Như đã trình bày trong bài viết về đơn vị Nghiên cứu và Quan sát (SOG)-một đơn vị thống thuộc bộ chỉ huy Yểm trợ Quân sự Hoa Kỳ tại VN (MACV) được thành lâp vào đầu năm 1964 với cái tên gọi tắt là MACV-SOG, từ khi khởi sự hoạt động vào tháng 2/1964, các toán tình báo chiến lược của đơn vị này đã xâm nhập vào nhiều khu vực quân sự của CSBV tại Miền Bắc, và thu thập được nhiều thông tin có giá trị. Ngoài hoạt động của đơn vị SOG trong lòng địch, từ năm 1966, đại tướng Westmoreland, chỉ huy MACV kiêm tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại VN nhận định rằng cần phải có các cuộc hành quân quy mô để triệt hạ các căn cứ địa của CSBV tại Lào và bên kia giới Việt Nam-Căm Bốt, do đó vị tướng này đã chỉ thị cho bộ tham mưu của ông nghiên cứu kế hoạch thực hiện các cuộc hành quân để nới rộng hoạt động hành quân ngoại biên khi được Hoa Thịnh Đốn cho phép. Có tất cả ba kế hoạch đã được soạn thảo trong các năm 1966, 1968 nhưng không tiến hành được (chi tiết về các kế hoạch này đã được trình bày trong bài viết Liên quân Việt Mỹ, 3 kế hoạch tấn công mật khu CSBV tại Lào).<!>
Theo tài liệu của đại tướng Westmoreland, khi ông Henry Cabot Lodge trở lại Việt Nam vào mùa hè 1965 để đảm nhận chức vụ đại sứ Hoa Kỳ tại VNCH lần thứ hai, ông rất hăng hái muốn xúc tiến ngay kế hoạch này nhưng Tổng thống Johnson và bộ Quốc phòng Hoa Kỳ còn ngần ngại.
* Cuộc hành quân Shining Brass và Kế hoạch Phù Đổng:
Trong thời gian chưa được phép tiến hành các cuộc hành quân quy mô bằng các đại đơn vị bộ chiến để tấn công CSBV trên đất Lào, đại tướng Westmoreland đã xin Hoa Thịnh Đốn cho phép Lực lượng Hoa Kỳ tại VN được phối với QL.VNCH tiến hành các cuộc hành quân trinh sát thu nhập tin tức CSBV tại bên kia biên giới Việt-Lào. Sau khi đề nghị này được chấp thuận, vào tháng 9/1965, Liên quân Việt-Mỹ khởi động kế hoạch có tên là Shining Brass với các cuộc hành quân tình báo trinh sát xâm nhập vào các căn cứ địa của CSBV tại Lào. Nỗ lực chính trong các cuộc hành quân này là các toán Lực Lượng Đặc biệt hỗn hợp Việt-Mỹ. Thực hiện kế hoạch, các toán thám kích LLĐB Việt-Mỹ đã khai triển và tối tân hóa các cuộc hành quân trinh sát bằng nhiều trang bị mới, giao chiến công khai với quân CSBV và Pathet Lào, trong nhiều trường hợp, đã điều động B- 52 đến oanh tạc. Kế hoạch này là quy mô hóa, hệ thống hóa các hoạt động thám kích, tấn kích, không kích nhằm ngăn chận CSBV xâm nhập qua ngã Lào vào miền Nam Việt Nam mà trước đó bộ phận SOG đã có những hoạt động ở tầm mức nhỏ. Đến năm 1967, Kế hoạch Shining Brass được đặt tên là Prairie Fire và sau cùng là Phù Đổng ngày 8 tháng 4-1971.
Ngày 26 tháng 1/1967, đại tướng Westmoreland cho tiến hành thêm kế hoạch mở rộng hơn với các cuộc hành quân trinh sát mang ký danh là hành quân Prairie Fire nhằm xâm nhập sâu và ở lâu tại Lào để gầy dựng một tổ chức kháng chiến trong nội bộ một số người sắc tộc. Đến giữa tháng 3, ông Ellsworth Bunker, 74 tuổi, nguyên đại sứ Hoa Kỳ tại Nam Dương được cử sang thay đại sứ Cabot xin từ chức, vị tân đại sứ này ngần ngại nên kế hoạch mở rộng Prairie Fire bị khựng lại, tuy nhiên các cuộc hành quân trinh sát cùng mang tên Prairie dọc theo biên giới do LLĐB Việt-Mỹ làm nỗ lực chính vẫn được tiếp tục, nhưng các đơn vị Mỹ bị Quốc hội Hoa Kỳ cấm vượt biên qua Lào như trước đây.
* Cuộc hành quân Daniel Boone của LLĐB Việt-Mỹ
Cùng với kế hoạch Prairie Fire tiến hành trên đất Lào, từ tháng 6 năm 1966, bộ Tham mưu Liên quân Hoa Kỳ tại Hoa Thịnh Đốn cho phép đại tướng Westmoreland lập kế hoạch mở rộng hành quân trinh sát ngoại biên sang khu vực bên kia biên giới Việt-Căm Bốt bằng việc sử dụng LLĐB. Ngày 27 tháng 6/19966, kế hoạch này được thi hành với cuộc hành quân bí mật mang tên là Daniel Boone. Theo lệnh của đại tướng Westmoreland, các đơn vị tham dự cuộc hành quân không được hoạt động bao trùm cả khu biên giới, chỉ quanh quẩn ở khu sông Se San mãi cho đến tháng 5/1967. Đến tháng 10/1967, cuộc hành quân Daniel Boone mới tiến hành các cuộc tuần thám đi sâu vào đất Cam Bốt 20 km dọc theo biên giới, và sau đó được phép đi sâu vào 30 km. Đường biên giới chia thành 2 vùng: Vùng Alpha từ Lào chạy xuống Snoul, vùng Bravo chạy dài từ Snoul xuống tới Vịnh Thái Lan. Tuy nhiên các hoạt động thám báo tại vùng Bravo phải được sự chấp thuận của Tổng thống Hoa Kỳ.
Theo tài liệu của Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ thì các tin tức tình báo gửi về cho MACV-SOG đã không được khai thác và sử dụng.. Suốt năm 1967, các toán LLĐB tham dự cuộc hành quân Daniel Boone đã báo cáo rằng quân CSBV đã tăng cường lực lượng phòng thủ để biến khu Lưỡi Câu nằm giữa Cam Bốt và Nam Việt Nam thành một hậu cần mạnh để sau đó trở thành nơi xuất phát và chỉ huy cuộc tổng tấn công của CQ trong Tết Mậu Thân 1968. Sau khi nhận được báo cáo của bộ chỉ huy LLĐB Hoa Kỳ tại VN (Liên đoàn 5 LLĐB), đại tướng Westmorelanf đã xin phép Hoa Thịnh Đốn cho ông được điều động khẩn cấp LLĐB vượt biên sang tiêu diệt khu hậu cần Lưỡi Câu của CSBV nhưng đã bị từ chối.
Sau đó, Kế hoạch Daniel Boone được đổi tên là Salem House và đến tháng 12/1968, mọi giới hạn công tác của kế hoạch được giải tỏa. Khu biên giới Cam Bốt được chia thành 3 vùng, trong đó vùng Bravo được chia làm hai. Vùng mới được gọi là Charlie, hoặc là miền Trung Salem House, chạy dài từ Snoul đến thị xã Prey Veng, trong khi khu Bravo, hoặc miền Nam Salem House, chạy dài từ Prey Veng xuống tới vịnh Thái Lan. LLĐB được tự do hoạt động ở khu Alpha phía Bắc giáp ranh Lào nhưng ở khu Bravo phải được phép của Tổng thống Hoa Kỳ như đã trình bày ở trên. Trong năm 1969, Tổng thống Nixon đã cho phép LLĐB một lần hành quân vào khu vực này.
Ngày 8 tháng 4/1971, Kế hoạch Salem House được đổi thành kế hoạch Thốt Nốt. Ngoài hai kế hoạch Salem House và Prairie Fire, LLĐB còn gửi các toán xâm nhập khu Phi Quân Sự Bến Hải với các kế hoạch Nickel Steel và kế hoạch Bright Light có toán chuyên cứu tù binh và tìm người thất lạc, vượt ngục.
* Các cuộc hành quân do MACV-SOG điều hợp:
Để tiến hành các kế hoạch tình báo chiến lược, bộ chỉ huy MACV-SOG sử dụng các trại biên giới do LLĐB phụ trách để xuất phát các cuộc xâm nhập, ngoài ra còn một số nơi khác như Nakhon Phanom bên Thái Lan cũng được dùng để chuẩn bị đưa người xâm nhập. Các trung tâm huấn luyện tại Khâm Đức và Long Thành huấn luyện LLĐB Việt Nam và người sắc tộc thiểu số để sử dụng trong các chuyến công tác cảm tử. Trong khi đó, người địa phương được tuyển chọn theo quy chuẩn trung thành và tác chiến rừng rậm xuất sắc, một số đại đội phòng thủ và phản công đều chọn từ lực lượng Mikes Force (Biệt kích quân Tiếp ứng) đưa qua.
Ngày 1-11-1967, hai kế hoạch Omega và Sigma được sát nhập làm một và tái cấu trúc lại với ba bộ chỉ huy phụ trách ba vùng biên giới. Một ở Đà Nẵng, một ở Kontum và một ở Ban Mê Thuột.
Các toán công tác đặc nhiệm thuộc quyền điều động của MACV-SOG thường được giao những nhiệm vụ như sau: dò đường bộ, đường sông, đặt mìn, quấy rối và phục kích: bắt tù binh, gài bom, chụp hình, gài giây truyền tin, hướng dẫn pháo binh và phi cơ oanh kích, hạn chế giao tranh với CQ. Mỗi toán gồm 3 LLĐB Mỹ, 9 Biệt kích quân người Thượng VN, mỗi chuyến công tác, toán được bốn trực thăng hỏa lực và 1 phi cơ quan sát yểm trợ, về chuyển vận có 4 trực thăng đổ quân gồm 1 trực thăng CNC, 1 trực thăng đổ quân, hai trực thăng trừ bị sử dụng để bốc phi hành đoàn và toán đổ quân trong trường hợp trực thăng đổ quân bị rớt hoặc gặp phải hỏa lực mạnh của đối phương. Tuy nhiên khi cần, bộ chỉ huy MACV-SOG cũng có thể điều động các toán thành một đơn vị tác chiến, từ một đến ba trung đội, để tấn công và phục kích địch, an ninh tuần tiểu giữ an ninh cho các căn cứ, tiếp cứu các toán tình báo khi nhận được sự yêu cầu yểm trợ khẩn cấp.
MACV-SOG cũng còn một bộ phận Nhảy Dù mang tên SOG-36 thi hành các nguyên tắc công tác vượt biên tình báo. Các chuyến thám báo nhảy dù vào vùng địch gặp nhiều nguy hiểm nhưng thành công lớn như phá nổ các kho đạn địch, triệt các ổ súng cối, súng máy của CQ làm cho địch quân mất tinh thần, không ngờ là các toán nhảy dù thám báo đã bí mật phá hoại. Ngày 23-2-1970, bộ Tham mưu Liên quân Hoa Kỳ quyết định chấm dứt chương trình này, nên ra lệnh cho MACV-SOG ngưng các chuyến công tác nói trên.
Nhận định về hoạt động của các chuyến công tác và tình báo của các đơn vị nói trên, đại tá Roger M.Pezzelle, một sĩ quan cao cấp của MACV-SOG đã phát biểu như sau: Sự thật là suốt lịch sử MACV-SOG, cuộc chiến tranh không quy ước đã không được thi hành trọn vẹn vì một số lý do. Lý do quan trọng nhất là thời hạn phục vụ 1 năm quá ngắn gây hậu quả không tốt khó tránh khỏi cho lối chiến tranh quy ước này. Đại diện cho MACV-SOG, tôi phải nói rằng các chuyến công tác tình báo và các nhiệm vụ khác tuy chưa được công bố nhưng bảo đảm thành công mỹ mãn. MACV-SOG là một mô thức áp dụng LLĐB lần đầu tiên vào công tác tình báo chiến lược trên bộ và phá hoại địch. Thành công của LLĐB trong mô thức này được các phối hợp với các kế hoạch phòng thủ trong và ngoài với quan niệm mở rộng phạm vi thám báo càng xa căn cứ thì càng an toàn bấy nhiêu. (Biên soạn dựa theo tài liệu của Lực lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ, hồi ký của đại tướng Westmoreland-nhà xuất bản Thế giới, một số bài viết trong tạp chí KBC, đặc san Biệt Cách Nhảy Dù…)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét