Tâm mơ màng rồi từ từ mở mắt. Tiếng sóng biển dạt dào xa xa, gió đùa qua những rặng phi lao và những vì sao mờ nhạt lác đác trên nền trời xanh thẫm khiến chàng định hướng tổng quát được vị trí của mình. Vết thương trên mặt, trên cổ rát rạt vì nước biển mà có lẽ vì vậy, không tấy độc lên chăng. Chàng nằm yên lặng, hé mắt nhìn bầu trời qua những ngọn cây đang lay động theo làn gió. Trời còn tối quá! Mặt cát ẩm ngấm dần vào thân thể khiến toàn thân chàng lạnh ngắt và cứng đờ, Tâm cố gắng quay nhẹ đầu qua một bên, ngoài xa, những ánh đèn ghe đánh cá mờ nhạt.
<!>
Chỗ này là chỗ nào? Mình đang ở gần một làng đánh cá chăng? Tâm nghĩ. Đầu óc chàng chưa tỉnh nên khó thể nhớ được gì lúc này. Chàng lại quay đầu nhè nhẹ về bên phải, chỉ thấy trời tối đen và mờ mờ những bụi cây cao lao xao trong gió biển. Thỉnh thoảng, nhiều tràng đạn nổ xa xa, đạn đạo vạch những đường lửa vòng cung trên nền trời ngang qua chỗ chàng nằm. Tiếng súng nổ gợi chàng nhớ lại dần dần…
Sau khi bỏ ngỏ Vùng I Chiến Thuật, hầu hết quân dân Vùng I và Vùng II được di tản về Nha Trang bằng các chiến hạm hải quân lớn như Dương Vận Hạm (LST) mang số HQ 502 đến HQ 505, HQ 801; Tuần Dương Hạm (WHEC và DER) như HQ 2, HQ 3, HQ 5 và HQ 17; Hải Vận Hạm (LSM) mang số HQ 402 đến HQ 404, các Hộ Tống Hạm như HQ 7 và HQ 12, Trợ Chiến Hạm HQ 230 và các Tuần Duyên Hạm PGM.
Khoảng sáng ngày 29 tháng 3 năm 75, các chiến hạm thuộc Vùng II Duyên Hải được lệnh di tản sau khi đón thêm dân chúng và các chiến sĩ Sư Đoàn 3, Sư Đoàn 23 Bộ Binh, Sư Đoàn TQLC và Sư Đoàn I Không Quân lên đầy những con tàu xám đậu ngoài khơi Qui Nhơn. Tâm là Hải Quân Trung Úy, hiện làm thuyền trưởng một chiếc Duyên Tốc Đỉnh (PCF), mới đổi về Hải Đội 2 Duyên Phòng đóng tại Qui Nhơn khoảng nửa năm. Tuy có nhiều Duyên Tốc Đỉnh thuộc các hải đội duyên phòng Vùng I Duyên Hải và Vùng II Duyên Hải hiện diện tại bãi biển Qui Nhơn, nhưng PCF thường được xử dụng như lực lượng yểm trợ, liên lạc, hộ tống hoặc làm con thoi đưa rước quân dân ra các chiến hạm ngoài khơi. Duyên Tốc Đỉnh cũng giữ nhiệm vụ tuần tiễu gần bờ làm rào cản và yểm trợ an ninh cho các Hải Vận Hạm ủi bãi đón quân nhân cùng dân chúng trong bờ ra các chiến hạm lớn đậu ngoài biển.
Số quân nhân và dân chúng tụ tập trên bờ quá đông lẫn lộn với đủ loại xe cơ giới như thiết giáp, xe lội nước M 113, quân xa, xe dân sự, xe gắn máy… Sở dĩ các chiến hạm đậu xa bờ biển vì bờ biển Qui Nhơn thoai thoải và nông chỉ thích hợp cho các hải vận hạm hoặc tiểu đĩnh đổ bộ ủi bãi mà thôi. Hơn nữa, vì vấn đề an ninh nên vị Tư Lệnh Vùng II Duyên Hải kiêm Tư Lệnh Tiền Phương là Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh ra lệnh cho tàu lềnh bềnh ngoài biển để tránh tình trạng một số quân dân di tản ùa lên tàu hoặc uy hiếp tàu hải quân tách bến trở về các thành phố chưa bị bỏ ngỏ. Đấy là một quyết định sáng suốt, rút kinh nghiệm từ cuộc di tản quân dân từ Huế và Đà Nẵng tại bãi biển Thuận An, nhằm mục đích giữ an ninh cho con tàu, sinh mạng thủy thủ đoàn cùng tất cả quân nhân và dân chúng đang hiện diện trên các chiến hạm.
Mấy hôm trước, khi các tàu hải quân được lệnh di tản quân dân Vùng I tại bãi biển Thuận An, một số quân nhân vô kỷ luật đã bất chấp lệnh cấp chỉ huy, bất chấp đám đông đồng đội và dân chúng đang đợi chiến hạm vào đón, cho chiến xa lội nước cán bừa lên đám đông để dành ra khơi trước, tiến về các chiến hạm chưa kịp vào sát bờ. Hành động man rợ đó đã gây tử nạn và thương tích cho nhiều quân nhân và thường dân vô tội và khiến hạm trưởng các chiến hạm hải quân hoảng sợ phải rút ra khơi. Tuy dành được ưu tiên nhưng chiếc M 113 này đã bị mấy phát đại bác trừng phạt đích đáng từ chiếc xe tăng của chính đồng đội trên bờ bắn nổ tung rồi chìm lỉm trong lòng biển trước khi nó kịp đến chiến hạm. Người quân nhân VNCH chân chính một đời chấp nhận gian khổ bảo vệ chính nghĩa quốc gia, bảo vệ miền Nam và đời sống tự do no ấm cho người dân miền Nam không bao giờ chấp nhận hành động vô kỷ luật và thái độ coi thường sinh mạng người dân như vậy!
Dù đã đề phòng cẩn mật mà hôm 29 tháng 3, ngay tại bãi biển Tiên Sa, khi 2 chiếc HQ 402 và 403 đang tiến vào bờ thì tình trạng hỗn loạn xảy ra: vài Thiết Vận Xa M 113 tiến lên dành chỗ trước, giây xích sắt nghiến lên thân xác đám đông đang chờ đợi mặc dù các chiến hạm gọi loa báo cho biết tàu sẽ tuần tự vào nhiều lần đưa đón quân dân ra tàu lớn một cách trật tự. Bãi biển Tiên Sa chỉ ổn định được mươi phút, khi HQ 402 và HQ 403 sửa soạn ủi bãi thì đám đông quân và dân đã mạnh ai người ấy ào ào lội ra leo lên chiến hạm.
Một lần nữa, các Thiết Vận Xa và GMC lại cán bừa lên quân dân để tiến lên tàu. Hành động hỗn loạn, vô trách nhiệm đó gây kinh hoàng chết chóc cho bao nhiêu người dân vô tội và những loạt đạn nả vào 2 chiến hạm đe dọa sự sinh tồn của HQ 402 và HQ 403 nên 2 chiến hạm này phải rút ra khơi mặc cho đám đông vật lộn với xe lội nước dành nhau lên tàu. Cảnh máu hòa nước đỏ một vùng biển Tiên Sa lẫn với những xác người, những mảnh thân thể bị chân vịt chiến hạm chém đứt trồi lên hụp xuống theo giòng nước xoáy gieo trong óc Tâm ấn tượng hãi hùng khó gột rửa.
Khoảng 5 giờ chiều cùng ngày, hạm đội di tản hiện diện tại vùng biển Qui Nhơn được lệnh tác xạ phá hủy những bồn dầu tại ngã ba Quốc Lộ 1 và đường vào thị xã Qui Nhơn trước khi khởi hành đưa dân di tản về Nha Trang. Mươi phút sau, những khẩu đại bác 127 ly và 76 ly trên các Tuần Dương Hạm WHEC, DER từ ngoài khơi lần lượt khai hỏa. Tiếng đại bác nổ vang và khói trắng tỏa lên trước mũi súng như những cụm mây nhỏ suốt gần nửa tiếng đồng hồ mới ngưng hẳn. Từ ngoài biển nhìn vào, Tâm chỉ thấy một khung cảnh hỗn độn gồm người cùng xe cộ đông nghẹt trên bờ cát vàng có hàng dừa xanh viền quanh nổi bật trên hậu cảnh là những cuộn khói đen và lửa đỏ đang bốc lên cao che một góc trời.
Đoàn tàu di tản khởi hành xuôi về Nha Trang bỏ lại đằng sau bãi biển Qui Nhơn mờ dần và biển khơi càng lúc càng mênh mông, màu nước càng thêm đậm. Giờ đây chỉ còn trời, biển và đoàn tàu lầm lũi tiến, thỉnh thoảng đoàn tàu vượt qua những chiếc ghe nhỏ hoặc tròn như chiếc thúng với những cánh tay nhỏ bé giơ lên vẫy gọi. Đến trưa hôm sau, đoàn tàu lại vượt qua một chiếc tàu giòng kéo theo 4 chiếc xà lan mà trên đó đầy nhóc những thường dân lẫn quân nhân mặc đủ loại quân phục với cả ba lô, súng ống. Những bàn tay đồng loạt đưa lên vẫy kêu cứu một cách tuyệt vọng khi đoàn tàu hải quân dửng dưng, bình thản rẽ sóng vì trên những con tàu lớn hay nhỏ nào cũng đã chở theo đầy người, quá số người con tàu có thể chở được.
Qua ống nhòm đeo trước ngực, Tâm nhìn thấy chữ Seapac trên chiếc tàu giòng chạy chậm như rùa bò vì phải kéo theo 4 chiếc xà lan quá nặng. Chàng cảm thấy bất nhẫn và thương tâm vô cùng vì đám đông trên những chiếc xà lan dường như đều kiệt sức có lẽ vì đói vì khát và chen chúc hỗn loạn trong lòng xà lan sắt nóng bỏng dưới cái nắng thiêu đốt nung người, đây đó vài tấm vải nhỏ giăng lên che đỡ nắng mưa. Đoàn tàu hải quân không dám chạy lại gần chiếc tàu giòng kéo mấy chiếc xà lan mà giữ khoảng cách an toàn xa xa. Khi qua khỏi chiếc tàu kéo xà lan rồi mà Tâm còn nghe những tiếng kêu cứu hòa lẫn tiếng chửi thề và cả những tiếng súng cá nhân nổ vang và những viên đạn rơi lõm bõm xuống biển hướng về đoàn tàu di tản.
Sau khi về đến vùng biển Nha Trang, Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh ra lệnh các chiến hạm tuần tiễu cẩn mật và chặn bắt các tầu lạ xâm nhập hải phận Vùng II từ Nha Trang đến Cam Ranh. Một số chiến hạm được lệnh vào Nha Trang chờ lệnh vì một tuyến phòng thủ mới có thể được thiết lập để chặn địch quân tại đây hoặc Phan Rang. Tuần tiễu ngoài biển, dùng ống nhòm nhìn vào bờ, Tâm thấy dọc theo bãi biển Nha Trang dài hàng mấy cây số, đông nghẹt người cùng xe cộ, nhiều ánh đèn xe chiếu thẳng ra khơi như ra dấu hiệu kêu cứu. Tuy nhiên, Tâm quan sát mãi khắp nơi mà vẫn chưa ghi nhận bóng dáng địch quân trên bờ.
Trên biển, bên ngoài Hòn Yến và Hòn Tre, thời gian này, Tâm thấy có nhiều tàu ngoại quốc treo cờ Trung Cộng, Nga Sô và các nước Cộng Sản ngang nhiên xâm nhập hải phận Việt Nam. Đa số những tàu hàng này có trọng tải lớn và vận tốc nhanh nên chiến hạm ta khó đuổi kịp chúng mà chiến hạm cũng không được lệnh bắn nên chúng nghênh ngang như thách đố. Ngày định mệnh của Tâm đã đến, một chiếc Hộ Tống Hạm chận đầu định khám xét chiếc tàu mang cờ đỏ có hình búa liềm Trung Cộng mà bọn chàng vẫn thấy nó theo sát hạm đội Hải Quân Việt Nam như hình với bóng từ lúc còn trong biển Vùng I. Do kinh nghiệm, chàng biết chiếc tàu Trung Cộng có thể là tàu gián điệp đang bám sát theo dõi Hạm Đội di tản. Liên lạc truyền tin được thiết lập, tín hiệu Morse đánh đi nhưng chiếc tàu Trung Cộng vẫn lướt đến vùn vụt khiến chiếc Hộ Tống Hạm phải vội né tránh sang một bên.
Chứng kiến cảnh đó, Tâm bừng bừng lửa giận, niềm kiêu hãnh của một dân tộc anh hùng, con cháu Thánh Tổ Trần Hưng Đạo trổi dậy trong lòng nhất là vào lúc vận nước ngửa nghiêng như hiện nay. Năm 74, Tâm phục vụ trên chiếc Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 tham dự Trận Hải Chiến Hoàng Sa khi Hạm Đội Trung Cộng xâm nhập lãnh hải, khiêu khích rồi đổ bộ chiếm mấy đảo thuộc Quần Đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đã hiên ngang tham dự trận hải chiến, đánh chìm 2 chiến hạm TQ và bắn hư hại nặng 2 chiếc khác và trả giá bằng chiếc HQ 10 bị chìm, Hạm Trưởng và Hạm Phó chết theo tàu. Tâm cùng nhiều đoàn viên khác được tàu bên ta vớt sau lệnh đào thoát của Hạm Trưởng. Giờ đây, một chiếc tàu hàng Trung Cộng lợi dụng cảnh “giậu đổ bìm leo” dám thách thức Hạm Đội Hải Quân Việt Nam và Tâm không thể chấp nhận được hành động khiêu khích này.
Thấy thủy thủ đoàn đang sẵn sàng trong nhiệm sở tác chiến, ra lệnh cho nhân viên chuẩn bị xong, lòng đầy tự tin, Tâm đẩy mạnh cần lái phóng thẳng vào hông trái chiếc tàu Trung Cộng, khẩu đại liên 50 ly đúp trước mũi nhắm vào thân tàu hàng TQ ngang tầm nước nhả đạn. Bị trúng đạn, có lẽ kinh ngạc vì bất ngờ bị tấn công, chiếc tàu hàng Trung Cộng đổi hướng qua trái rồi những tràng đạn đỏ lừ từ những ụ đại liên giấu đâu đó trên boong tàu nhắm hướng chiếc PCF xẹt đến. Đúng là chiếc tàu gián điệp Trung Cộng, trông bề ngoài như tàu hàng bình thường nhưng trang bị vũ khí và máy móc để theo dõi và chuyển tin tức điều quân bên ta cho Cộng Sản Bắc Việt. Những vết đạn lửa nối tiếp xẹt về hướng chiếc PCF đang chạy ngoằn ngoèo hình chữ chi, như một mũi tên bắn lao về hướng tàu Trung Cộng. Tiếng máy vô tuyến gắn trên phòng lái chiếc PCF bỗng vang lên:
– Tango 3456 để thằng này cho ta! Rời vòng chiến ngay lập tức! Nghe rõ trả lời!”
Thằng em Truyền Tin nhấn nút bấm trên ống liên hợp:
– Tango nhận rõ, Thẩm Quyền.
Khẩu đại liên sân sau lái lại nổ dòn, hòa với tiếng súng cối bắn thẳng, Tâm vừa bẻ tay lái qua trái rồi nhấn hết cần số, chiếc PCF ngóc đầu lên cao nhưng quá trễ, vận tốc chiếc tàu Trung Cộng nhanh hơn chàng nghĩ nhiều, mũi chiếc tàu TQ xấn tới tiện đôi chiếc PCF của Tâm thành hai và chàng văng xuống nước…
Vài tiếng sột soạt đâu đây kéo Tâm trở về hiện thực. Chàng lắng tai nghe ngóng. Tiếng sột soạt nho nhỏ rất gần trong đêm khuya tĩnh mịch sao mà vang to thế! Phản ứng tự nhiên khiến Tâm đưa tay lần xuống thắt lưng. Chàng vững bụng hơn khi bàn tay chạm vào bao súng Colt 45 vẫn đeo cạnh sườn. Chàng lần tay qua bên trái, chạm vào mấy quả lựu đạn lạnh ngắt. Tâm khẽ kéo bật nút vỏ khẩu súng, rút khẩu Colt 45 ra từ từ rồi khẽ kéo cơ bẩm lên đạn chờ đợi. Chợt tiếng chút chít vang lên, nhỏ dần rồi tắt nghẹn. Tâm thở nhẹ, nhưng chàng lại rợn người nghĩ thầm: “Chuột đi ăn đêm hay là bị rắn đớp rồi! Nếu vậy, mình nằm trong bụi này cũng chẳng an toàn!” Chàng cố nghiêng người qua bên phải rồi chống tay ngồi dậy, giương mắt nhìn kỹ chung quanh.
Cách chỗ chàng nằm chỉ khoảng vài thước là bãi cát, chàng nghe ngóng động tĩnh một lát xong bò dần xuống bãi cát. Cát biển mịn, sóng biển về đêm vẫn vỗ miên man từng đợt nhè nhẹ vào bờ cát và gió vẫn vi vu trên những ngọn phi lao cao khiến chàng tỉnh táo hơn. Chàng nhìn ra khơi tìm kiếm, ngoài khơi, nhiều chiến hạm lớn nhỏ đang hải hành xa xa, ngọn đèn hải hành sáng đỏ trên cột buồm khiến chàng thêm hy vọng, nhưng làm thế nào liên lạc được với các chiến hạm này? Ngoài khẩu Colt 45 và ba trái lựu đạn đeo trên thắt lưng, chàng không có hỏa pháo hay dụng cụ gì có thể làm tín hiệu liên lạc với chiến hạm. Tâm nghĩ chỉ còn cách kiếm phương tiện truyền tin với chiến hạm để họ vào cứu chàng, nhưng trời còn quá tối, quang hiệu cũng không, có lẽ phải đợi sáng vậy. Tâm đứng dậy, quan sát chung quanh, khung cảnh có vẻ quen thuộc dù rằng chàng rời Nha Trang đã mấy năm nay.
Tuy nhiên, chàng cảm thấy đỡ lo lắng hơn nên cúi lom khom bước lần theo bờ biển, ẩn sau những rặng cây và đám phi lao. Thỉnh thoảng vài bóng dừa thấp thoáng như ẩn như hiện dọc theo bờ biển. Chàng bỗng giật mình, rút khẩu Colt cầm tay, quỳ gối sát xuống nền cát nhìn về hướng một bóng đen nằm mọp trên triền cát ngay mực nước biển trườn lên. Hai bàn tay Tâm chập vào nhau, nắm chặt khẩu Colt hướng về bóng đen sẵn sàng nhả đạn. Nước biển vẫn đùa vào bờ mấp mé lay động bóng đen, nhưng tuyệt nhiên, bóng đen vẫn bất động. Tâm chột dạ nghi ngại, cẩn thận tiến dần đến rồi chàng dùng tay trái lật bóng đen ngửa lên, cúi sát xuống nhìn rồi bỗng giắt khẩu Colt vào bao, dùng hai tay xốc nách bóng đen kéo dần lên gần mép bờ cỏ.
Tâm đặt bóng đen nằm sấp dốc đầu xuống triền cát thoai thoải, đầu nghiêng về một bên, chàng nhấn trên lưng bóng đen nhiều lần. Nước bắt đầu trào ra cửa miệng, chàng nhấn trên lưng bóng đen vài lần nữa rồi lật ngửa bóng đen lên, bắt đầu làm động tác hô hấp nhân tạo. Dùng hai bàn tay đặt trên nhau và nhấn trên ngực bóng đen, Tâm lục lọi trong ký ức, cố nhớ lại cách làm hô hấp mà chàng đã thực tập về cứu thương. Chàng bắt đầu nhấn từ từ 4 lần, cúi xuống dùng hai ngón tay bóp mũi rồi hà hơi vào miệng bóng đen, cứ như thế một hồi lâu, bóng đen bỗng ho lên sặc sụa, nước trong bụng ọc ra lai láng, bóng đen bắt đầu cử động nhè nhẹ, Tâm kề tai bóng đen nói nhỏ:
– Suỵt! Suỵt! Anh Bá nằm yên! Đừng lo! Trung Úy Tâm đây!
Nói xong, Tâm dùng hai tay xoa hai cánh tay và hai chân cho Bá, Trung Sĩ Trọng Pháo trên chiếc Duyên Tốc Đỉnh của chàng. Cũng may, ngoài chân trái bị thương nhẹ, mình mẩy Bá không hề bị vết thương nào khác. Tâm vừa xoa cánh tay cho Bá vừa nhớ lại diễn tiến cuộc đụng độ vừa xảy ra. Thật may, chàng lại gặp Bá trong lúc này, nhưng còn thủy thủ đoàn gồm 5 nhân viên khác chẳng biết sống chết ra sao! Hy vọng, nhân viên của chàng vẫn sống sót và được các chiến hạm bạn cứu thoát, Tâm thầm cầu mong.
Lát sau, Bá lồm cồm ngồi dậy hỏi nhỏ:
– Cảm ơn Trung Úy cứu tôi. Thật may! Đây là chỗ nào Trung Úy?
Tâm thì thầm:
– Tôi chưa nhận ra nhưng có vẻ quen thuộc lắm. Anh khỏe chưa Bá?
– Đỡ nhiều rồi, chân có thể bị gẫy. Tuy thế, chúng mình vẫn còn sống sót, Trung Úy.
Tâm gật đầu trong bóng đêm, rồi chừng như chợt nhận ra sự ngô nghê của mình, chàng nói nhỏ:
– Ừa! Tàu Trung Cộng chạy quá nhanh, tôi ước đoán sai vận tốc của nó. Nếu tôi nghĩ không lầm thì đó là một chiến hạm của nó ngụy trang tàu hàng.
Bá đồng ý:
– Chắc vậy. Tôi phóng mình xuống biển khi thấy chiếc tàu TQ như trái núi đâm vào tàu mình. Không hiểu sau đó ra sao. Tôi tin rằng chiếc tàu TQ chạy không thoát hạm đội mình đâu.
Thì ra Bá bị ngất đi, có lẽ vì bị chấn động quá mạnh khi chiếc chiến đĩnh của chàng bị chiếc tàu hàng Trung Cộng cắt làm đôi chìm lỉm rồi được giòng nước đẩy vào bờ cát như chàng.
Nhớ lại lần bị nạn năm trước, giọng Tâm trở nên bùi ngùi:
– Trận Hoàng Sa, HQ 10 bị mấy chiến hạm TQ xúm lại bắn. Nếu không, chắc gì HQ 10 đã chìm. Tôi nhớ mãi Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà, Hạm Phó và vài nhân viên ở lại chết theo tàu.
Gằn giọng xuống, chàng tiếp luôn:
– Thấy cờ búa liềm trên tàu Trung Cộng là tôi chỉ muốn nạp cho nó vài quả cho chìm luôn để rửa hận.
Bá trầm ngâm không nói năng. Tâm cũng lặng thinh nghĩ ngợi. Lát sau, Bá ngập ngừng lên tiếng:
– Bây giờ, mình tính sao, ông Thầy?
Tâm đáp như đã có chủ đích:
– Tìm đường xuống Cầu Đá xem chiến hạm mình cập tại đó không. Nếu gặp thì tốt, còn không, mình đón ghe nhờ đưa về chiến hạm.
– Vậy mình đi hướng nào, Trung Úy?
Tâm dìu Bá đứng lên, nhìn hòn đảo bên tay trái rồi chỉ tay về phía trước mặt. Bá đứng chưa vững nên Tâm phải dìu. Cả hai bước thấp bước cao trên giải cát men theo bờ đất. Khoảng gần 1 tiếng đồng hồ sau, đang đi, Tâm bỗng reo nhỏ:
– Gần đến Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân rồi anh Bá ơi! Anh nhìn thấy tượng đài đức Thánh Tổ in trên nền trời phía trước không?
Bá nhìn theo ngón tay Tâm chỉ, vui vẻ diễu:
– Đúng là Thánh Tổ đang chỉ tay ra lệnh cho mình về tàu.
Tâm cũng bật cười trêu người thuộc cấp gan lỳ, trung hậu hay diễu này:
– Thánh Tổ bảo anh tìm đường về với vợ con, tàu đang đợi ngoài biển kìa.
Cả 2 cùng cười nho nhỏ…
2 người đã đến khu vực Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận và còn khoảng vài chục thước nữa là đến Công Viên Trần Hưng Đạo. Ánh đèn điện trên đường chiếu bóng đen tượng đài Thánh Tổ Hải Quân đổ xuống bãi cát trước mặt biển, che một nửa chiếc lư hương bằng đồng đen đặt dưới mấy bậc tam cấp. 2 người đang lê bước, không hẹn mà chợt im bặt, cùng ngồi thụp xuống. Bá khều tay Tâm, thì thầm:
– Xe tăng. Chẳng biết của mình hay Cộng Sản?
Tâm không trả lời. Chàng len lén đứng nép vào bờ đất nghễnh đầu nhìn lên đường Duy Tân. Chàng chưa thấy chiếc xe tăng ở đâu nên ra dấu cho Bá bò vào nấp dưới chân tượng đài, xong chàng bước từng bước nhẹ nhàng lên bậc tam cấp, men theo bệ tượng đài, đảo mắt quan sát chung quanh. Bên kia đường Duy Tân, sau vòng rào kẽm gai là Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân. Nhìn xuyên qua cổng chính, Tâm thấy Kỳ Đài phía trong nhưng chẳng một bóng lính gác cổng như thường lệ.
Chàng khám phá ra 2 chiếc xe tăng T 54 của Cộng Sản nằm im lìm dưới gốc cây. “Với tình hình này, chiến hạm đi tuần gần dọc bờ biển cũng nguy hiểm nữa chứ nói gì vào di tản quân dân hoặc cập cầu hay ủi bãi đón bọn chàng.” Tâm nghĩ thầm khi trở về chỗ Bá nấp. Chàng nói với Bá:
– 1 chiếc tăng nằm tại góc Nhà Máy Điện Chụt. Chiếc nữa nằm trong sân Cư Xá Sĩ Quan. Không biết tình trạng trong Trung Tâm Huấn Luyện ra sao, đã di tản hay bị Cộng Sản chiếm rồi. Tôi không hiểu bộ đội của nó vào thành phố chưa. Chúng mình phải thật cẩn thận, sơ sẩy là mất mạng!
– Tới đâu tính tới đó, Trung Úy. Tôi thoát chết nhiều lần rồi nên tin “sống chết có số”. Nói vậy chứ lỡ có bề gì chỉ tội nghiệp cho vợ và thằng con nhỏ của tôi.
Tâm ngập ngừng:
– Hay là tránh xa chỗ này, thoát thân trước đã. Anh còn nặng nợ gia đình, không như tôi, độc thân dù gì cũng dễ hơn.
Bá nhỏ giọng:
– Tăng Cộng Sản trấn dọc bờ biển sẽ là mối nguy cho hạm đội mình, Trung Úy!
Tâm nhìn vào mắt Bá:
– Chúng mình thoát nạn không khó. Nhưng mình phải diệt 2 chiếc tăng này, nếu không chúng sẽ gây khó khăn rất lớn cho hạm đội nhất là khi cần di tản quân dân khỏi Nha Trang. Anh nghĩ sao?
Suy nghĩ giây lát, Bá cương quyết:
– Tôi theo ông Thầy tới cùng.
Tâm siết tay Bá thật chặt, lòng tràn xúc động.
Tâm thì thầm bàn bạc kế hoạch với Bá xong, chàng đưa Bá 2 quả lựu đạn. Cả 2 ngồi dựa lưng vào tượng đài nhìn ra biển chờ giờ hành động. Tâm nhìn lên tượng Thánh Tổ, tay trái giữ đốc kiếm, cánh tay phải chỉ xuống biển, đứng uy nghi trên tượng đài xây bằng xi măng ba góc cao vút, thì thầm khấn:
“Xin Thánh Tổ thương dân tộc Việt Nam! Xin Thánh Tổ thương xót chúng con! Ngày xưa, khi qua sông Hóa, Thánh Tổ đã trỏ tay xuống sông thề rằng: “Trận này không phá được giặc, Ta thề chẳng trở về khúc sông này nữa.” Chúng con hiểu rằng lời thề Thánh Tổ như một xác quyết: phải phá tan giặc Nguyên hay là chết mà thôi. Lời thề của Thánh Tổ đã nung lòng “quyết chiến” và khích lệ muôn quân ghi tâm khắc cốt hai chữ “Sát Thát” để rồi quân Nam oanh liệt lập nên bao chiến thắng hiển hách như trận Tây Kết, Vạn Kiếp với:
Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Rồi trận Vân Đồn, Bạch Đằng đánh tan quân giặc xâm lăng cho:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện Kim Âu.
Lời thề năm xưa vẫn in hằn trong tâm khảm chúng con. Chúng con bất tài để vận nước như cánh bèo nổi trôi, nhưng xin Thánh Tổ tin rằng, chúng con đã học được bài học đắt giá, nguyện sẽ cùng nhau khôi phục lại quê hương, trùng tu Thánh Miếu, tô bồi tượng Thánh Tổ và xây dựng lại một nước Việt Nam Tự Do. Xin Thánh Tổ phù hộ chúng con!”
Bá chợt thì thào, giọng buồn buồn ngắt ý nghĩ của Tâm:
– Tôi khát quá! Mai xuống Cầu Đá, tôi muốn 1 ly cối nước dừa xiêm thật lạnh, ông Thầy! Ông chắc cũng khát. Mà ông Thầy biết không, thằng con trai tôi thích uống nước dừa vô kể!
Tâm nhìn Bá gật đầu, chép miệng, siết chặt tay người thuộc hạ, hai bàn tay lạnh giá nhưng nhiệt tâm sôi sục trong lòng.
Tiếng sóng biển miên man, bóng đêm gần sáng vẫn say ngủ… Bá bò dần đến chiếc tăng T 54 đang nằm im lìm trong Cư Xá Sĩ Quan, cạnh lùm cây, trong khi đó, Tâm cũng lom khom băng ngang đường Duy Tân lẻn đến chiếc tăng T 54 khác đậu bên Nhà Máy Điện cạnh hàng rào ngăn cách với Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân. Chàng vừa rón rén bước tới vừa đảo mắt quan sát chung quanh, cạnh gốc cây gần đó, Tâm nhìn thấy một bóng đen ngồi dựa vào gốc cây đầu cúi gầm trên tấm chăn quấn quanh thân mình, mũi súng hướng lên trời và dựa vào một bên vai. Tâm cúi xuống, khẽ tháo dây giày saut, cuốn hai tay vào hai đầu dây, bước đến gần sau lưng tên địch đang ngủ, rồi nhanh như cắt, chàng choàng sợi dây giày quanh cổ tên địch xiết mạnh.
Tên địch choàng tỉnh mà không phản ứng gì được vì lúng túng trong tấm mền quấn kín tới cổ thì mắt đã trợn trừng tắt thở. Tâm xiết thêm lần nữa rồi mở chốt lựu đạn, leo lên pháo tháp, thẩy vào nắp thông hơi mà bọn địch khi ngủ mở ra cho thoáng, xong xuôi, chàng nhảy xuống chạy nhanh về hướng tượng đài Thánh Tổ. Chạy chừng mươi bước, chàng nghe tiếng nổ tắc nghẽn vang lên từ phía Cư Xá Sĩ Quan. Vừa qua bên kia đường Duy Tân thì một tiếng nổ xé tan màn đêm tĩnh mịch tiếp theo nhiều tiếng nổ lớn nhỏ khác và chiếc tăng T 54 cạnh Nhà Máy Điện Chụtt cháy bùng như ngọn đuốc.
Tâm vừa tới bãi cát trước tượng Thánh Tổ thì thấy Bá đang chạy xuống, rồi tiếng người la hét, tiếng súng nổ vang từ hướng Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân. Cả 2 người chạy bất kể sống chết, mong sao càng xa khu Công Viên Trần Hưng Đạo càng tốt. Lợi dụng bóng đêm và sự thông thạo địa hình, Tâm dẫn đường chạy xa dần vùng đất nguy hiểm, nhưng rồi 1 loạt AK chợt đuổi đến, trong cơn mệt ngất hụt hơi, Tâm cảm thấy đầu óc quay cuồng, nhẹ tênh, hụt hẫng, thân chàng bổ nhào về phía trước theo trớn đang chạy, giòng nước biển mặt chát môi khiến chàng biết mình vừa rơi xuống biển.
Tâm thấy Bá trôi dật dờ gần đó, chàng vội vàng bơi theo nắm thân Bá đẩy theo giòng thủy triều đang lên dần xuôi về hướng Cầu Đá. Giòng thủy triều lên đẩy 2 chàng trôi thật nhanh, chẳng mấy chốc, tiếng súng đã im bặt. Xa xa, ánh đèn điện vẫn nhạt nhòa trong bóng đêm đen. Tâm đoán khoảng chừng 5 giờ sáng, chàng xốc nách Bá kéo vào một góc tối, thân thể Bá nhơn nhớt, Tâm hoảng hốt hỏi gặng:
– Anh Bá có sao không?
Không nghe Bá trả lời. Tâm vội đặt Bá nằm xuống sờ khắp người Bá, bàn tay Tâm ướt đẫm chất lỏng nóng đặc sệt ứa ra từ khung ngực rộng của Bá. Tâm tự dưng cảm thấy đôi mắt mình cay sè, cổ họng khô quánh nghèn nghẹn như có gì đang dâng lên. Tâm nói như người mê:
– Tôi đang khát! Mai chúng mình gọi 2 ly nước dừa… thật lạnh, anh Bá ơi! Chúng mình uống trọn vị đắng cay, khốn khổ của giòng “nước mắt quê hương” nhe Bá!
Bá không còn nói được lời nào, cả băng AK đã phá nát lồng ngực anh, buồng phổi chỉ còn chút hơi giữ anh thoi thóp.
Gió biển đêm đã hong mắt Tâm ráo hoảnh, lòng chàng trống vắng và đầu óc mênh mang. Chẳng 1 chiến hạm hay 1 chiếc ghe nào cập bến Cầu Đá, nhưng điều đó không còn nghĩa gì nữa. Tâm vác xốc Bá lên vai bước lên Cầu Đá, lần ra khơi như người mất hồn. Một khung cảnh kinh hoàng hiện ra mờ mờ trước mắt chàng khiến Tâm muốn quay ngược trở vào: Trên mặt cầu đá: hàng trăm xác chết nằm chồng chất lên nhau như sắp cá hộp, mùi xú uế bốc lên khiến chàng muốn nôn thốc nôn tháo. Từ ngày ra trường đến giờ, chàng đã từng dự nhiều trận đánh trên sông rạch, chàng đã từng chứng kiến cả cái chết không toàn thây của bạn bè khi chiến đỉnh của nó bị nổ tung như xác pháo vì đụng thủy lôi gài trong đám lục bình… mà chưa khi nào chàng rợn tóc gáy như đêm nay.
Tâm quay người nhìn lại, trên đường Duy Tân, vài ánh đèn xe đang chạy về hướng Cầu Đá và dọc theo bờ cát, mấy bóng đen đang sục sạo lùng kiếm, ánh đèn pin quét qua quét lại. Tâm đặt Bá ngồi dựa vào sau một đống xác chết. Ngực áo Bá đẫm máu, quần áo Bá và chàng đều sũng nước biển, cơn gió biển thổi lồng lộng trên Cầu Đá cao khiến chàng lạnh run. Mắt Bá đã thất thần, đôi môi mấp máy, trối trăn, giọt nước mắt nóng ứa trên khóe mắt, lăn xuống đôi gò má sạm nắng gió. Tâm cố nén xúc động, khuyến khích:
– Anh Bá ơi! Chúng ta sắp thoát rồi. Gần sáng thế nào cũng có ghe đánh cá về ngang qua đây, hay chiến hạm vào đón mình đi! Gắng lên… Bá ơi!
Chưa dứt lời, bàn tay Bá đã quều quào với cánh tay Tâm, hơi thở đứt quãng, yếu dần, muốn nói điều gì nhưng rồi đầu Bá ngoẹo sang một bên, mắt vẫn mở nhìn Tâm không chớp.
Mắt Tâm mờ đi, nhạt nhòa bóng tối chung quanh, giọng nghẹn ngào, ướt sũng:
– Sắp thoát rồi thằng em! Sao mày lại bỏ đi?
Thánh Tổ ơi! Chúng con đã hứa với Thánh Tổ chúng con nhất định trở về! Sao Thánh Tổ nỡ bỏ con, bỏ thằng em của con? Sao Chúa nỡ bỏ một người chất phác, ngoan đạo như nó, Chúa ơi!
Tâm ôm Bá vào lòng, nhìn xác người thuộc hạ thân tín nằm bất động, chàng giơ tay vuốt mắt Bá, làm dấu thánh giá trong khi những giọt nước mắt nóng ràn rụa trên má. Đời người ai cũng chỉ chết một lần! Chết xứng đáng là một chiến sĩ, chứ không như những xác người vô tội nằm đây.
Nhiều bóng người đang tiến lên Cầu Đá, Tâm giơ khẩu Colt nhắm mấy bóng địch nhả đạn, hạ 2 tên đi đầu khiến bọn còn lại vội nhảy trở xuống chân cầu. Cứ mỗi lần bọn địch định đuổi theo thì khẩu Colt trên tay chàng lại nhả đạn cho đến lúc bắn hết cả băng đạn. Thấy vậy, bọn chúng hò hét xông lên cầu, chiếu ánh đèn pin đến chỗ Tâm đang nấp sau mấy thây ma. Một thoáng ngập ngừng, rồi bọn địch từ từ tiến ra chỗ chàng. Tâm ngần ngừ một giây rồi mím môi, nắm chặt tượng ảnh Chúa đang đeo trên cổ chàng chung với tấm thẻ bài, giựt mạnh đứt sợi dây đeo, chàng đặt tượng thánh giá Chúa trên ngực Bá rồi bám hai tay đu người xuống gầm cầu. Tiếng AK khô khan nổi lên từng loạt, đạn ghim vào những thây ma phát ra âm thanh lụp bụp, Tâm nhắm mắt, đạp chân vào thành cầu, buông tay, thân xác chàng rơi xuống nước trong bóng tối mịt mù, tai còn nghe tiếng người lẫn tiếng súng AK lóc chóc, líu chíu trong giòng thủy triều đang lên …
Phạm Văn Thanh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét