giải quyết giữa các bên "có yêu sách chủ quyền". Tranh chấp này có thể được "quốc tế hóa", phân xử bằng một trọng tài quốc tế, như Tòa án Công lý Quốc tế. 
Việc phân định biển giữa hai quốc gia chỉ có thể được "quốc tế hóa", tiên khởi với sự đồng thuận của hai bên, bằng một tòa án, hay một trọng tài quốc tế, nếu hai bên tranh chấp không tìm được thỏa thuận trong việc phân định. Bất kỳ quốc gia thứ ba can dự vào các việc này đều có thể qui vào việc vi phạm Hiến chương LHQ "không được can dự chuyện nội bộ quốc gia khác".

Tranh chấp Tư Chính: "Đa phương" hay "song phương"?

Ta hãy xét những hành vi của tàu nghiên cứu địa chất của TQ đã (và đang) diễn ra ở bãi Tư Chính và lô 6.1. 
Bãi Tư Chính Trung Quốc đặt tên là Vạn An Bắc, bao gồm các lô 133, 134, 135, 136, 157, 158, 159 trên "bản đồ dầu khí" của VN. 
Toàn bộ khu vực Tư Chính nằm trong thềm lục địa 200 hải lý của VN, tính từ điểm cơ bản "Hòn Hải" thuộc cụm đảo Phú Quí. 
TQ phản đối hệ thống điểm (và đường) cơ bản của VN, vì nó cách xa bờ. Giả sử VN từ bỏ hệ thống điểm cơ bản, điểm tính bề rộng hải phận 200 hải lý lấy từ ngấn nước cận bờ thì Bãi Tư Chính có một phần nằm ngoài khu vực 200 hải lý. 
Lô 6.1 nằm ngoài khu vực Vạn An Bắc, thuộc bãi trầm tích Nam Côn Sơn, hoàn toàn nằm trong thềm lục địa tự nhiên (và pháp lý) của VN. Lô này hiện do công ty dầu khí lớn nhứt nước Nga là Rosneft khai thác (và phát triển) từ năm 2013 với 2 mỏ Lan Tây, Lan Đỏ. Trước đó lô 6.1 do BP khai thác, từ 2003 đến 2010 (BP rút lui do sức ép kinh tế của TQ). 
Ngay cả khi đặt giả thuyết đảo Côn Sơn không đủ tiêu chuẩn "đảo" theo Điều 121 UNCLOS và Hòn Hải (thuộc cụm đảo Phú Quí) không có tiêu chuẩn để lấy làm "điểm cơ bản", thì lô 6.1 vẫn nằm trong vòng 200 hải lý, tính từ bờ biển VN (Trà Vinh hay Phan Thiết). Ghi lại các chi tiết này để thấy mọi yêu sách của TQ chống lại VN tại lô 6.1 là ngang ngược, phi lý.

"Bản chất" của tranh chấp khu vực Tư Chính là gì tại lô 6.1 là gì?

Thứ nhứt, ở Bãi Tư Chính, nguyên nhân tranh chấp có thể đến từ sự đối nghịch lập trường giữa VN và TQ về việc giải thích nội dung của Luật Biển 1982, như việc giải thích hiệu lực các đảo Trường Sa theo điều 121. 
TQ cho rằng họ có chủ quyền các đảo Trường Sa mà các đảo này có hiệu lực "đảo". Khu vực Tư Chính nằm trong vùng "chồng lấn" giữa các đảo Trường Sa và bờ biển VN. 
Bãi Tư Chính: Căng thẳng trên Biển Đông ở lô 06-1 vẫn tiếp tục
Việc này vốn "song phương", đã được giải quyết bằng "quốc tế hóa", trong phán quyết của Tòa Trọng tài 11/7/2016 trong vụ Philippines kiện TQ, theo đó không có đảo nào ở Trường Sa có hiệu lực "đảo" để có 200 hải lý hải phận kinh tế độc quyền và thềm lục địa.
Thứ hai, tranh chấp Tư Chính có thể đến từ sự áp đặt về "chủ quyền lịch sử" của TQ, thể hiện qua bản đồ chữ U 9 đoạn. 
Khu vực Tư Chính nằm trong vùng "chồng lấn" giữa "vùng nước lịch sử" (bản đồ chữ U) của TQ và vùng biển đặc quyền kinh tế (EEZ) của VN tính từ bờ. Đây là một vấn đề vốn "song phương" nhưng đã giải quyết bằng "quốc tế hóa" qua phán quyết của Tòa Trọng tài 11/7/2016 nêu trên. 
Theo phán quyết, Tòa cho rằng "biển lịch sử" hay "chủ quyền lịch sử" thể hiện trong bản đồ chữ U là các khái niệm không phù hợp với Luật Biển 1982.
Thứ ba, nếu TQ không nhìn nhận hệ thống điểm (và đường) cơ bản thì Bãi Tư Chính vẫn nằm trong thềm lục địa pháp lý của VN (thềm lục địa mở rộng 200+100 hải lý), còn lô 6.1 hoàn toàn nằm trong thềm lục địa địa lý và pháp lý (200 hải lý) của VN.
Như vậy, bản chất tranh chấp ở bãi Tư Chính là TQ "ngồi xổm" lên luật lệ, bất chấp phán quyết ngày 11/7/2016 của Tòa Trọng tài. Nội dung phán quyết có mục đích giải thích việc áp dụng Luật Biển 1982 tại Biển Đông. Bản thân của phán quyết vì vậy cũng là "Luật". 
Tòa cũng phán rằng các bãi chìm ở Trường Sa, như Bãi Tư Chính, thuộc về thềm lục địa của quốc gia ven bờ (tức của VN). Chúng không phải là đối tượng lãnh thổ để chiếm hữu hoặc tuyên bố chủ quyền. 
TQ cũng bất chấp thực tế pháp lý và lịch sử là Quần đảo Trường Sa chưa bao giờ thuộc về TQ. 
Như vậy tranh chấp giữa VN và TQ ở khu vực Tư Chính là tranh chấp vừa "song phương" vừa có tính "quốc tế". 
"Song phương" vì VN là nạn nhân của thái độ bành trướng ngang ngược, bá quyền ngồi trên luật của TQ. "Quốc tế" là vì mọi vấn đề liên quan đến việc "tuân thủ luật lệ" thuộc thẩm quyền của tất cả các quốc gia thuộc LHQ.
Nhưng ở lô 6.1 thì tuyệt đối không có tranh chấp chi cả. 

TQ "đẩy" VN cái gì? 

GS Long có đề cập đến việc tự do thông lưu ở Biển Đông và trường hợp Đài loan để "minh họa" cho nội hàm "đa phương hóa" của mình. Dẫn nguyên văn: 
"Là bởi vì nhiều nước trên thế giới đi ngang Biển Đông, nhưng Việt Nam lại rụt rè. Thành ra, Trung Quốc bây giờ càng ngày càng đẩy. Trung Quốc đẩy rất là 'hay', không những ở Biển Đông mà cả ở Đài Loan nữa. Họ đẩy từ từ.
"Ví dụ như Đài Loan, ngày xưa, thỏa thuận giữa Mỹ và Trung Quốc nói rằng là người Trung Quốc ở Đài Loan và người gốc Trung Quốc ở Đài Loan và người Trung Quốc ở lục địa đồng ý là chỉ có một nước Trung Quốc, không có nói gì vấn đề là Đài Loan thuộc về Trung Quốc."
"Nhưng Trung Quốc đẩy từ từ, bây giờ nói là Đài Loan là một tỉnh của Trung Quốc…"
Hết dẫn.
Giáo sư Ngô Vĩnh Long bình luận về động thái và 'mưu đồ' của Trung Quốc trên Biển Đông
Mục đích "đa phương hóa" của GS Long, (nếu không lầm), là làm giảm sức "đẩy" của TQ. 
Nhận định của cá nhân tôi, vấn đề "tàu bè nhiều nước qua lại trên Biển Đông" là một "vấn đề quốc tế", thuộc về tập quán quốc tế (Thông luật quốc tế - Droit International Coutumier), được cụ thể hóa qua điều 87 của bộ Luật quốc tế về Biển 1982. 
Không ai "đa phương hóa" một vấn đề tự nó đã là một "vấn đề của quốc tế".
Về tự do thông lưu, trên không và trên biển, các đại cường như Mỹ, Pháp, Nhật… cho rằng hải đạo xuyên qua Biển Đông là một hải đạo quốc tế, các quốc gia cận biển phải tôn trọng quyền tự do thông lưu của các quốc gia khác. 
TQ chủ trương "tự do thông lưu", tàu bè được tự do qua lại trong lãnh hải cũng như hải phận kinh tế độc quyền EEZ của TQ, nhưng điều này không áp dụng cho tàu chiến. Các quốc gia như Mỹ không chia sẻ lập trường này của TQ, như tại eo biển Đài loan, hay những vùng TQ mở rộng theo bản đồ chữ U ở Biển Đông. 
Trên nguyên tắc, quyền tự do thông lưu thuộc về mọi quốc gia và quyền này được "luật quốc tế" bảo đảm. Mọi hành vi cản trở quyền tự do này đều xâm phạm đến lợi ích của tất cả các quốc gia khác. 
Quyền tự do thông lưu trên Biển Đông thực tế chưa bao giờ bị cản trở. 
Lo ngại chỉ bắt đầu dấy lên từ khi TQ hoàn tất việc xây dựng 7 đảo nhân tạo đồng thời "quân sự hóa" chúng (đầu năm 2018). Tuyên bố "vùng nước lịch sử" của TQ ở Biển Đông qua bản đồ chữ U 9 đoạn có thể đưa vào thực tế. Các quốc gia "nhỏ" chung quanh Biển Đông có nguy cơ bị TQ sử dụng áp lực kinh tế và quân sự buộc phải nhìn nhận thực tế này. 
Để chống lại tham vọng của TQ, năm 2013 nội các Obama thành lập Chương trình FONOP (Freedom Of Navigation Operation Program) ở Biển Đông nhằm bảo vệ quyền tự do hàng hải và hàng không. 
Các chiến hạm Mỹ đã thực hiện chương trình FONOP, có lần đi qua lãnh hải 12 hải lý các đảo thuộc Hoàng Sa như đảo Phú Lâm và đảo Tri Tôn (USS Wilbur Curtis tháng giêng 2016, USS Stenthem tháng 7/2017) nhằm thách thức yêu sách "lãnh hải" và "vùng nước quần đảo" của TQ tại Hoàng Sa.
Các chiến hạm của Mỹ cũng thực hiện FONOP qua các chuyến đi vào khu vực 12 hải lý những đảo nhân tạo thuộc Trường Sa như đá Chữ Thập (USS W.P. Lawrence tháng 5/2016) , đá Gaven (USS Decatur tháng 9/2018)... nhằm thách thức yêu sách phi lý của TQ về hải phận của một cấu trúc nhân tạo trên biển. 
Về hàng không thì phi cơ dọ thám Poseidon đã bay ngang qua đá Chữ thập để thách thức không phận đảo nhân tạo này (tháng 5/2015)...
Các quốc gia lo ngại rằng, với các bộ luật quốc gia của TQ hạn chế đáng kể các hoạt động của tàu bè trong một vùng "biển quốc tế", TQ có thể đơn phương ra tuyên bố vùng nước, vùng trời (như tuyên bố vùng Nhận dạng phòng không ADIZ) khu vực Biển Đông. Mọi phương tiện bay qua không phận Biển Đông, hoặc tàu bè qua lại trên Biển Đông đều phải thông báo hoặc xin phép TQ. 
Vì vậy ta có thể hy vọng rằng chương trình FONOP của hải quân Mỹ vẫn được tiếp tục (mà không lo ngại rằng nội các TT Trump sẽ bãi bỏ vì lý do "kinh tế" hay trao đổi lợi ích với TQ). 
Hiển nhiên chương trình FONOP của Mỹ trong chừng mực là "quốc tế hóa", "đa phương hóa" Biển Đông mà VN là một bên có lợi.
Theo tôi, sở dĩ có những vấn đề như Tư Chính hiện nay, nguyên nhân là do TQ không tuân thủ luật chơi quốc tế.
Nhiều người gợi ý VN copy hồ sơ của Philippines để đi kiện TQ. 
Theo tôi, khó khăn của VN là làm thế nào để phán quyết của Tòa Trọng tài có hiệu lực chớ không phải đi kiện TQ với mô hình (hồ sơ) của Philippines. 
Đi kiện (theo mô hình của Philippines) VN chắc phần thắng, nhưng hệ quả vẫn là một phán quyết y như phán quyết của Tòa tháng 7/2016.
TQ không tham gia, không nhìn nhận thẩm quyền của Tòa và dĩ nhiên không công nhận phán quyết của Tòa.
VN cần phải có "tư duy mới" và cách tiếp cận mới trong những vấn đề Biển Đông.
Mới đây viên chức Mỹ tố cáo Tập Cận Bình đã "bội ước" trong lời hứa "không quân sự hóa các đảo ở Biển Đông".
TQ có ý đồ gì trong cuộc đối đầu ở Bãi Tư Chính?
Theo nội dung bài báo trên VOA ngày 30/5/2019, Tướng Joseph Dunford, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ, nhân phát biểu trong một cuộc trao đổi về quốc phòng ở Viện Brookings tại thủ đô Washington nói rằng: "Mùa thu năm 2016, Chủ tịch Tập Cận Bình đã hứa với Tổng thống Obama là họ sẽ không quân sự hóa các hòn đảo [ở Biển Đông]. Nhưng những gì chúng ta chứng kiến ngày hôm nay đó là các đường băng dài 10 nghìn bộ [hơn 3 nghìn mét], các kho chứa đạn dược, việc thường xuyên triển khai thiết bị có khả năng phòng thủ tên lửa, khả năng hàng không, v.v..."
"Vì thế, rõ ràng họ đã từ bỏ cam kết đó".
Hôm 11/7, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Mỹ, bà Morgan Ortagus, ra tuyên bố lên án TQ: « việc Trung Quốc quân sự hóa các tiền đồn tại vùng đang tranh chấp ở Biển Đông đã phản bội cam kết năm 2015 của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình là không tiến hành những hoạt động đó ».
Ý kiến của Tập Cận Bình có thể trở thành một "tuyên bố đơn phương" có giá trị pháp lý ràng buộc. 
VN cần đứng đầu trong việc phát động phong trào phản đối, buộc họ Tập tuân thủ lời hứa, Biển Đông phải "phi quân sự" thì các quốc gia chung quanh mới có thể tránh được áp lực gay gắt từ TQ. 
Ngoài ra ta không thể loại trừ giả thuyết ý đồ của Tập Cận Bình khẳng định sự hữu dụng của việc xây dựng 7 đảo nhân tạo. Những chiếc tàu hải cảnh quấy rối VN đều có ghé qua các đảo Chữ Thập và Subi để lấy nhiên liệu. 
Báo South China Morning Post hôm đầu tháng có bài viết nội dung trích dẫn ý kiến của khoa học gia TQ, cho rằng TQ đã không nghiên cứu kỹ về địa chất và thời tiết khi xây dựng các đảo nhân tạo. Kiến trúc bằng bê tông ở các đảo này bị hư hỏng sau ba năm (do tia tử ngoại) và khí tài bằng kim khí bị rỉ sét (vì nước biển) sau một năm. Riêng năm 2014 TQ đã phải chi phí 300 tỉ đô la, tương đương 3% GDP cho việc bảo trì gây ra từ việc rỉ sét (tàu bè, súng đạn, máy móc…). 
Nếu các con số này là "sự thật" thì chi phí bảo trì cho các đảo nhân tạo cực kỳ lớn. Các đảo thay vì là các "tiền đồn trên biển" của TQ nhằm mục đích khẳng định chủ quyền thì trở thành những "cục nợ" mà Tập Cận Bình là thủ phạm. 
VN không thể loại trừ viễn cảnh TQ sẽ cho tàu bè quấy rối VN lâu dài và thường xuyên. Tập Cận Bình không chỉ muốn chứng minh cho phe chống đối thấy rằng các đảo nhân tạo hỗ trợ đắc lực cho tàu hải cảnh cản trở công tác khai thác ở lô 6.1, hay các tàu thăm dò địa chấn ở bãi trầm tích Tư Chính (như đã thấy). Mà về lâu về dài, các vị trí quân sự đóng ở các đảo này sẽ can thiệp nhanh chóng để bảo vệ (trong tương lai) các giàn khoan của TQ hoạt động trong khu vực. 
Chuyện gì đang xảy ra ở khu vực Bãi Tư Chính?
Vì vậy công tác hô hào "Tập Cận Bình phải giữ lời hứa không quân sự hóa các đảo Biển Đông" còn có hiệu quả làm giảm nhịp điệu gây hấn của TQ. 
Nhưng quan trọng hơn cả là làm sao để TQ tuân thủ luật lệ quốc tế. Phán quyết ngày 11/7/2016 của Tòa Trọng tài thường trực có nội dung diễn giải và hướng dẫn cách thức áp dụng luật Quốc tế về Biển 1982 cho khu vực Biển Đông. Phán quyết vì vậy "cũng là Luật".

VN thua ở Bãi Tư Chính?

GS Long nói "VN thua ở bãi Tư Chính". 
Nói vậy theo tôi là hơi sớm. Thực tế đến nay TQ chưa "hút" được lít dầu nào ở khu vực này. Điều ta cần tìm hiểu là đàng sau vụ Tư Chính có những chuyện gì xảy ra.
Nếu ta nhớ lại vụ chiếc HD981 năm 2014 hoạt động ngoài khơi đảo Lý Sơn, TQ cũng không "hút" được lít dầu nào ở khu vực này.
Vấn đề là song song với "biến cố HD981" TQ cho xây dựng 7 đảo nhân tạo. 
Việc TQ quân sự hóa 7 đảo nhân tạo (vốn chiếm của VN năm 1988) đã đe dọa an ninh quốc gia VN cũng như an ninh toàn khu vực.
Nhưng đó vẫn là "nghi vấn". Điều cần thiết, theo tôi GS Long cần giải thích thêm về nội hàm "quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông", đặc biệt trong trường hợp hiện nay VN và TQ ở vùng Tư Chính. Điều này sẽ giúp cho giới học giả VN về Biển Đông thêm cơ hội nghiên cứu để đóng góp vào công cuộc bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ cũng như quyền và lợi ích của VN ở hải phận EEZ và thềm lục địa của đất nước mình.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng và cách hành văn của tác giả, nhà nghiên cứu và biên khảo hiện đang sống tại Marseille, Pháp.
                                           —————————————————-
 Đối sách nào cho Việt Nam trong vụ bãi Tư Chính
Thiện Ý
Chúng tôi lần lượt trình bày tóm lược diễn biến vụ việc Bãi Tư Chính và đưa ra nhận định về đối sách của nhà đương quyền Việt Nam, sẽ là nội dung bài viết này.
I - DIỄN BIẾN VỤ VIỆC BÃI TƯ CHÍNH
Vụ việc khởi sự khi vào ngày 3-7-2019 và trước đó, tàu thăm dò "Hải Dương Địa Chất 8" và các tàu hộ tống cảnh sát biển của Trung quốc đã xuất hiện gần Bãi Tư Chính thuộc quần đảo Trường Sa, trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Sự thể này đã dẫn đến một cuộc đối đầu căng thẳng giữa các tàu của lực lượng hải cảnh Việt Nam và Trung Quốc trong mấy tuần qua vẫn đang tiếp diễn, ở nơi mà một công ty của Nga đang thực hiện hoạt động thăm dò dầu khí tại Lô 06.1 của Việt Nam ở Biển Đông theo hợp đồng ký với Việt Nam. Đó là công ty Rosneft của Nga thuê giàn khoan Hakuryu-5 của Công ty Khoan thăm dò Nhật Bản (JDC). Điều này làm người ta nhớ lại một vụ đối đầu căng thẳng khác vào năm 2014 liên quan đến một giàn khoan của Trung Quốc (Hải Dương 981 ) xâm phạm chủ quyền lãnh hải phía tây bắc Hoàng Sa của Viêt Nam, gây nên biểu tình bạo động của dân chúng lan rộng khắp Việt Nam.
Thông tin về vụ “đối đầu” căng thẳng giữa các lực lượng hải cảnh của Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu xuất hiện trên truyền thông quốc tế và mạng xã hội từ ngày 12/7, sau khi tờ the South China Morning Post dẫn nguồn tin từ nhà nghiên cứu về hải quân Trung Quốc của Mỹ, Ryan Martinson, dựa trên các dữ liệu theo dõi hàng hải. Theo nguồn tin này, 6 tàu hải cảnh, gồm 2 tàu của Trung Quốc và 4 tàu của Việt Nam, được trang bị kỹ càng đã “vờn nhau” trong suốt một tuần qua khi Bắc Kinh đưa tàu Hải Dương Địa Chất 8 vào khảo sát địa chất gần Bãi Tư Chính, thuộc đặc quyền kinh tế và do Việt Nam kiểm soát ở Biển Đông.
Theo Ông Ryan Martinson, chuyên gia về hải quân Trung Quốc của Trường Hải Chiến Hoa Kỳ cho biết, rằng tính tới ngày 23/7, các tàu hải cảnh của Trung Quốc “vẫn hoạt động gần giàn khoan dầu của Nhật ở phía tây Bãi Tư Chính”, trong khi tàu Haiyang Dizhi 8 “tiếp tục tiến hành khảo sát địa chấn tại Vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam ở phía tây quần đảo Trường Sa”.
Tình trạng tiếp tục căng thẳng hiện nay, là vì Trung Quốc tiếp tục khẳng định chủ quyền nơi đang có tranh chấp, căn cứ trên “bản đồ 9 đoạn” tự vẽ, dù đã bị Tòa án Quốc tế phủ nhận giá trị pháp lý cũng như thực tế trong bản án Philippine kiện Trung Quốc mấy năm trước đây (2013-2016). Vì thế, theo cách “vừa ăn cướp vừa la làng”, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng, tại cuộc họp báo hôm 17/7, yêu cầu Việt Nam “nghiêm túc tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc đối với các vùng lãnh hải liên quan và không có bất kỳ hành động nào làm phức tạp tình hình”.
Trong khi Việt Nam vẫn luôn xác nhận có đủ bằng chứng lịch sử, pháp lý và thực tiễn về chủ quyền của Việt Nam tại Bãi Tư Chính cũng như trên các vùng biển đảo thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Vì thế, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đã mạnh mẽ cáo buộc nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung quốc đã vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía nam Biển Đông. Hà Nội cũng nói đã trao công hàm phản đối cho Bắc Kinh và khẳng định lực lượng chấp pháp sẽ tiếp tục “triển khai nhiều biện pháp phù hợp” nhằm bảo vệ vùng biển Việt Nam. Trả lời báo chí trong cuộc họp báo ngày 19/7, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nói: “Trong những ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông. Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên”.
II - ĐỐI SÁCH CỦA VIỆT NAM?
Theo nhận định của chúng tôi, đối sách của Việt Nam đi từ dè dặt lúc đầu, đến thái độ và lời nói mạnh bạo sau đó, nhưng vẫn tỏ ra mềm dẻo trong hành động đối ứng thực tế để tránh một cuộc đụng độ quân sư không cân sức, bất lợi cho Việt Nam.
1 - Vì dè dặt lúc đầu, vốn là cách ứng xử bao lâu nay của nhà cầm quyền Việt Nam, nên người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng khi lên tiếng tố cáo hành động xâm phạm chủ Việt Nam gần Bãi Tư Chính, đã không dám chỉ đích danh Trung Quốc, (như trước đây từng tránh né không giám tố cáo đich danh tàu Trung quốc đâm chìm tàu đánh bắt cá và sát hại ngư dân Việt Nam, mà chỉ gọi là “Tàu lạ”). Trả lời câu hỏi của truyền thông hôm 16/7, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam chỉ nói chung chung có tính nguyên tắc, rằng "Như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển ở Biển Đông được xác định theo đúng các quy định của Công ước của LHQ về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và các nước ở Biển Đông đều là thành viên. Do đó, mọi hoạt động của nước ngoài trên các vùng biển Việt Nam phải tuân thủ các quy định có liên quan của UNCLOS, pháp luật Việt Nam.”
2 - Thế nhưng chỉ ba ngày sau, Việt Nam đã có thái độ và lời nói mạnh bạo và cứng rắn. Qua cuộc họp báo ngày 19-7-2019, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã đưa ra chỉ trích sắc bén hơn bằng cách nêu đích danh Trung Quốc “đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam” trong khu vực Biển Đông. Trả lời báo chí trong cuộc họp báo này, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, Lê Thị Thu Hằng nói: “Trong những ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông. Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên…”.
Những động thái trên được đánh giá là hiếm hoi trong những phản ứng chính thức của Việt Nam đối với những hành động được cho là “khiêu khích” của Trung Quốc trong những năm gần đây. Theo nhận định của chúng tôi, động thái hiếm hoi này có lẽ là do Việt Nam đã đo lường trước được một sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Hoa Kỳ, do chính sách “Xoay trục đối ngoại” tịnh tiến về phía Hoa Kỳ mà thực tế đã có những dấu hiệu trao đổi song phương về ngoại giao và quân sự khả tín, nhất là các hoạt động cụ thể trong những tháng gần đây trong nỗ lực đi từ hợp tác toàn diện đến hợp tác chiến lược toàn diện(như chúng tôi đã trình bày chi tiết trong bài viết mới đây trên diễn đàn này).
Chẳng thế mà, chỉ một ngay sau tuyên bố cứng rắn của Việt Nam, Hoa Kỳ đã mau chóng lên tiếng bảo vệ Việt Nam. Ngày 20-7-2019 Bộ Ngoại giao Mỹ đã ra một Thông báo khá dài cho thấy một sự ủng hộ gần như rõ ràng đối với Việt Nam trong một tranh cãi gay gắt với nước láng giềng và thể hiện lập trường mạnh mẽ của Mỹ về vụ việc được nói là tàu Trung Quốc cản trở hoạt động dầu khí của các nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông. Nội dung Thông báo này, đã lên án Trung Quốc bằng những lời lẽ đanh thép, cáo buộc nước này có “hành vi bắt nạt” và “làm suy yếu hòa bình và an ninh khu vực” giữa lúc tàu khảo sát địa chất của Trung Quốc tiếp tục hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở phía nam Biển Đông.
Thông báo của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ có đoạn viết “Việc Trung Quốc cải tạo và quân sự hóa các tiền đồn đang tranh chấp ở Biển Nam Trung Hoa, cùng với những nỗ lực khác để khẳng định các yêu sách hàng hải bất hợp pháp ở Biển Nam Trung Hoa, bao gồm việc sử dụng dân quân hàng hải để hăm dọa, cưỡng ép và đe dọa các quốc gia khác, làm suy yếu hòa bình và an ninh của khu vực…”
Và rằng “Mỹ kiên quyết phản đối sự cưỡng ép và đe dọa của bất kì nước tuyên bố chủ quyền nào nhằm khẳng định các yêu sách lãnh thổ hoặc hàng hải của mình.
“Trung Quốc nên chấm dứt hành vi bắt nạt và kiềm chế thực hiện loại hoạt động khiêu khích và gây bất ổn này…”
Cố vấn An ninh Quốc gia Nhà Trắng John Bosten hôm thứ Sáu 18-7 cũng viết trên Twitter với ý tương tự nhắm vào Trung Quốc dù không nhắc cụ thể tới vụ tranh chấp với Việt Nam, rằng “Hành vi cưỡng ép của Trung Quốc đối với các nước láng giềng Đông Nam Á là phản tác dụng và đe dọa hòa bình & ổn định trong khu vực…”. Đồng thời trên thực tế, Tư lệnh Tuần duyên Mỹ Karl L. Schultz cũng nhấn mạnh với báo chí hôm 23/7 rằng Tuần duyên Mỹ (USCG) tiếp tục quan hệ hợp tác với Cảnh sát biển Việt Nam và tái khẳng định cam kết lâu dài đối với an ninh khu vực trong bối cảnh tình hình Biển Đông tiếp tục phức tạp. Ông nói “Chúng tôi đang hợp tác rất chặt chẽ với Việt Nam và Hà Nội đã tăng cường sức mạnh của lực lượng cảnh sát biển lên rất nhiều.
Mặt khác, phản ứng mạnh bạo bất thường của Việt Nam còn là do đánh giá được phản ứng của Trung Quốc bị hạn chế bởi vùng tranh chấp lần này ở một vị trí đang có một công ty khai thác dầu khí của Nga với kỹ thuật khai thác dầu khí của một công ty Nhật. Vì thế, Trung Quốc không dám hung hăng ra tối hậu thư như vài năm trước đây, đã ép buộc Việt Nam không được để cho công ty Epson của Tây Ban Nha tiếp tục hợp đồng khai thác dầu khí ở một lô nằm trong thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Mặc dầu cho đến lúc này, chính phủ Nga vẫn giữ im lặng. Nhưng theo nhận định của Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu kỳ cựu tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS-Yusof Ishak có trụ sở ở Singapore, Nga không lên tiếng, nhưng sẽ không bao giờ rút giàn khoan như công ty khai tháp dầu khí của Tây ban Nha, mà sẽ khai thác cho đến khi hết cạn túi dầu. Ông nói với VOA, rằng “Có thể khẳng định rằng người Nga có nói gì hay không nói gì thì doanh nghiệp Nga đó chỉ rút về khi hết dầu, hết khí thôi. Tức là họ sẽ không rút. Người Nga khai thác ở vùng biển Việt Nam từ năm 1978. Người Nga người ta rất hiểu luật. Họ có tuyên bố, có nói gì hay không, cũng không thay đổi hiện trạng là công ty Rosneft và công ty khác của Nga không bao giờ người ta rút cả”.
Chính vì những yếu tố có được trong quan hệ với Hoa Kỳ và sự có mặt của hai công ty Nga, Nhật nơi vùng đang tranh chấp, cũng như biết được hành động ngang ngược của Trung Quốc mang tính thăm dò phản ứng các bên có liên quan, Việt Nam đã quốc tế hóa được việc giải quyết tranh chấp đa phương, đo lường được mức độ phản ứng của Trung Quốc nên mới dám tỏ thái độ cương quyết, mạnh bạo như thế. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam trong cuộc họp báo ngày 19-7 nói “Duy trì trật tự, hòa bình, an ninh ở khu vực Biển Đông là lợi ích chung của các nước trong và ngoài khu vực cũng như cộng đồng quốc tế,” Và “Do đó, Việt Nam mong muốn các nước liên quan và cộng đồng quốc tế cùng nỗ lực đóng góp nhằm bảo vệ và duy trì lợi ích chung này."
3 - Tuy nhiên Việt Nam vẫn tỏ ra mềm dẻo trong hành động đối ứng thực tế để tránh một cuộc đụng độ quân sự không cân sức với Trung Quốc, bất lợi cho Việt Nam.
Cung cách đối ứng mềm dẻo này, đã được người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam lặp lại chủ trương của Việt Nam từ trước tới giờ là giải quyết tranh chấp, bất đồng, bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế và Công ước quốc tế về Luật Biển (UNCLOS). Trong vụ giai quyết tranh chấp hiện hiện nay trên thực tế, người phát ngôn nói là Việt Nam đang theo đuổi các kênh ngoại giao, vận động quốc tế. Nhưng không rõ có nối tiếp hành đồng pháp lý là kiện Trung Quốc trước Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) như Philippine đã khởi kiện năm 2013 và thắng kiện Trung Quốc năm 2016. Mặc dầu phán quyết này không buộc được Trung Quốc thi hành và cơ quan tài phán này cũng không thể có biện pháp cưỡng hành. Thế nhưng ít ra cũng có thêm bằng chứng pháp lý trong hồ sơ bảo vệ chủ quyền biển đảo thuộc hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam để trong tương lai, khi có thời cơ thuận lợi, sẽ đòi lại các đảo bị Trung Quốc cưỡng đoạt bằng giải pháp pháp lý.
Bên lề Hội nghị Biển Đông thường niên lần thứ 9 do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) tổ chức ở Washington D.C. hôm 24/7 bà Bonnie Glaser, Giám đốc Chương trình Sức mạnh Trung Quốc tại CSIS, đã trả lời VOA về làm sao Việt Nam có thể ngăn ngừa những vụ xâm phạm tương tự như thế trong tương lai, bà nói ‘khởi sự kiện Trung Quốc sẽ là một bước đi rất hay’. Và rằng “Đó sẽ là một bước đi rất quan trọng và tôi sẽ không đánh giá thấp tác động của nó (đối với Trung Quốc) ”.
III - KẾT LUẬN
Trước hành động ngang nhiên đưa tàu thăm dò "Hải Dương Địa Chất 8" và các tàu hộ tống cảnh sát biển của Trung quốc vào gần Bãi Tư Chính thuộc quần đảo Trường Sa,trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.Đối sách của Việt Nam đi từ dè dặt lúc đầu, đến thái độ và lời nói mạnh bạo sau đó, nhưng vẫn tỏ ra mềm dẻo trong hành động đối phó thực tế để tránh một cuộc đụng độ quân sư không cân sức, bất lợi cho Việt Nam.
Nhưng hiệu quả của đối sách này thế nào: liệu Trung Quốc có rút êm các tàu của họ vô điều kiện hay có điều kiện gì? Hay trong tình thế căng thẳng hiện nay liệu có dẫn đến nguy cơ nổ súng như Ts Hà Hoàng Hợp lo ngại“Sẽ đến lúc mà không kiềm chế được là sẽ có bắn nhau. Nó sẽ xảy ra như thế nếu như người Trung Quốc trong thời gian tới không rút…”. Tất cả đều ở phía trước, chúng ta hãy chờ xem, hiệu quả thực tế không lâu lắm đâu.
Thiện Ý
Houston, ngày 25-7-2019

Không có nhận xét nào: