Nhân dấu mốc năm 1989 vào cuối thế kỷ trước với một loạt chế độ cộng sản tại Đông Âu theo nhau sụp đổ trong vài tuần lễvà tiếp sau đó là sự đột tử của Liên Sô, nay vừa đúng 30 năm, gần đây người Việt hải ngoại có dịp nhắc lại những gì đã xảy ra tại Đông Âu để phân tích, nhận định và đưa ra câu hỏi: Bao giờ tới Việt Nam?Cũng trong ý nghĩa ấy, một cuộc hội thảo với chủ đề “Cộng sản Việt Nam sẽ sụp đổ theo kịch bản nào?” được tổ chức tại Vùng Washington ngày 13.7.2019 đã mở ra một cơ hội vào thời điểm thích hợp để “tìm lời giải đáp cho câu hỏi ấy”, như thông báo của ban tổ chức.Đây là một chủ đề rất thực tế, rất phong phú và rất đúng lúc.<!>
Rất thực tế, vì cái chế độ độc tài, độc đảng, mục nát tự xưng là Cộng sản tại Việt Nam đáng lẽ đã phải bị loại trừ từ lâu. Thật vậy, cội nguồn của đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) là từ đảng Cộng sản Nga mà ra, do Hồ Chí Minh và đồng đảng đưa về VN dưới thời Pháp thuộc. Núp dưới chiêu bài chống Pháp, giành độc lập, đảng CSVN, tạm cải danh là đảng Lao Động VN, đã khai thác lòng yêu nước, khát khao độc lập của dân Việt Nam, cướp quyền bính từ Chính phủ Trần Trọng Kim non yếu trong buổi giao thời, phát khởi hai cuộc chiến tranh tương tàn, khốc liệt trong suốt 30 năm (1945-1975), với sự chi viện và chỉ đạo của Cộng sản Nga và Cộng sản Tàu, gây ra biết bao tàn phá, chết chóc, đau thương không kể xiết cho dân tộc Việt Nam.
Khi nắm được quyền thống trị trên cả nước, đảng CSVN đã mù quáng “tiến mau tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội” theo kiểu mẫu của Nga và Tàu cộng, tiếp tục gây tội ác, bất chấp những khổ đau của người dân và sự thất bại của những chính sách phi nhân, trái ngược với trào lưu dân chủ hóa, văn minh hóa đang diễn ra trên khắp thế giới.
Thực tế là chủ nghĩa cộng sản đã chết từ 30 năm trước, khi khối cộng sản Đông Âu, và nhất là Liên-Sô, “cái nôi của Cộng sản VN” và “hậu phương lớn của cách mạng vô sản trên thế giới”, theo nhau sụp đổ.
Nhưng, đảng CSVN làm như không biết trời đã sập ở “Đông phương hồng”, vẫn tiếp tục khẳng định sự ưu việt của chủ nghĩa Mác-Lênin, và vẫn nhân danh “chuyên chính vô sản” thẳng tay đàn áp những người yêu nước đối kháng, trong khi đảng đã hoàn biến chất, trong đó, những đảng viên có chức quyền công khai cấu kết với nhau làm giàu bất chánh, trở thành những triệu phú, tỉ phú đô-la trước sự cùng cực của đại đa số dân nghèo. Dù tự gọi là “chuyên chính”, cái bạo quyền ấy đã không hội đủ những yếu tính của một “chính quyền”, đã biến thành một gian đảng, một tổ chức tội ác, mà tội nặng nhất là bán nước với nguy cơ Bắc thuộc đang tới gần.
“Cái được gọi là cộng sản Việt Nam” phải bị đào thải, bị loại trừ là điều tất yếu, dựa trên bài học Đông Âu và Liên Sô, và căn cứ vào thực trạng đất nước Việt Nam hôm nay.
Thời gian qua, bao nhiêu người ở trong nước đã can trường đứng lên trong đơn độc, đã bị đàn áp, khủng bố, tù tội, chịu nhiều khổ đau, và gây tại họa cho người thân, gia tộc. Trong số ấy, có những người chấp nhận hy sinh, chịu đựng cực hình, tiếp tục con đường gian khổ vì lòng yêu nước, trong khi nhiều người khác đã bỏ cuộc, ra khỏi nước.
Ở hải ngoại cũng có nhiều người lớn tiếng hô hào chống cộng, tố cáo tội ác của cộng sản, lập hội, lập đảng, lập đoàn, lập chính phủ lưu vong để phục quốc, giải trừ cộng sản nhưng phần lớn chỉ là những lời trống rỗng mộng mơ bên này bờ biển Thái Bình. Chưa nói có những đoàn thể cũng nhân danh chống cộng nhưng không thấy chống cộng mà chỉ lo chống nhau làm tan nát cộng đồng, cũng chưa nói đến những người nhân danh chống cộng để kiếm tiền và kiếm danh, trong đó không thể loại trừ khả năng có bàn tay của VC nhúng vào hay xâm nhập.
Tất cả những sự kiện trên đây đều cần phải được phân tích, mổ xẻ với sự can đảm, thẳng thắn. Và, không có thời điểm nào thích hợp hơn lúc này để thảo luận về cái chết của tàn dư CSVN vì vận mệnh của đất nước Việt Nam đang vô cùng lâm nguy.
Lịch sử của đảng CSVN là lịch sử đen tối và ô nhục của một gian đảng đã dùng lừa dối và bạo lực để chiếm đoạt đất nước Việt Nam và đày ải dân tộc Việt Nam trong suốt hơn bảy mươi năm qua. Bằng chứng của sự lừa dối trắng trợn nhất là cái lăng nằm giữa thủ đô Hà-Nội, trong đó có xác khô của một kẻ mà căn cước vô cùng mờ ám. Kẻ ấy là người đã đem chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, kẻ ấy đã mang bí danh là Hồ Chí Minh, một trong gần 200 bí danh, tức tên giả, của một cán bộ cộng sản quốc tế. Kẻ ấy đã được đồng đảng thần thánh hóa và tự thần thánh hóa, trên cả Đức Phật, Chúa Giê-Su, trên cả những tiền nhân anh hùng dân tộc trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dòng giống Vua Hùng.
Hồ Chí Minh được đồng đảng tôn xưng là “cha già dân tộc”, là “lãnh tụ vĩ đại” của cách mạng, là “bác Hồ kính yêu” của toàn dân, được đúc tượng tôn thờ khắp nơi trên cả nước. Thực ra, kẻ ấy là chánh phạm số một của bao nhiêu tội ác tày trời mà đảng CSVN đã gây ra trong hơn bảy mươi năm cầm quyền, trong đó tội nặng nhất là đã sát hại, thủ tiêu hơn một triệu người vô tội thuộc thành phần yêu nước, đảng phái quốc gia, địa chủ, trí thức, tinh hoa của xã hội, chưa kể hơn ba triệu người đã chết trong cuộc chiến tranh mà Lê Duẩn đã thú nhận: “Ta đánh đây là đánh cho Liên-Xô, cho Trung Quốc”.
Nhưng, hồ chí minh là ai?
Câu hỏi này ngày càng trở nên mù mờ hơn, khi vào năm 2008 Gáo sư Hồ Tuấn Hùng ở Đài-Loan đã xuất bản một cuốn sách mang tựa đề “hồ chí minh Sanh Bình Khảo”, tiết lộ rằng cái xác khô đang nằm trong lăng hồ chí minh ở Hà-nội là của một người Tàu tên là Hồ Tập Chương!
Cũng trong thời gian từ 2007 tới 2014, bốn nguồn tin trong báo Trung Cộng cùng xác nhận “Thiếu tá Hồ Quang trong đệ bát lộ quân Trung cộng (1938-1940) chính là hồ chí minh” (có kèm theo hình ảnh).
Đâu là sự thật?
Đảng CSVN đã hoàn toàn im lặng, trong lúc mọi người hoang mang tìm hiểu, và đã có nhiều bài viết về vụ này với những nhận định khác nhau, kẻ tin người ngờ.
Phải chăng CSVN biết cái xác khô chưng bày trong “Lăng Bác” ở Hà-Nội không phải là hồ chí minh? Ngược lại, nếu cái xác khô ấy đúng là của Nguyễn Sinh Cung (tên trên giấy khai sinh của “Chủ tịch hồ chí minh”) thì tại sao không lên tiếng bác bỏ “tin vịt” và cho thử DNA để xác nhận hồ chí minh đúng là con của ông Nguyễn Sinh Sắc mà di cốt nằm trong khu di tích ở Cao Lãnh?
Có người cho rằng CSVN đã quen thói ngạo mạn, xưa nay vẫn coi thường dư luận quần chúng nên đối với vụ này họ cũng không thèm quan tâm tới những lời ong tiếng ve bên ngoài, vì không làm sứt mẻ chút nào quyền lực vô giới hạn của họ. Suy đoán này cũng không hẳn là vô lý.
Khởi đầu từ hai con số không, ngày nay họ đã ôm trong tay tất cả, nhờ lừa bịp và bạo lực. Thu hoạch quá lớn ấy đã làm họ thành ngạo mạn và nghĩ rằng chuyên chính vô sản đã biến chín mươi triệu người dân Việt Nam thành bầy cừu ngoan ngoãn. Nhưng, CSVN đã không chịu học bài học lịch sử của Đông Âu và Liên-Sô 30 năm trước.
Trở lại cuộc hội thảo chính trị ngày 13 tháng 7 vừa qua. Với một chủ đề quan trọng và rộng lớn như vậy, đáng lẽ phải được diễn ra trong vài ngày, với nhiều diễn giả hơn, và nhiều thì giờ hơn để thảo luận. Nhưng vì những khó khăn không thể vượt qua, cuộc hội thảo chỉ đã diễn ra trong buổi chiều thứ bảy, từ 1 giờ tới 6 giờ, với hai diễn giả là Tiến sĩ Nguyễn Anh Tuấn, nhà nghiên cứ khoa học chính trị nổi tiếng đến từ Hawaii, và Nhà bình luận chính trị Đại Dương tại Vùng Hoa-Thịnh-Đốn.
Dù chỉ có khoảng một tháng để chuẩn bị, nhưng cuộc hội thảo chính trị khô khan với một chủ đề “gây nhiều thắc mắc” cũng đã diễn ra không ngoài mong đợi của ban tổ chức, gồm những người không đảng phái, không phe nhóm, không nhân danh bất cứ cái gì, chỉ ngồi lại với nhau để làm việc cần làm và có thể làm với khả năng hạn chế của người Việt ở hải ngoại muốn đóng góp chút gì vào cuộc chiến đấu cam go của đồng bào ở quê nhà. Do đó đã nhận được sự đáp ứng, tiếp tay của nhiều giới trong cộng đồng và đã thu hút được một thành phần cử tọa chọn lọc gồm nhiều khuôn mặt quen thuộc trong những sinh hoạt chính trị tại Vùng Thủ đô Washington, kể cả vài người đến từ các tiểu bang lân cận mà xa nhất là từ Michigan.
Cuộc thảo luận, trao đổi ý kiến giữa những người tham dự và các diễn giả đã kéo dài hơn ba tiếng đồng hồ đều xoay quanh chủ đề đòi hỏi nhiều suy nghĩ nhưng không giây phút nào rơi vào sự tẻ nhạt mà cũng không đi tới chỗ “bùng nổ”.
Tóm lại, qua cuộc hội thảo này có thể rút tỉa được những bài học lịch sử dưới đây:
Thứ nhất: Biến cố Đông Âu đã xóa bỏ vĩnh viễn huyền thoại xuất phát từ lời dạy của Lê-nin: “Cai trị triệt để bằng bạo lực thì chế độ cộng sản sẽ không bao giờ sụp đổ”. Nó đã sụp đổ ngay tại quê hương của Lê-nin.
Thứ hai: Tất cả những cuộc cách mạng lật đổ các chế độ cộng sản tại Đông Âu, dù có những đặc tính riêng, đều phát xuất từ người dân với những phản kháng, chống đối lâu dài, trong nhiều năm, hay nhiều chục năm, cho đến khi thành công vào năm 1989.
Thứ ba: Do sự giác ngộ của một thành phần đảng viên cộng sản trong bộ máy thống trị đã là yếu tố quyết định giúp những cuộc nổi dậy của dân chúng thành công, tại Đông Âu năm 1989 và tại Liên Sô hai năm sau, 1991.
Ba bài học lịch sử nói trên rút ra từ biến cố Đông Âu 1989, đã một lần nữa chứng minh rằng “Tự do không bao giờ là một món quà cho không từ bên ngoài. Cũng không bao giờ do xin mà có.”
Từ ngày các chế độ cộng sản được dựng lên tại Đông Âu, không bao giờ không có đấu tranh, phản kháng, chống đối - bất chấp đàn áp, tù tội. Đó là nhân tố tiềm tàng nội tại đầu tiên đã tạo ra những ngoại lực để đưa đến những cuộc cách mạng đáy tầng rực rỡ vào những tuần lễ cuối cùng của năm 1989 tại Đông Âu mà Ba Lan là nước đi đầu.
Tại Việt Nam, ngay sau khi cuộc chiến tranh súng đạn chấm dứt vào năm 1975, một cuộc chiến khác cho tự do, dân chủ đã bắt đầu bằng những sự đối kháng tự phát của những người, hay những nhóm người bất khuất, không chấp nhận cuộc sống nô lệ, cúi đầu, khom lưng dưới sự chà đạp của bạo quyền, đi ngược lại trào lưu dân chủ hóa đang diễn ra trên thế giới..
Cuộc đối kháng bất bạo động, không cân sức, can trường và đầy chính nghĩa đã kéo dài cho tới ngày nay, dưới hình thức này hay hình thức khác. Hàng ngàn người đã bị đàn áp, khủng bố, tù tội. Nhiều đảng viên cũng đã lên tiếng khản kháng và ra khỏi đảng, cho thấy hàng ngũ của đảng CSVN không còn chặt chẽ như trong thời chiến tranh. Có thể nhiều đảng viên đã tỉnh ngộ, kể cả trong thành phần đạo, nhưng vẫn im lặng, chờ thời cơ thuận lợi, khi có biến động sẽ đứng về phía quần chúng để làm một cuộc cách mạng.
Biến động có thể xảy ra do sự đàn áp một cuộc biểu tình lớn với vài trăm ngàn hay hàng triệu người tại Hà-Nội hay Sài-Gòn vì một lý do nào đó. Biến động cũng có thể xảy ra khi Tàu cộng có loạn hay sụp đổ vì không đứng nổi trong cuộc chiến thanh thương mại với Hoa Kỳ. Tình hình căng thẳng ở Biển Đông cũng có thể làm bùng nổ chiến tranh và biến động tại Việt Nam.
Trên đây có thể là những “kịch bản” sẽ đưa đến sự sụp đổ của “cái gọi là Cộng sản Việt Nam”, trong đó không thể thiếu “vai trò” của người dân Việt Nam và “vai trò” của những đảng viên giác ngộ, cùng nhau làm nên lịch sử.
Vận nước đang vô cùng đen tối trước đại nạn thù trong giặc ngoài, ước mong và kêu gọi những thành phần giác ngộ trong đảng Cộng sản Việt Nam, noi gương Đông Âu, hãy nắm lấy thời cơ, can trường đứng lên cùng toàn dân cứu nước, chống ngoại xâm, trước khi quá muộn, để dân tộc hồi sinh và ngước mặt, ngẩng cao đầu, sánh vai bình đẳng với cộng đồng nhân loại văn minh, tiến bộ.
Ngày 23.8.2019 tại Falls Church, Virgina
Sơn Tùng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét