Trên đồi Tăng Nhơn Phú - Mười chín tuổi, tôi quyết định đăng lính. Mặc dầu có bằng Tú tài II, đủ điều kiện để thi vào Hải Quân hoặc Võ Bị Đà Lạt, nhưng tôi không chọn hai nơi này bởi vì tôi nghe bạn bè kháo nhau rằng, chương trình học toán của sĩ quan Hải Quân tương đương với toán của Đại học Khoa học. Chẳng hạn môn Thiên văn học hay cái môn học gì đó, giữa trùng dương bao la bát ngát, nhìn sao trên trời rồi dùng toán học để tìm ra điểm đứng của con tàu, đối với tôi đây quả là chuyện không tưởng. Thi vô Trường Võ Bị Đà Lạt còn mệt hơn nữa, bốn năm trong trường, ngoài chuyện học về quân sự phải học thêm về văn hóa, mà phần văn hóa xem ra còn nặng hơn quân sự, sau bốn năm khi ra trường phải lấy cho được cái bằng Cử Nhân Khoa Học ứng Dụng. Đã là lính rồi mà còn phải học thêm về văn hóa quả là phiền phức quá sức, tôi đã ngu lại còn lười biếng, khó khăn là tôi né. Tôi chọn sĩ quan trừ bị Thủ Đức.
<!>
Khóa của tôi có khoảng hai ngàn sinh viên sĩ quan, sau hai tháng học giai đoạn một ở Quang Trung, chúng tôi được chia ra làm hai, một nửa chuyển lên Trường Bộ Binh Thủ Đức, còn nửa kia đáp tàu ra Nha Trang, học ở Đồng Đế.
Khi đoàn xe GMC chở chúng tôi tới Thủ Đức, tôi nhìn cái cổng trường mà phát chán. Ai đời một quân trường danh tiếng, mấy chục năm rồi đã đào tạo không biết bao nhiêu sĩ quan cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lại có cái cổng cũ kỹ, xấu xí đến mức không tưởng tượng nỗi. Hai cột xi măng vuông vức, mỗi cạnh đâu tám, chín tấc gì đó quét vôi trắng cao nghệu, thêm hai cái cửa tò vò hai bên, trên đó một tấm bảng cong cong gác ngang với mấy chữ Trường Bộ Binh, chỉ có thế thôi. Sao nó lại đơn sơ quá vậy trời.
Xe qua khỏi cổng, chạy thêm một đoạn khá xa rồi ngừng lại bên một cái sân hình chữ nhật rộng mênh mông, sau này tôi mới biết đó là Vũ Đình Trường. Chúng tôi đang ngơ ngác, không biết phải làm gì khi nhìn thấy một nhóm huynh trưởng chia nhau niềm nở chào đón chúng tôi. Các huynh trưởng ân cần, tận tình đứng ngay sau xe nhắc nhở chúng tôi xuống xe sao cho an toàn. Ôi! Cái tình huynh đệ chi binh sao mà nó thắm thiết quá chừng làm tôi cảm động hết sức. Chúng tôi, cứ mấy chục thằng được xếp ngồi chung trên một chiếc GMC mui trần, chạy từ Quang Trung lên đến đây, bộ đồ trận màu cứt ngựa xấu xí, bụi bặm bám đầy người, mặt mũi lem luốc, nhìn lại mấy ông huynh trưởng với bộ đồ vàng mới tinh, mũ nhựa màu nâu đen láng bóng, thêm hai con cá vàng trên nền nhung đen nổi bật nơi cầu vai, đôi giày bốt đờ sô được đánh xi bóng loáng, tưởng chừng soi mặt được. Thoạt nhìn tôi đã mê mẩn, hình ảnh của huynh trưởng trông oai quá chừng. Tôi nghĩ thầm, mai mốt tôi cũng sẽ được như vậy. Cho đến khi đứng sát mặt, nhìn kỹ mấy ông huynh trưởng tôi mới hết hồn, mặt ông nào ông nấy như có cô hồn, đằng đằng sát khí cứ như là sắp xung phong giết giặc không bằng. Có ông huynh trưởng nào biết nói đâu, mở miệng ra chỉ toàn nạt nộ, la hét như điên rồi phạt túi bụi mù trời, không cần nguyên nhân, không cần lý do.
Chúng tôi, hơn một ngàn Tân khóa sinh bị tách ra từng toán nhỏ. Mỗi huynh trưởng chịu trách nhiệm trông coi một toán khoảng hai mươi Tân khóa sinh, họ thay nhau phạt chúng tôi tơi tả như cái mền rách. Hình như, mấy ông huynh trưởng phạt chỉ với mục đích là dằn mặt, áp đảo tinh thần, muốn tất cả Tân khóa sinh phải khiếp sợ, thi hành mọi mệnh lệnh như một cái máy, cấm có suy nghĩ, không được suy luận và chống đối. Tôi biết là mình bị dằn mặt, nhưng sợ vẫn cứ sợ. Trước mặt, bên trái, bên phải luôn cả sau lưng tôi, tất cả mọi người đều đang thi hành lệnh phạt. Bên này mấy chục ông Tân khóa sinh la to thiếu điều đứng xa cả cây số cũng nghe rõ “Nhảy xổm vào thế”. Bên kia lại thêm vài chục ông Tân khóa sinh khác rống lên “Hít đất vào thế”. Tôi cũng đang bận rộn túi bụi khi đang thi hành lệnh phạt hai mươi cái hít đất, vừa xong hít đất lại lãnh thêm hai mươi cái nhảy xổm, rồi hai mươi cái bơm dầu. Sau cùng, khi mà mọi người đều mệt đứ đừ, lúc bấy giờ mới đến cái màn chào mừng quân trường, giọng nói của huynh trưởng vang lên như sấm động:
-Tất cả Tân khóa sinh, mười vòng Vũ Đình Trường, đằng trước, chạy.
Hai tháng trường dầm mưa dãi nắng ở Trung tâm huấn luyện Quang Trung, tôi cứ tưởng cơ thể của mình đã quen với nhọc nhằn gian khố, thế nhưng khi nhìn thấy cái sân Vũ Đình Trường Thủ Đức rộng mênh mông, trong lòng bỗng dưng ngao ngán, rồi sợ hãi. Chạy một vòng cũng đủ dập mật, huống chi chạy mười vòng.
Khi đám Tân khóa sinh chúng tôi chạy được ba vòng, một người, hai người, rồi cả chục người thi nhau rụng dần dần, nằm bò lê bò lết nơi Vũ Đình Trường. Tôi cũng đã thấm mệt, nắng ở đồi Tăng Nhơn Phú coi bộ không khá chút nào, mồ hôi ướt dầm bộ đồ trận. Tôi chạy chậm lại, đưa mắt liếc nhìn vị huynh trưởng đang kè kè bên tôi. Tôi chờ cho đến khi vị huynh trưởng này nhìn thấy mình rồi giả vờ như bị đuối sức, nhấc chân lên không nổi té lăn quay xuống đất. Tôi nói với mình, phải gồng mình chịu đau, té cho ngon lành mới giống như mình bị xỉu.
Vị huynh trưởng đâu có dễ dàng chịu thua, anh ta kê sát miệng vào tai của tôi, rồi hét thật to:
-Ông giả bộ xỉu phải không? Đừng có qua mặt huynh trưởng, cái trò này huynh trưởng đã làm từ lúc ông còn ở truồng tắm mưa. Ông chạy yếu như vậy, mai mốt ra trường bị Việt Cộng rượt làm sao chạy cho nổi.
Tôi nằm đó, nhắm mắt cười thầm cho cái lý luận lẩm cẩm của huynh trưởng. Huynh trưởng ơi! Ông ăn nói gì kỳ vậy, mình rượt Việt Cộng chứ đâu có để tụi nó rượt mình được (chuyện này, phải đợi cho đến tháng ba năm 1975, tôi mới thấy huynh trưởng của tôi nói đúng).Thấy tôi nằm yên, huynh trưởng tiếp tục hét bên tai:
-Đứng dậy, chạy cho đủ mười vòng đi ông. Huynh trưởng sẽ chờ cho đến khi nào ông tỉnh lại, chờ đến mai cũng chờ.
Tôi nhắm nghiền mắt lại, văng vẳng bên tai tiếng của hàng ngàn bước chân chạy rầm rập, đều đều xen lẫn tiếng gào của mấy chục ông huynh trưởng. Tôi nằm im, đã trót đóng kịch phải làm cho tới nơi tới chốn, đừng có dại nghe lời dụ dỗ ngon ngọt của huynh trưởng mà tỉnh lại. Mấy cục đá ở sân Vũ Đình Trường nhọn hoắc, xóc vô lưng, cắm vô đầu đau muốn gần chết, mặc kệ, tôi nhắm mắt lòng đầy khoan khoái vì thấy mình đã sáng suốt, khôn lanh khi quyết định chọn Trường Bộ Binh Thủ Đức, chỉ phải chịu đụng khổ cực, đày đọa tấm thân vài tháng là tốt nghiệp. Chọn Võ Bị Đà Lạt, bốn năm bị hành hạ thân xác như thế này, khi ra trường có mang lon đại úy tôi cũng không thèm. Cuối cùng, mọi chuyện đều qua đi, chạy ba vòng hay mười vòng cũng như nhau, tất cả được tập họp để phân chia đại đội. Một ngàn Tân khóa sinh được chia ra làm năm đại đội, bắt đầu từ Đại đội 61 cho tới Đại đội 65.
Nguyên tám tuần lễ đầu tiên huấn nhục ở Thủ Đức, Tân khóa sinh ngoài giờ học thì giờ còn lại là thi hành lệnh phạt.
Tôi không biết trong Trường Bộ Binh Thủ Đức chuyện huynh trưởng phạt khóa đàn em, phạt Tân khóa sinh đã có từ bao giờ. Cho đến khi tôi vào Thủ Đức năm 1968, chế độ huynh trưởng đã đến giai đoạn gần như là hoàn hảo. Sĩ quan cán bộ có đó chỉ để làm vì, bao nhiêu chuyện hướng dẫn, huấn luyện Tân khóa sinh đều do huynh trưởng đảm nhận.
Tổ chức sinh hoạt của Sinh viên sĩ quan Thủ Đức lấy đơn vị đại đội làm căn bản. Một đại đội có trên hai trăm Tân khóa sinh được chia làm bốn trung đội, tất cả được đặt dưới sự chỉ dẫn, kiểm soát của một Huynh trưởng Đại đội trưởng và bốn Huynh trưởng Trung đội trưởng. Nhiệm kỳ của huynh trưởng là năm ngày, sau năm ngày sẽ có nhóm huynh trưởng mới đến thay thế. Huynh trưởng nắm toàn quyền sinh sát trong tay, kêu mưa phải có mưa, gọi bão phải có bão, do đó thân phận của Tân khóa sinh giống như con cá nằm trên thớt.
Trong giai đoạn huấn nhục, Tân khóa sinh khi di chuyển đến bất cứ nơi nào trong phạm vi của trường, chẳng hạn như đến phòng học hay nhà ăn đều phải di chuyển theo đội hình. Đội hình của trung đội là bốn hàng ngang, Tân khóa sinh cao nhất đứng ở hàng đầu rồi thấp dần cho đến người thấp nhất ở hàng cuối. Tất cả vừa đi vừa đếm nhịp hoặc hát những bài hùng ca, huynh trưởng đi bên hông của trung đội theo dõi và kiểm soát. Chỉ cần một Tân khóa sinh bước trật nhịp hoặc đi không thẳng hàng sẽ lãnh hậu quả không lường, cả trung đội sẽ bị phạt chứ không phải chỉ một mình anh Tân khóa sinh đó.
Tôi nhớ lại, vào một buổi sáng sớm, cả bầu trời mù mờ như có sương, khi trung đội của tôi đi đều bước đến phòng học, còn sớm hơn mười phút. Huynh trưởng đứng trước hàng quân, cất giọng:
-Cái ông đứng ở cuối hàng đó, trình diện huynh trưởng đi ông. Ông chớ còn ai nữa mà nhìn quanh.
Một Tân khóa sinh đứng ở hàng chót, chạy đến trước mặt huynh trưởng, đứng nghiêm đưa tay chào:
-Tân khóa sinh.. .Trình diện huynh trưởng.
Huynh trưởng lên giọng:
-Ông chạy mười vòng, quanh trung đội đi ông.
Khi anh Tân khóa sinh chạy đủ mười vòng, đến trình diện huynh trưởng. Huynh trưởng nói như hét:
-Anh có biết là anh phạm lỗi gì không?
Không đợi Tân khóa sinh trả lời, huynh trưởng nói tiếp:
-Tân khóa sinh mà dám cao hơn huynh trưởng.
Anh Tân khóa sinh đứng ở hàng chót, là người thấp nhất trong trung đội của tôi, vừa nghe như vậy vội vàng rụt cổ, rùn chân cho người thấp xuống. Thấy vậy, tôi suýt cười thành tiếng, đưa tay lên bịt miệng của mình lại.
Đôi mắt của huynh trưởng lẹ như sao xẹt, anh ta chỉ tôi.
-Cái ông cười trong hàng quân đó, trình diện huynh trưởng đi ông.
Tôi biết mình đã phạm lỗi tày trời, nên lẹ làng chạy đến trình diện huynh trưởng.
Giọng nói của huynh trưởng nghe cứ như là mai mỉa.
-Thấy huynh trưởng lùn, cho nên ông cười khi dễ huynh trưởng phải không? Hai chục cái nhảy xổm đi ông. Tối nay, lúc tám giờ ông mặc đồ tiểu lễ trình diện huynh trưởng tại sân đá banh của trường, ông nghe rõ không?
Tôi la to mà trong lòng đầy lo lắng.
-Rõ, huynh trưởng.
Quay nhìn về phía trung đội, huynh trưởng nói:
-Tối nay, đúng tám giờ cả trung đội trình diện tôi tại sân banh, quân phục số bốn, ba lô súng đạn đầy đủ, tất cả nghe rõ không?
Mấy chục Tân khóa sinh đồng thanh la to:
-Rõ.
Sau vài giây chần chờ, huynh trưởng nói tiếp:
-Tôi cho các anh một đặc ân, trong trung đội này, ai đứng thấp hơn tôi sẽ được miễn thi hành lệnh phạt.
Dĩ nhiên, không một ai được miễn trừ.
Vừa đúng tám giờ tối, huynh trưởng tập họp trung đội tại sân đá banh, sau khi nghe báo cáo quân số, huynh trưởng chia trung đội gồm có năm mươi sáu Tân khóa sinh ra làm hai đội, mỗi đội có khoảng hai mươi tám người. Hai đội banh sẽ đấu với nhau, đội nào thắng sẽ được ra về nghỉ. Đội thua sẽ chia ra làm hai đội, đá với nhau một lần nữa, đội thắng sẽ được về nghỉ. Cứ như vậy cho đến khi hết người. Quay sang tôi, đang đứng riêng một mình với bộ đồ tiểu lễ, dây biểu chương trên vai nón kết trên đầu, huynh trưởng nói:
-Mọi người đều mặc đồ số bốn, tại sao ông lại mặc tiểu lễ, ông muốn chơi trội phải không?
Bắt tôi mặc đồ tiểu lễ là huynh trưởng, không cho tôi mặc đồ tiểu lễ cũng là huynh trưởng. Trong lòng tôi ấm ức quá sức, nhung mà, quân đội là quân đội. Tôi đứng yên chờ đợi lệnh phạt.
Huynh trưởng rút trong túi cái còi đưa cho tôi.
-Được rồi, ông muốn chơi nổi, tôi cho ông nổi luôn. Ông sẽ làm trọng tài, từ trận đầu tiên cho đến trận cuối cùng. Huynh trưởng sẽ ngồi ở khán đài theo dõi. Ông nghe rõ không?
Tôi nghe huynh trưởng nói mà đứng chết trân, không nói nên lời, coi như tôi phải chạy bao sân tất cả mọi trận đấu. Chuyện làm trọng tài coi bộ khổ hơn là chạy mười vòng Vũ Đình Trường, bởi vì chạy mười vòng Vũ Đình Trường mình còn giả bộ xỉu được.
Khi hai đội banh đã đứng về hai phía của sân vận động, đội bên trái cởi trần, để phân biệt với đội bên phải có quần áo đầy đủ. Huynh trưởng đưa cho tôi cái nón sắt rồi nói:
-Đây là trái banh, ông điều khiển trận đấu cho tôi.
Trận đấu diễn ra thật là sôi nổi, vì mọi người đều hăng say quyết thắng để còn về nghỉ sớm. Chỉ có một cái nón sắt, hàng trăm bàn chân tranh nhau đá túi bụi, phải hơn nửa giờ lăn khắp sân, cái nón sắt mới lọt lưới. Đội cởi trần thong thả ra về, đội áo quần đầy đủ chia làm hai, riêng tôi mệt muốn đứt hơi, lại phải cầm còi thổi cho trận kế tiếp.
Cho đến trận đấu cuối cùng, hình như đã khuya lắm rồi, mỗi bên chỉ còn một người và tôi vẫn là trọng tài. Tôi nhìn lên khán đài, chỉ thấy một cái bóng mờ chìm trong làn sương mỏng, không biết đó có phải là huynh trưởng hay không.Tôi nói với hai thằng bạn của tôi:
-Tụi mày có biết, đá banh mà bán độ là gì không?
Một trong hai thằng nói:
-Biết.
Chưa đầy năm phút sau, cái nón sắt lọt lưới, trận đấu kết thúc, tôi chấm dứt đêm phạt dã chiến của mình bằng cách ôm cái nón sắt méo mó, lết về phòng ngủ sinh viên với bộ đồ tiểu lễ bê bết bụi đất.
Tôi nằm ngủ mà nhớ lại những giờ học Việt văn của mấy năm về trước, thầy giáo giảng bài: Mẹ già một nắng hai sương, thức giấc khi còn sương mai, về nhà khi sương khuya đã xuống, làm việc đồng áng cực nhọc, buôn bán khổ cực nuôi con. Hôm nay, Sinh viên sĩ quan Thủ Đức cũng một nắng hai sương, nhưng từ lúc tờ mờ sáng cho tới tối mịt, chỉ biết học và thi hành lệnh phạt. Phạt liên miên bất kể giờ giấc, sáng phạt, trưa phạt, chiều phạt, tối phạt, lên giường ngủ vẫn bị lôi đầu dậy thi hành lệnh phạt.
Suốt thời gian huấn nhục ở Thủ Đức, tôi còn bị phạt dài dài, càng bị phạt tôi càng ghét cay ghét đắng huynh trưởng. Mãi cho đến sau này, khi trải bao dâu bể, đổi thay, tôi mới biết rằng: Quân đội muốn thay đổi con người của chúng tôi trong một khoảng thời gian ngắn thật ngắn. Chỉ với vài tháng thôi, làm sao biến chúng tôi từ một người học trò yếu đuối, ngày ngày chỉ biết cắp sách đến trường sống bám vào cha mẹ, trở thành một người mạnh khỏe về thể chất, cứng rắn về tinh thần để khi ra trường tạm thời có thể chỉ huy ít nhất là một trung đội bộ binh. Phương pháp tốt nhất để đạt được mục đích này là, tám tuần lễ huấn nhục. Huynh trưởng của tôi, chỉ nhập ngũ trước tôi hai tháng mà ông ấy đã dẫn dắt trung đội Tân khóa sinh một cách tài tình. Như vậy, chuyện tôi diện bộ tiểu lễ, tay cầm còi, làm trọng tài cho những trận đá nón sắt đêm ấy, xem ra chẳng có gì oan ức.
Thời còn là Tân khóa sinh, chỉ lo thi hành lệnh phạt nên mọi người lúc nào cũng buồn ngủ, trong giờ học ngủ gục, sau giờ học được nghỉ mười phút là lăn ra ngủ, thậm chí đang di chuyển trong hàng quân cũng ngủ. Ôi giấc ngủ sao mà đã đời đến thế.
Tuần đầu khi đi gác tuyến, chưa tới phiên gác, tôi đã ôm cây súng Garant nằm dưới giao thông hào ngủ ngon lành. Ở quân trường cây súng Garant là vật bất ly thân, là người tình trong mộng của sinh viên, hớ hênh quờ quạng bị sĩ quan cán bộ chôm mất kể như tàn đời, bị phạt dã chiến suốt đêm là cái chắc. Vì lý do đó, khi đi gác tuyến, sinh viên sĩ quan phải ôm cây súng Garant mà ngủ. Tôi đang say sưa trong giấc mộng bình thường, không thấy mình hóa bướm như Trang Chu, chợt có ai đó chạm nhẹ vào vai của tôi.
-Quân, Quân, thức dậy tao có chuyện nói với mày.
Tôi hãy còn nửa mê, nửa tỉnh.
-Tới phiên gác của tao phải không?
-Không, tao là Long, nằm kế giường của mày.
-Tao là Biên, nằm giường trên của mày.
Tôi biết rồi, đây là hai thằng quỷ dân Sài Gòn, chung phòng lẽ dĩ nhiên cùng chung một trung đội với tôi.
-Tụi mày cần gì, nói mau lên để tao còn ngủ.
-Mày có tiền không? Cho tụi tao mượn mấy trăm.
Giọng nói của nó nghe mà phát ghét, mấy trăm đối với tôi là cả một gia tài, trong khi hắn nói mấy trăm cứ nhẹ như mấy đồng bạc lẻ. Nghĩ như vậy nhưng tôi vẫn lục túi.
-Tao chỉ có sáu trăm, đây là tất cả số tiền ông già tao cho, trước khi lên Thủ Đức. Tao cho tụi mày mượn năm trăm, tao phải giữ lại một trăm để phòng thân.
Hai thằng quỷ giựt năm trăm trên tay tôi rồi dọt lẹ. Tôi nói vọng theo:
-Tụi mày đi đâu vậy?
-Trốn vô Khu Thiết Giáp. Nhậu.
Khi tụi nó đi xa rồi, tôi mới giật mình tự trách sao mà mình ngu như vậy, cho tụi nó mượn tiền biết tụi nó có trả hay không? Tôi ôm cây súng Garant chìm vào giấc ngủ. Mơ mơ màng màng, tôi phân vân không biết mình cho hai thằng đó mượn tiền, hay mình mượn tiền của tụi nó.
Tụi tôi quen thân với nhau bắt đầu như vậy. Biên và Long đặt cho tôi cái tên là Quân bắp cải khi biết quê hương xứ sở của tôi là Đà Lạt. Lúc đầu, tôi phản đối dữ dội.
-Tao tên Quân, tại sao tụi mày gọi tao là bắp cải.
Long tỉnh queo nói:
-Bắp cải ở Sài Gòn bán có giá lắm đó mày.
Biên góp ý:
– Nhìn mày, giống như hình thằng bé in trên hộp sữa Babylac, hay là tụi tao gọi mày là Quân sữa được không?
Cả hai cái biệt danh nghe đều xấu xí, mai mốt bận đồ tiểu lễ đi phép mà bị gọi là Quân sữa làm sao tán gái cho được, tôi đành chọn cái tên ít xấu hơn. Từ đó trở đi cả đại đội đều gọi tôi là Quân bắp cải.
Biên hơn tôi bốn tuổi, học Đại học Khoa Học, đẹp trai, cao ráo. Nhìn bức ảnh ngày xưa nó chụp với áo quần gọn gàng, bảnh bao, tóc dài quá mang tai, ôm cây đàn guitar điện, đứng trước một bộ trống, tôi đoán hắn phải là thành viên của một ban nhạc trẻ nào đó không được nổi tiếng cho lắm ở Sài Gòn. Sở dĩ, tôi dám mạnh miệng nói như vậy, bởi vì tôi không thấy tên của ban nhạc trên mặt trống. Biên thi rớt năm thứ ba nên bị gọi nhập ngũ, nhà hắn ở đường Nguyễn Minh Chiếu Phú Nhuận, gần nhà hàng Bò bảy món Ánh Hồng, có cô em gái tên Dung. Ba hắn là nhân viên cao cấp của cơ quan USAID. Những lúc nhàn rỗi, tôi tò mò hỏi về đời tư của hắn.
-Học đại học có khó không Biên?
Sở dĩ tôi hỏi Biên như vậy, bởi vì đây là chuyện mà tôi muốn biết, nếu tôi không đăng lính và tiếp tục học đại học.
Biên ngẫm nghĩ một chút rồi trả lời tôi:
-Chẳng có mẹ gì khó hết, đến trường đầy đủ, chịu khó ghi cua, học chút đỉnh là đậu.
-Vậy sao mày lại thi rớt?
Biên xổ cái giọng du côn của dân Sài Gòn:
-Đù má, mày nói cái giọng móc họng, tao quýnh thí mẹ mày bây giờ. Tao thi rớt chỉ vì ham chơi, tối ngày cứ lo chuyện đàn địch ở mấy cái phòng trà, có học hành gì đâu mà đậu, rớt là phải. Còn mày, học hành tới đâu? Con nít hỉ mũi chưa sạch như mày, tại sao lại phải vô đây?
-Chuyện dài dòng, khi nào rảnh rỗi tao kể cho mày nghe.
Tôi không muốn nói với nó là mình không được thông minh cho lắm, nên không muốn tiếp tục học.
Long công tử, tên sao người vậy, tuy mặc bộ đồ lính xấu xí, thô kệch, nhưng nhìn hắn người ta vẫn thấy rõ nét hào hoa phong nhã, phảng phất đâu đó. Đang học năm cuối Văn khoa, hắn bỏ học đăng lính. Nhà nó giàu có hạng, nhưng đừng nên so sánh nó với Hắc công tử hay Bạch công tử ở Bạc Liêu thời xưa. Thời Pháp thuộc, tài sản của công tử Bạc Liêu với ruộng lúa hàng chục ngàn mẫu, cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi. Nội tiền thu Tô hàng năm của hàng chục ngàn mẫu ruộng, dư sức cho Hắc, Bạch công tử đốt cháy Sài Gòn. Ba của Long công tử nghèo hơn, ông ấy chỉ có vài căn biệt thự ở Sài Gòn, thêm một cái đồn điền ở Ban Mê Thuột. Thời đệ nhất Cộng Hòa, Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho dân khai thác đồn điền ở cao nguyên nhưng không được quá một trăm mẫu, cho nên cái đồn điền trồng cà phê ở Ban Mê Thuột của gia đình Long công tử chỉ có chín mươi chín mẫu mà thôi. Tới mùa thu hoạch cà phê, ngoài số lượng cà phê của nhà, ba nó còn thu mua tất cả cà phê của Ban Mê Thuột rồi đóng bao xuất khẩu. Với hàng trăm công nhân làm việc tất bật suốt ngày, đến kỳ phát lương, ba của Long công tử phải đem mấy cái bao bố tới nhà băng chở tiền. Sau này, khi đã quen thân với Long, nhân một lúc vui miệng, tôi hỏi hắn với ý thắc mắc nghi ngờ:
-Nhà của mày giàu như vậy, sao hôm trước mày với thằng Biên phải mượn tiền tao đi nhậu.
Long nhìn tôi không có gì bối rối:
-Hôm vô Thủ Đức, tao có đem theo hơn chục ngàn, đem nhiều chỉ tổ nặng túi. Tao nghĩ, ở đây có gì đâu mà tiêu với xài. Chiều hôm đó, khi đi tắm ngoài hồ nước của đại đội, tao treo quần áo của tao ngay đó chứ đâu. Tắm xong mát mẻ khỏe khoắn, tao bận cái quần cụt đi về phòng quên mẹ nó bộ đồ. Nửa giờ sau mới nhớ, tao trở lại bộ đồ không cánh đã bay mất tiêu, dĩ nhiên tiền bạc trong đó cũng bay theo luôn. Tao không còn tiền đi nhậu nên mới phải mượn mày.
Mất cả chục ngàn mà hắn coi như không có gì, tôi nghĩ thầm thằng này xứng với tên Long công tử.
Ở Trường Bộ Binh Thủ Đức, thời gian thoải mái nhất là đi ứng chiến, gác tuyến phòng thủ của trường. Lệ thường, sau khi cơm nước xong xuôi, khoảng sáu giờ chiều cả đại đội súng ống đạn dược đầy đủ kéo nhau ra tuyến gác. Từ sáu giờ chiều đến năm giờ sáng, ngoài việc gác ca của mình một tiếng, thì giờ còn lại tự do, đa số sinh viên đánh một giấc để lấy sức ngày mai còn đi học tiếp. Riêng tôi, tôi thích trốn ra Khu sinh hoạt ngồi nhâm nhi ly cà phê đá ở quán cô Loan, cô bé có gương mặt tươi như hoa, đôi môi mọng đỏ trông phát ghét và nhất là nụ cười hớp hồn của cô. Cả chục anh sinh viên sĩ quan đang ngồi uống cà phê, anh nào cũng nghĩ rằng cô ta đang kín đáo tặng riêng nụ cười cho mình. Tôi thích ngồi uống cà phê ở Khu sinh hoạt, biết đâu có một ngày đẹp trời nào đó cô Loan thực lòng tặng riêng cho tôi một nụ cười? Tình yêu mấy ai biết được, hôm nay mưa ngày mai có thế nắng.
Long công tử khác hẳn, hắn chỉ thích bia 33 nên bò qua Khu Thiết Giáp, ở đây có quyền nhậu chết bỏ miễn là đừng quên đường về. Bị phạt khi còn là sinh viên, rớt ra trung sĩ như không, chả ai dám nhậu quắc cần câu để phải mang cái “cánh gà chiên bơ” khi ra trường.
Tôi không biết uống rượu nhưng lại thích bạn, nên đành lòng quên cô Loan theo bạn bè qua Khu Thiết Giáp. Ba đứa tôi nhậu nhưng luôn luôn đề cao cảnh giác, thực sự chỉ có hai thằng bạn của tôi nhậu thôi. Tôi ngồi đó, uống nước ngọt phá mồi, năm thì mười họa mới hớp một ngụm bia. Một hôm khi cuộc rượu nửa chừng, rượu vô lời ra, đủ chuyện được đem ra bàn tán, Long công tử gắp miếng thịt gà, mở đầu:
-Tụi mày nhớ bài học địa hình hôm qua không?
Tôi đáp:
-Nhớ chớ.
-Bài học đó huynh trưởng gọi là địa hình sương sâm.
Biên hỏi:
-Tại sao gọi là địa hình sương sâm.
Long ôn tồn giải thích:
-Ở trên bục huấn luyện viên nói gì, giảng gì mặc kệ ông ấy, nào là vòng cao độ, núi non, sông ngòi, đường sá rồi cách dùng địa bàn, bản đồ. Mình nghe được bao nhiêu tốt bấy nhiêu, nhưng khi thực hành cầm trên tay cái bản đồ và địa bàn, làm ơn nhớ liếc mắt nhìn mấy cô bán sương sâm để mà điều chỉnh hướng đi của mình. Bởi vì đến trưa, khi các cô đặt gánh sương sâm ở đâu, mục tiêu của mình gần chỗ đó. Các cô gái này là con, cháu của quân nhân trong trại gia binh của trường, họ đi đến các mục tiêu này hàng trăm lần rồi, độ chính xác gần như là tuyệt đối. Hãy tưởng tượng, trời Thủ Đức nóng như thiêu, sinh viên sĩ quan sau khi di hành hàng chục cây số, được ngồi dưới bóng mát của một gốc cây, thưởng thức ly sương sâm mát rượi, ngọt lịm bên cạnh các cô gái duyên dáng, dễ thương, còn chuyện xinh đẹp hay không tùy người đối diện. Lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy, gánh rơm sương sâm gặp hàng trăm ngọn lửa Cư An Tư Nguy cháy là cái chắc.
Long công tử ngưng nói, quay nhìn tôi:
-Mày có biết bốn chữ Cư An Tư Nguy in trên phù hiệu của Trường Bộ Binh Thủ Đức, có nghĩa là gì không?
Tôi trả lời Long công tử:
-Thật tình, tao không hiểu rõ lắm.
Long công tử giải thích:
-Đại khái, sống yên ổn phải nghĩ đến lúc nguy khốn.
-Vậy thì có gì hay ho đâu mà phải nói, tao chỉ muốn biết lửa gần rơm cháy như thế nào thôi.
-Đám cưới chứ còn như thế nào nữa, con của một binh sĩ trong trại gia binh mà vớ được ông chuẩn úy mới toanh, kể ra cũng tốt lắm rồi.
Đang nói chuyện ngon lành, Long công tử đặt ly bia xuống bàn, hắn mồi một điếu thuốc, nhìn quanh rồi mới nói tiếp:
-Tụi mày có biết cô Giang không? Cô bé đẹp như hoa hậu thế giới ở trại gia binh, nơi cổng số Chín?
Tôi đáp:
-Không biết.
-Mày chỉ biết bắp cải chứ biết cái mẹ gì. Cổ sắp lấy chồng, chôm được ông huynh trưởng của tụi mình, đợi ra trường làm đám cưới.
-Sao mày rành vậy.
-Chuyện cô Giang hoa hậu đã là đóa hoa có chủ, tất cả sinh viên trong trường đều biết, trừ mày.
Tôi hỏi Long:
-Thằng tốt số đó tên gì? Tướng tá ra sao?
-Mày đừng có nằm mơ, thằng huynh trưởng đó ngon hơn mày là cái chắc.
Từ nãy giờ Biên vừa hút thuốc vừa tì tì uống bia, bất chợt hắn lên tiếng:
-Tao có chuyện muốn nói với hai đứa mày. Thằng Long, mày vừa nói trong mấy ngàn sinh viên sĩ quan của Trường Thủ Đức này cô Giang chọn được một?
-Đúng vậy.
-Tao có con em gái tên Dung, đang học đệ nhất Nguyễn Bá Tòng. Tao sẽ tìm cách nói tốt về tụi mày với em gái tao, xúi nó chọn một trong hai đứa mày.
Long công tử nói, câu nói chẳng dính dáng gì đến chuyện em gái của Biên.
-Tao thường ngồi trước nhà thờ Huyện Sĩ hóng gió.
Tôi bực cái thằng Long công tử quá sức vì câu chuyện chưa đi tới đâu. Tôi nói với Long công tử.
-Mày ngồi trước nhà thờ Huyện Sĩ mặc kệ mày, nói ra đây làm gì.
Biên lên tiếng.
-Cái thằng bắp cải, mày không biết gì về Sài Gòn làm ơn ngồi yên. Nhà thờ Huyện Sĩ nằm gần Trường Nguyễn Bá Tòng, thằng Long ngồi đó để ngắm nữ sinh Nguyễn Bá Tòng tan học.
Biết mình bị hớ, tôi ngồi yên nghe tụi nó nói chuyện.
Tay chơi Long công tử nói:
-Tao chẳng có dại, trường Nguyễn Bá Tòng có vài ngàn nữ sinh, không lẽ tất cả đều đẹp như tiên nữ hay sao? Phải có người xấu chứ. Biết đâu em mày lại nằm trong thành phần xấu? Chắc em mày có gì trục trặc mày mới đem gán cho tụi tao, chưa kể trường hợp em mày đã có bạn trai rồi?
Nhìn gương mặt tối sầm của Biên với đôi môi mím chặt, tôi biết hắn giận lắm, được một lát sau hắn mới nói:
-Ê, Long công tử, mày có lý hoàn toàn, nhưng hãy cho tao nói. Tao là người Quốc Gia cực đoan. Tao vốn ghét đám sinh viên ở mấy cái Viện đại học quanh Sài Gòn, thằng nào thằng nấy ốm như con cò ma, đầu tóc bờm xờm, quần áo chim cò sặc sỡ, chưa kể mấy cái thằng phản chiến, ăn cơm Quốc Gia mà mở miệng là chửi Quốc Gia không tiếc lời. Nếu có chút quyền hành, tao sẽ cột đầu mấy thằng phản chiến, thả dù tụi nó xuống miền Bắc, hoặc dẫn đến cầu Hiền Lương đá đít cho bọn nó về bên kia. Cho tụi nó ăn cơm Cộng Sản, sau đó đợi coi thử tụi nó có dám mở miệng chửi Cộng Sản hay không? Đụng đến bác Hồ, Cộng Sản nó cắt lưỡi ngay lập tức, sau đó nhốt vào tù hoặc cho đi mò tôm, làm gì có cơ hội mà chửi. Tao không muốn em gái tao phải chọn chồng trong cái đám đó. Mai mốt hai thằng mày ra trường, gắn cái quai chảo trên vai, nó chọn một trong hai đứa mày có lý hơn.
Biên ngừng nói, nó nhìn hai đứa tôi như dò xét động tĩnh rồi mới nói tiếp:
-Tụi mày đừng có tưởng bở, con em tao nó khó lắm, lại kiêu căng, gò được nó không phải dễ đâu. Tụi mày đã học chiến thuật rồi, đơn thân độc mã chẳng làm nên cái trò trống gì, nhưng nếu áp dụng chiến thuật nội công, ngoại kích sẽ chắc ăn. Tao làm nội tuyến cho.
Long công tử lên tiếng:
-Mày là anh mà nói cái giọng cứ như là ba má không bằng.
Biên nói với Long.
-Mày có biết câu mưa dầm thấm đất hay không? Tao nói hoài, em tao phải xiêu lòng thôi.
Biên nâng chai bia 33, ực một hơi rồi nói tiếp:
-Thằng bắp cải ở trên núi, còn mày ở dưới biển. Thời buổi này, làm gì còn chuyện cổ tích Sơn Tinh với Thủy Tinh tranh giành nhau công chúa Mỵ Nương. Hai thằng mày, thằng nào gọi tao là anh ngay bây giờ, tao sẽ giúp thằng đó.
Biên vừa dứt lời, tôi lên tiếng ngay lập tức:
-Tao xung phong làm em mày.
Biên nhìn Long công tử:
-Còn mày thì sao?
-Tao cần nghĩ lại, chẳng có gì mà phải vội vã, cẩn thận nhìn trước dòm sau, cá tham mồi mắc phải lưỡi câu dễ như chơi.
Tôi tưởng chuyện Dung em gái Biên, chỉ là chuyện trà dư tửu hậu, nói cho vui trong lúc rượu vào lời ra, ngờ đâu tuần lễ đầu tiên sau lễ gắn Alpha, ba thằng tôi dẫn nhau đi phép hai mươi bốn giờ....
(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét