Thời điểm tháng 4 năm 1975 là một cột mốc lịch sử, mà những sự kiện xảy ra sau đó đã hình thành nên một khái niệm chưa từng có trong lịch sử: khái niệm nhạc hải ngoại.<!>
Sau thời điểm đó, hầu hết các ca sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng của miền Nam, bằng nhiều cách khác nhau, đã chuyển sang sinh sống ở khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên cũng có một vài ca sĩ, nhạc sĩ đã rời khỏi Việt Nam từ trước tháng 4 năm 1975 để đi du lịch, đi du học hoặc là đang sinh sống, hoạt động âm nhạc ở nước ngoài.
Bài viết này điểm danh lại những nghệ sĩ đang ở nước ngoài trong thời khắc lịch sử tháng 4 năm 1975.
Ca sĩ Bạch Yến
Danh ca Bạch Yến là nữ danh ca miền Nam nổi danh từ rất sớm. 8 tuổi đã làm quen với âm nhạc, 14 tuổi đã là ca sĩ của các phòng trà tại Sài Gòn, 15 tuổi thành danh với ca khúc Đêm Đông rồi lại trở thành ca sỹ Việt Nam đầu tiên đi lưu diễn khắp châu Mỹ. Nữ danh ca Bạch Yến là một hiện tượng âm nhạc Việt cho đến tận hôm nay.
Khi đang ở đỉnh cao của sự nghiệp thì năm 1961, khi mới 19 tuổi, Bạch Yến cùng với mẹ bán căn nhà để lấy tiền sang Paris, Pháp, với mong ước được học hỏi những tinh hoa của âm nhạc Tây phương. Bạch Yến được ông Phạm Văn Mười thu nhận làm ca sĩ, hát tại nhà hàng sang trọng La Table Du Mandarin do ông làm chủ trên đường Rue de l Echelle, quận 1, Paris. Trong thời gian này, Bạch Yến được hãng Polydor của Pháp mời thâu đĩa và lưu diễn một số nước châu Âu.
Bạch Yến trên bìa đĩa của hãng Polydor của Pháp, năm cô 20 tuổi
Nói về lý do bỏ lại mọi tiếng tăm để đi du học dù sự nghiệp đang ở đỉnh cao, Bạch Yến nói: “Chính vì đã có những thành công đó nên tôi mới phải đi học. Sự nổi tiếng đó cũng chỉ là nổi trong một cái ao thôi, không nên là những con ếch tự hào tiếng mình kêu to, kêu vang trong cái ao làng nhà mình mà phải đi học kỹ thuật hát bài bản để hát được bền. Phải biết cách giữ khán giả lại cho mình bằng sự nâng cấp trong sự nghiệp. Khi ra đi, tôi quyết được thành công giống như danh ca Edith Piaf, từng làm mưa làm gió sân khấu mọi thời đại với nhạc khúc La vie Rose”.
Khi sống tại Châu Âu, có thu nhập lý tưởng, nhưng Bạch Yến không hài lòng. Trong mắt khán giả, cô chỉ là một khuôn mặt Á Đông xa lạ. Thế là năm 1963, Bạch Yến quay về Việt Nam và trụ lại phòng trà Tự Do của ông Ngô Văn Cường, một người từng sống lâu năm ở Pháp. Bấy giờ Bạch Yến đã bước sang tuổi 21, và đã trải qua 7 năm sống đời ca hát với những thành công rực rỡ. Cô được nhiều phòng trà, vũ trường mời gọi.
Năm 1965, cô được Ed Sullivan mời sang Mỹ. Show Ed Sullivan lúc ấy cực kỳ ăn khách, giới thiệu tất cả những ban nhạc và ca sĩ hàng đầu của Mỹ, Anh và thế giới, có show thu hút đến 35 triệu người xem. Bạch Yến lên hát show này và rồi được mời nán lại đi lưu diễn khắp Mỹ châu thêm 12 năm nữa, bên cạnh những nghệ sĩ lừng danh của Hoa Kỳ như Bob Hope, Bing Crosby, Pat Boone… Có thể nói, Bạch Yến là ca sĩ Việt Nam duy nhất hiện diện bên cạnh những nghệ sĩ quốc tế trong hơn một thập niên.
Andy
Danh ca Bạch Yến trong 1 show truyền hình Mỹ năm 1966, khi cô 24 tuổi
Bạch Yến kể: “Được hát trong Ed Sullivan Show là một vinh dự, nhất là tôi được hát cùng nhiều tên tuổi lớn như Bob Hope, Bo Crosby, Pat Boone, Frankie Avanlon…. Tôi nhớ tôi được hát 2 ca khúc là Đêm đông và If I had a hammer và được nhiều người khen. Từ chương trình, một ông đạo diễn đã mời tôi về thu âm ca khúc trong phim The Green Berets (Mũ nồi xanh). Rồi có nhà sản xuất mới tôi đi lưu diễn tại Mỹ, thế là dự tính đi Mỹ 2 tuần của tôi đã kéo tới hơn 12 năm. Tôi đi khắp nước Mỹ, đi các nước Nam Mỹ để hát”.
Như vậy trong vòng 12 năm, tính từ 1965 đến 1977, ca sĩ Bạch Yến đi khắp nước Mỹ để trình diễn. Trong quãng thời gian đó, thỉnh thoảng Bạch Yến có về Việt Nam để hát ở một vài shows lớn, nhưng không ở lại lâu mà đi ngay. Trong những lần về vội vã đó, cô đã để lại những vấn vương trong lòng người nhạc sĩ tài ba Lam Phương, người mà trước đó từng hỏi cưới Bạch Yến nhưng bị từ chối. Kết quả của sự vấn vương trong những lần đi đi về về đó của Bạch Yến là các bài hát bất hủ với những câu hát đầy lưu luyến:
Bài hát Tình Bơ Vơ:
Về làm chi rồi em vội vã ra đi…
Bài hát Chờ Người:
Chờ em, chờ đến bao giờ, mấy thu thuyền đã xa bờ.
và
Mười năm trời chẳng thương mình, để anh thành kẻ bạc tình (lúc đó Lam Phương đã cưới vợ nên tự nhận mình là kẻ bạc tình).
Như vậy, tại thời điểm tháng 4 năm 1975, ca sĩ Bạch Yến không ở Việt Nam mà đang sinh sống tại Mỹ. Đến năm 1978, cô về lại Paris và gặp nhạc sĩ Trần Quang Hải tại đây và cả 2 quyết định làm đám cưới chỉ sau 1 ngày gặp gỡ.
Ca sĩ Kim Loan
Ca sĩ Kim Loan được ông bầu là nhạc sĩ Nguyễn Đức nhận dạy từ lúc còn nhỏ khi mới vừa được 8-9 tuổi. Qua sự dẫn dắt này, Kim Loan đã trở thành một giọng ca đầy triển vọng. Năm 1966, khi mới 17 tuổi, Kim Loan đã ra mắt công chúng với bài hát “Căn Nhà Ngoại Ô” của nhạc sĩ Anh Bằng và ngay lập tức trở nên nổi tiếng.
Thời điểm đó Kim Loan còn rất trẻ nhưng nổi trội về nhan sắc, có khuôn mặt đẹp, nụ cười thật tươi, sóng mũi thanh tú, vầng trán băng sương, mái tóc buông dài và cài nơ thật đẹp. Vóc mình cô cao nhưng không thanh, bàn tay cô hơi thô, dáng đi cô không yêu kiều uyển chuyển. Nhưng cô ăn mặc đẹp, lộng lẫy mà không lố bịch.
Tiếng hát Kim Loan tuy nồng ấm nhưng vẫn còn hơi thô ráp. Cô hát rất chân phương nên không biết bào mỏng ở vài chỗ để tiếng hát được mịn màng. Mặc dù vậy, chất giọng đặc biệt cùng với gương mặt khả ái này vẫn nhận được sự ái mộ đặc biệt qua các bài hát Ngoại Ô Buồn, Gõ Cửa, Căn Nhà Ngoại Ô…
Khi đang ở đỉnh cao của sự nghiệp thì năm 1969, khi mới 20 tuổi, cũng giống như danh ca Bạch Yến, ca sĩ Kim Loan đã đột ngột ra nước ngoài du học. Từ đó đã xuất hiện không biết bao nhiêu lời bàn tán về sự việc này, nhiều người cho rằng Kim Loan phải “chạy trốn” vì liên quan đến bê bối tình ái với đương kim tổng thống.
Tuy nhiên, sau này Kim Loan có giải thích về việc cô bỏ lại sau lưng ánh hào quang sáng chói của sự nghiệp ca hát để sang Tây Đức du học và lấy chồng rồi định cư tại đây từ năm 1969 cho đến tận về sau này. Lúc đó cô mới 20 tuổi, cảm thấy không còn thích hợp với nghề ca hát với nhiều sự đua chen, cộng với việc gia đình không khuyến khích nên cô đã bỏ sang Đức, nơi có người cậu ruột ở đó.
Những ngày mới đến nước Đức, Kim Loan học khoa Xã hội Sư phạm, sau đó vào làm ở Bộ Xã Hội của chính phủ Đức trong nhiều năm. Cô cũng vừa đi làm vừa học thêm, nhờ học được mấy năm ở Khoa Cosmotology, cô đã vào làm việc ở những mỹ viện rồi sau đó mở một Thẩm Mỹ Viện riêng.
Ca sĩ Kim Anh
Ca sĩ Kim Anh tên thật là Mạch Kim Anh, sinh 1953 trong một gia đình gốc Hoa tại Sa Đéc, Đồng Tháp.
Gia đình Kim Anh không có truyền thống về nghệ thuật. Tất cả ba, mẹ, anh không ai nói rành được tiếng Việt. Ngay từ nhỏ cô đã được lớn lên trong vòng tay yêu thương của ba mẹ và gia đình. Năm 14 tuổi Kim Anh mới biết cầm đũa ăn cơm. Chính vì điều đó, Kim Anh luôn là một cô bé nhõng nhẽo, suốt ngày chỉ ăn chơi quậy phá, “ăn vạ”.
Năm 1969, khi mới 16 tuổi, ca sĩ Kim Anh có được một suất học bổng đi du học Mỹ và ở tại đây nhiều năm về sau này, ngay cả khi người cha hết mực yêu thương của cô qua đời, cô cũng không thể về được.
Nói về cơ duyên của việc du học này, ca sĩ Kim Anh kể lại:
Hồi tôi học cấp một, chiều nào, tôi cũng chạy ra sân banh chơi. Tôi thấy một ông người Mỹ chạy cái xe Jeep đến đậu ở sân banh. Tôi rất tinh nghịch, phá phách mở xe của người ta chạy. Xe chạy, tôi không biết cách dừng lại nên xe rớt luôn xuống mương. Tôi nghĩ ông người Mỹ này sẽ bắt mình ở tù nhưng không ông ấy cười hắt hắt, rồi tự câu xe lên. Tuần sau, ông lại đi xe khác đến, tôi cũng lái thử. Ổng khen tôi thông minh. Ông thấy vậy mới xin ba cho tôi đi du học, chứ để ở Việt Nam uổng lắm, tiếc lắm. Ông ấy khen đầu óc tôi mạo hiểm, ham thích phiêu lưu phải cho đi nước ngoài.
Năm 16 tuổi, ba đồng ý cho tôi đi du học ở Mỹ với diện trao đổi du học sinh, được tài trợ hoàn toàn. Một mình sang nước Mỹ, tôi sợ lắm. Đó là chuyến phiêu lưu thực sự. Tôi sang Mỹ bằng máy bay quân đội. Lên máy bay, tôi nhìn quanh quất mà không tìm được một người quen. Lúc này, người ở quê đồn đại, ba ham giàu nên cho tôi đi lấy Mỹ. Bởi vậy, tôi ở nhà không yên, đi cũng không biết sống chết thế nào. Sang Mỹ, tôi chưa có bằng tú tài nên người ta đòi trục xuất tôi về. Người đàn ông bảo lãnh tôi đi Mỹ du học, làm trong quân đội được 20 năm. Thế nhưng, tình thế cấp bách, ông chấp nhận hy sinh cả sự nghiệp để giữ đúng lời hứa với ba tôi. Ông ấy cho tôi biết, ông đã hứa với ba phải đảm bảo cho tôi học xong đại học mới về nước. Bằng mọi giá, ông không để tôi bị trục xuất.
Sau một thời gian bỡ ngỡ và khó khăn ban đầu, Kim Anh cũng đã dần hòa nhập với cuộc sống nơi đất khách quê người và trở thành một ca sĩ tiếng tăm ở hải ngoại. Cô nói rằng: “Đó chính là số phận”. Số phận đã đưa đẩy cô đến với một quốc gia xa lạ. Số phận đưa cô vào nghiệp cầm ca và bước sang nhiều nhánh rẽ khác nhau trên những chặng đường của thân thận hào quang và bóng tối.
Ca sĩ Julie Quang
Ca sĩ Julie sinh năm 1951, mang hai dòng máu Việt và Ấn, nói và hát được thông thạo tiếng Pháp và Anh. Cô là con cả trong một gia đình gồm sáu chị em. Mẹ của Julie là bà Nguyễn Thị Hoài, người đã gây nguồn cảm hứng cho Phạm Duy viết nên bản nhạc Mái Tóc Chị Hoài cho cô hát. Cha cô là lính trong quân đội viễn chinh Pháp, lúc cô mới 11 tháng thì cô và mẹ cô phải theo ba cô qua Pondichery, Ấn Độ. Sau năm năm, mẹ cô cùng chị em cô quay về lại Việt Nam sống với ông bà ngoại ở Cần Thơ.
Julie bước vào con đường nghệ thuật chính do sự khuyến khích của mẹ. Cô đi hát nhạc Mỹ với những ban nhạc trẻ vào những năm cuối thập niên 60 cho các căn cứ quân đội Hoa Kỳ ở Long Bình, Biên Hòa, Nha Trang, Ban Mê Thuột, Tân Sơn Nhất…
Julie bước qua lãnh vực tân nhạc Việt Nam kể từ những năm đầu của thập niên 70 và đã tạo ngay được sự thành công qua sự dẫn dắt của nhạc sĩ Phạm Duy cùng với những nhạc phẩm của ông, đặc biệt là bài Mùa Thu Chết. Vào thời kỳ này, theo ý của nhạc sĩ Phạm Duy, cô lấy nghệ danh là Julie Quang khi lập gia đình với Duy Quang.
Người nghe nhạc Việt Nam hẳn vẫn nhớ những phút giây thăng hoa của Duy Quang và Julie trên sân khấu, khi 2 người trong ban nhạc The Dreamers, họ là cặp đôi đẹp dưới cả ánh đèn màu và cả dưới ánh mắt của những người hâm mộ tiếng hát họ.
Nhưng rồi, Julie đã chia tay với Duy Quang một cách bất ngờ mà theo Duy Quang tâm sự: “Do khi ấy chúng tôi còn quá trẻ, chẳng có kinh nghiệm trong đời, huống gì tính đến chuyện trăm năm”.
Họ ly thân với nhau, Julie Quang lấy lại tên Julie, rồi tách khỏi nhóm The Dreamers, thay thế Julie trong Dreamers là cô em Thái Hiền của Duy Quang. Mùa Giáng Sinh năm 1974, Julie sang Pháp du lịch giữa lúc tình hình miền Nam đang chao đảo và không thể ngờ rằng chỉ vài tháng sau đó, cô không còn cơ hội để về lại Sài Gòn nữa.
Duy Quang và Julie sống với nhau không có hôn thú, có một người con gái là Phạm Ly Lan. Tuy là đang ly thân nhưng năm 1978, Julie vẫn bảo lãnh Duy Quang sang Pháp, rồi đến năm 1982 thì họ mới chính thức chia tay.
Khi Duy Quang lâm bệnh nặng hồi năm 2012, tình xưa nghĩa cũ, Julie chính là người kề cận chăm sóc Duy Quang vào những giờ phút cuối cùng.
Ca sĩ Khánh Hà
Ca sĩ Khánh Hà tên thật là Lã Thị Khánh Hà, sinh năm 1952 tại Đà Lạt. Cha cô là nghệ sĩ nổi tiếng Lữ Liên. Do ảnh hưởng của cha, ngoài cô, 6 anh chị em trong gia đình cô về sau đều theo nghiệp ca hát và đều trở thành những danh ca ở hải ngoại, gồm Bích Chiêu, Tuấn Ngọc, Anh Tú, Thúy Anh, Lan Anh và Lưu Bích.
Chỉ vài tháng sau khi sinh, cô cùng gia đình di cư vào Sài Gòn. Dấu ấn đầu tiên trong sự nghiệp âm nhạc của cô là vào năm 16 tuổi, lần đầu tiên cô biểu diễn trong một chương trình văn nghệ phụ diễn Xổ số Kiến thiết quốc gia tại rạp Thống Nhất với bài “Chiến sĩ của lòng em”. Năm 1969, cô xuất hiện lần đầu tiên với loại nhạc trẻ trong chương trình “Hippies À GoGo” do nhạc sĩ Trường Kỳ tổ chức hàng tuần tại vũ trường Queen Bee trên đường Nguyễn Huệ, Sài Gòn. Cũng trong năm đó, cô chính thức đến với nhạc trẻ cùng anh trai Anh Tú, sau khi được tay trống Dũng khuyến khích và đã gia nhập ban nhạc The Flowers đi trình diễn tại các club Mỹ. Cuối năm đó, cô gia nhập ban nhạc The Blue Jets cùng với Anh Tú và Thúy Anh.
Khánh Hà lập gia đình từ rất sớm, vào năm 1970 khi mới 18 tuổi, bất chấp sự phản đối của gia đình. Tuy nhiên cô cho biết đó là cuộc hôn nhân sai lầm vì tuổi trẻ bồng bột và chấm dứt chỉ sau vài năm. Lấy nhau về rồi mới biết không hề hợp nhau trong cả cách sống, sinh hoạt hàng ngày đến cách nghĩ.
Tháng 3 năm 1975, Khánh Hà rời Việt Nam đến Hoa Kỳ với tư các là một du khách. Cô nói đó xem như là một bước rẽ do số phận. Khi sang Mỹ, vừa thoát khỏi nỗi buồn từ cuộc hôn nhân tan vỡ, vừa thoát khỏi sự nghiêm khắc của người mẹ nên cô cảm thấy được tự do hơn trước. Không ngờ lần đi “du lịch” đó của Khánh Hà chỉ đến trước sự kiện năm 1975 chỉ đúng 1 tháng. Sau tháng 4 năm 75, cô chính thức định cư ở Hoa Kỳ.
Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ
Nhắc đến nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, những người yêu thích nhạc vàng ai cũng biết đến tên tuổi của ông với nhiều bài nhạc vàng bất hủ: Đường Xưa Lối Cũ, Tà Áo Cưới, Duyên Quê, Tạ Tình… Ông cũng là một trong những nhạc sĩ tiên phong của dòng nhạc vàng.
Ngoài vai trò là một nhạc sĩ nổi tiếng, Hoàng Thi Thơ còn biết đến như là một “ông bầu” của làng nhạc miền Nam trước 75. Năm 1967, ông thành lập tiếp Đoàn Văn Nghệ Maxim, gồm 70 diễn viên ca-vũ-nhạc-kịch, tổ chức những chương trình ca vũ nhạc kịch đặc biệt tại nhà hàng Maxim. Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ là người duy nhất được Bộ Thông tin và Tổng cục Chiến tranh Chính trị nhiều lần cử thành lập và dẫn các đoàn văn nghệ Việt Nam sang Châu Âu trình diễn.
Đoàn văn nghệ Hoàng Thi Thơ trên đường lưu diễn
Tháng 4 năm 1975, Hoàng Thi Thơ dẫn đoàn văn nghệ sang lưu diễn ở Nhật Bản thì xảy ra sự kiện lịch sử ngày 30-4. Ông không thể trở về nước được và từ đó phải định cư ở Hoa Kỳ.
Đoàn văn nghệ Hoàng Thi Thơ trong studio của đài truyền hình ở Nhật Bản
Giáo sư – nhạc sĩ Trần Văn Khê
Trần Văn Khê là một giáo sư – nhạc sĩ nổi tiếng không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Ông là người có bề dày trong hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, có công trong quảng bá âm nhạc Việt Nam nói riêng, văn hóa Việt Nam nói chung ra thế giới.
Trần Văn Khê hoạt động chính trong lĩnh vực nghiên cứu nên ít sáng tác bài hát. Ông từng tham gia kháng chiến một thời gian cùng Việt Minh, tuy nhiên đến năm 1949 thì sang Pháp du học, rồi trở thành giáo sư âm nhạc, sinh sống ở nước ngoài trong gần 60 năm. Ông đã đi 67 nước trên khắp thế giới để nói chuyện, giảng dạy về âm nhạc dân tộc Việt Nam. Đến năm 2006, ông chính thức trở về sinh sống và tiếp tục sự nghiệp nghiên cứu và giảng dạy âm nhạc dân tộc tại Việt Nam.
Đông Kha (biên soạn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét