Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù do Thiếu Tá Ngô Tùng Châu – Khoá 18 VBQG Đà Lạt – chỉ huy, từ Hội An được lệnh di chuyển đến bàn giao với Sư Đoàn 3 Bộ Binh tại một đồi thấp ở phía Nam Đông Lâm khoảng 3 cây số. TĐ1 đi cánh phải của Lữ Đoàn, mục tiêu đầu là đỉnh Đông Lâm. Đây là một đồn bót cũ (căn cứ cũ), địa thế xung quanh trống trải, dọc dài xuống tận chân núi. Các đại đội tiến quân dưới cơn mưa pháo của địch, họ phải xung phong thần tốc bám sát và đánh cận chiến để địch không sử dụng được các bãi pháo mà họ đã chuẩn bị sẵn.
Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó Quý chỉ huy 2 đại đội thanh toán các tổ cảm tử quân cộng phỉ đang đóng chốt trên những điểm cao, những hốc đá cheo leo dọc theo dãy Sơn Gà. Một trở lực lớn là quá nhiều mìn bẫy (thuộc loại “mìn hơi” làm bằng nhựa nhỏ cỡ hộp thịt ba lát). Loại mìn nầy có thể làm hủy diệt 2 chân nếu dẫm phải. Tại đây ĐĐ11 ND bị tổn thất 2 chiến sĩ vì đạp trúng mìn hơi nầy.
Lữ đoàn phải tăng phái toán rà mìn của Đại Đội 1 Công Binh Nhảy Dù để mở đường. Mục tiêu Đông Lâm được chiếm lĩnh dễ dàng vì không có lực lượng phòng ngự của địch. Tuy nhiên các chiến sĩ Nhảy Dù hoàn toàn thụ động trước những tấn công lẻ tẻ bằng súng đại bác không giật từ những đỉnh đá.
Một điều quan trọng là tiền quân của Tiểu Đoàn 1 của Đại Úy Trần Văn Thể, ĐĐT/ĐĐ11 đã tìm được toán tiền sát viên Pháo Binh của địch gồm 2 người đã chết (cụt chân do mìn hơi) và một người còn sống với đầy đủ máy truyền tin, bản đồ và địa bàn. Từ đó vị trí các lực lượng bạn không còn bị pháo kích chính xác nữa.
Thể tốt nghiệp khóa 24 Đà Lạt, anh là một sĩ quan tài giỏi, lập nhiều chiến công lừng lẫy trong trận Hạ Lào, Quảng Trị nên được thăng cấp Đại Úy đặc cách mặt trận rất sớm.
Đáng lý theo dự tính, Đông Lâm là điểm hẹn giữa ĐĐ11 của Thể và ĐĐ14 của Trung Úy Vệ đi với Thiếu Tá Quý; nhưng vì không chạm địch nên hai đại đội nầy trực chỉ tới mục tiêu B.
Từ đỉnh Đông Lâm, TĐ1 (lợi thế hơn 2 cánh quân bạn) tiến quân trên đường đỉnh dãy Sơn Gà; địa thế đủ rộng cho hai đại đội đi đầu, và tốc độ tiến quân cũng nhanh hơn. Do đó TĐ1 ND từ cao điểm đã bảo vệ hữu hiệu sườn phải cho Lữ Đoàn. Quả thật vậy, qua sự phối hợp hàng ngang với TĐ9 ND, TĐ1 ND đã cho lệnh Đại Đội 11 “Đạp” xuống cứ điểm B, nơi địch đang cầm chân tiền quân của TĐ9 ND.
Xuyên qua thung lũng, Thể dẫn quân đến B một cách bất ngờ, và ở ngay sau lưng địch. Đối diện với lũ cộng phỉ là TĐ9 Dù đang bị cầm chân ở tại dốc đá. Nhờ lợi thế cao, ĐĐ11 chừa lại một trung đội ở B để đóng chốt và giữ ba lô cho các trung đội khác. Thành phần còn lại tập trung hỏa lực, xung phong đánh thần tốc và tràn ngập cứ điểm B1.
Lũ phỉ quân cộng sản bắc việt kinh hãi hoảng hốt xả chốt bỏ chạy tán loạn, để lại vô số xác đồng bọn. Chỉ trong vòng 2 tiếng đồng hồ, ĐĐ11 đã kiểm soát hoàn toàn các đỉnh đá ở phía Nam của B. Chốt B1 được giải tỏa dễ dàng với chiến lợi phẩm là 1 súng cối 61 ly, 1 thượng liên, 7 AK, 4 B-40, 1 điện thoại, một số đạn 72 ly nhưng không tìm được súng. (Sau nầy TĐ11 ND của Trung Tá Lê Văn Mễ dùng nơi đây làm chỗ đóng quân tạm thời cho BCH/TĐ).
Trời đã chạng vạng tối, chờ bắt tay mãi với TĐ9 không được, ĐĐ11 phải tạm đóng quân đêm tại B và B1. Một biến cố xảy ra đêm đó, đặc công địch bò trở lại đột kích B1 bằng B-40 rồi bỏ chạy. Chuẩn Úy Tuyến đã bị hy sinh đêm đó!
Sáng hôm sau, địch pháo kích mạnh mẽ bằng 122 ly vào B và B1 nhưng không chính xác nên không bị tổn thất. Khoảng 11 giờ trưa, Thiếu Tá Quý và ĐĐ14 bắt tay với ĐĐ11, đồng thời TĐ9 cùng xuất hiện và đóng chốt tại B2.
Có lẽ cứ điểm C (mục tiêu C) mới thật là một tiền đồn mạnh mẽ của địch. ĐĐ14 đi đầu và chạm địch trước khi tới C. Thiếu Tá Nguyễn Văn Quý – Khóa 17 Thủ Đức – đi với cánh quân bọc hậu là ĐĐ11 của Đ/U Thể. Một phần vì địa thế hiểm trở (một yên ngựa độc đạo trống trải), thêm vào đó yếu tố bất ngờ không còn nữa. Địch đã chuẩn bị sẵn sàng với hầm hố kiên cố để đón ĐĐ14.
Công sự phòng thủ của địch thật vô cùng kiên cố, lại thêm rừng cây cổ thụ cao lớn; ta sử dụng pháo binh rất khó, vì sợ đạn chạm ngọn cây nổ từ cao gây thương tích cho quân bạn (hầm địch có nắp che).
Suốt 3 ngày cầm cự, ĐĐ14 không thể tiến lên được đành phải án binh tại chỗ. Thiếu tá Quý đẩy ĐĐ11 thọc sâu về phía Tây rồi từ đó tiến đánh C bằng hướng Nam. Địch trên cao ta dưới thấp, nhưng nhờ hốc đá nên ĐĐ11 bám sát tiến lần vào cách C khoảng 200 thước, và phải dừng lại vì sợ lọt vào tầm lựu đạn.
Nhờ địch tưởng ta tấn công mặt Nam, nên TĐ1 sử dụng đại bác 57 ly và súng cối 81 ly để có thể bắn chính xác vào mục tiêu. Thiếu tá Quý cho tập trung 5 khẩu đại liên M60, chờ bắn hơi cay cho địch chạy ra khỏi hầm trú ẩn, thì tập trung hỏa lực mạnh mẽ bắn phủ đầu địch.
ĐĐ14 bất thần xuyên nhanh qua yên ngựa để chiếm C, từng tổ 3 người bò dưới hỏa lực tiến vào mục tiêu dùng lựu đạn ném vào phòng tuyến địch, rồi lập tức xung phong chiếm hầm hố địch làm đầu cầu; kế đó họ bung rộng ra đánh chiếm từng hầm một. Thừa thắng Thiếu Tá Quý đẩy 14 qua thẳng 1062, nhưng mọi dự tính không xảy ra như mong muốn, và cũng từ đó ĐĐ11 và ĐĐ14 phải trả giá rất đắt cho đỉnh 1062.
Sau khi địch tháo chạy vì sự tấn công quá dũng mãnh của các chiến sĩ thiện chiến TĐ1 ND, hai ĐĐ11 và ĐĐ14 chia nhau bố trí lập vị trí phòng thủ sơ khởi để ngăn ngừa địch phản công. Một trận mưa cối sơn pháo 120 ly của địch quân bủa xuống, tiếng nổ vang khắp rừng già, khói phủ mù mịt trận địa!
Nhờ bung rộng và hầm hố kiên cố của địch để lại, nên binh sĩ ta tránh được thiệt hại nặng nề bởi trận mưa pháo tập trung và chính xác nầy!
Càng tiến gần về 1062, địa thế càng hiểm trở: rừng rậm hơn, cây to nhiều hơn, sườn càng dốc đứng hơn. Từ cứ điểm C nhìn lên mục tiêu, ở cao hơn 2 vòng cao độ (theo bản đồ quân sự tương đương 20 thước). Cách xa chừng 150 thước, ta thấy rõ địch đang lố nhố chạy tới chạy lui tăng cường phòng thủ.
Thiếu Tá Quý gọi xin pháo binh bắn “Cắm chỉ” lên mục tiêu đó ngày và đêm. Đây được gọi là mục tiêu D, một trong 5 đỉnh của 1062. Giữa C và D là một thung lũng (eo yên ngựa) sâu khoảng hơn 20 thước. Như vậy quân ta nếu tấn công mục tiêu D, ít nhất phải vượt lên một dốc đứng cao tới hơn 40 thước! Từ D, địch thỉnh thoảng bắn trực xạ bằng đại bác và thượng liên xuống mục tiêu C, nhưng không gây thiệt hại đáng kể nào cho quân bạn.
Tình thế hiện tại thật bất lợi:
1) TĐ8 và TĐ9 còn cách quá xa 1062, chỉ có TĐ1 ND là gần và đang ở cao địa, không ai bảo vệ cạnh sườn để tiếp ứng kịp thời.
2) Địa thế địch hiểm trở dễ thủ khó công (địch ở cao, ta dưới thấp).
3) Địch chuẩn bị chiến trường đợi ta (với những trận địa pháo và hầm hố kiên cố).
Lúc bấy giờ ta chưa biết là có 5 đỉnh nhỏ trên 1062, vì bản đồ chỉ có một dấu chữ thập bên cạnh số 1062. Năm đỉnh nhỏ nầy nằm theo thế liên hoàn, yểm trợ cho nhau bằng hỏa lực dễ dàng. Diện tích rộng khoảng 2 đại đội mới bao phủ nổi.
Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù quyết định đột kích đêm và lợi dụng gió Đông làm một trận hỏa công. Lực lượng cảm tử gồm 2 trung đội: Thiếu Úy Lê Văn Bá chỉ huy 1 trung đội thuộc ĐĐ14 của Trung Úy Vệ và Thiếu Úy Trần Thanh Quang chỉ huy 1 trung đội của ĐĐ11.
Đây là 2 sĩ quan xuất sắc đã từng lập nhiều thành tích chiến thắng cho tiểu đoàn. ĐĐ11(-) làm thành phần trừ bị sẵn sàng tiếp ứng kịp thời cho lực lượng tấn công. Tần số liên lạc thuộc nội bộ của ĐĐ11 do Thiếu tá Quý trực tiếp chỉ huy. Hỏa lực yểm trợ gồm súng cối 60 ly và 81 ly đã được chuẩn bị yếu tố tác xạ sẵn sàng.
Sáu giờ chiều, ánh sáng mặt trời trong rừng già đã tắt hẳn, 2 trung đội bắt đầu xuất phát. Thiếu Úy Quang dẫn trung đội đi bên trái, trung đội Thiếu úy Bá bên phải. Họ giữ đội hình đi song song và cách nhau khoảng từ 30 đến 40 thước. Pháo binh 105 ly của ta vẫn đều đều bắn cắm chỉ trên mục tiêu để địch lo trốn trong hầm, không ngóc đầu lên quan sát quân ta đang di chuyển.
Một giờ, hai giờ, rồi 3 giờ trôi qua… tình hình vẫn yên tĩnh, một thứ im lặng ngộp thở, vì mọi người đều lo cho số phận của đồng đội của mình. Hệ thống liên lạc vẫn tốt, Thiếu Úy Quang thì thầm trong máy:
– Rất gần địch, tiếng chửi thề của chúng nó nghe rõ mồn một, đích thân!
– Được ! Cẩn thận nghe Quang! – Thiếu Tá Quý trả lời nho nhỏ trong máy với giọng Huế chay.
Bỗng nghe một loạt đạn nổ bên phải rồi im lặng. Pháo binh ngưng tác xạ, 2 cánh quân vừa bắn vừa hô xung phong vang rền cả núi rừng hoang vu. Lửa bắt đầu cháy trên mục tiêu, nhiều nhất là bên cánh Thiếu Úy Quang. BCH Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù xin pháo binh chuyển xạ về hướng Tây để bắn chận quân địch. Tiếng của Quang vang trong máy:
– Chiếm được đỉnh 1062 rồi đích thân! Hầm quá nhiều và kiên cố, làm toàn bằng cây to. Mấy đứa con đang bung rộng chờ cánh quân bên phải!
Trời tối đen như mực, vẫn chưa liên lạc được Thiếu Úy Bá. Mười lăm phút sau, Thiếu Tá Quý đứng dưới mục tiêu C thấy trên D có từng cụm lửa lóe lên chen lẩn trận địa pháo bằng súng cối sơn pháo 120 ly của địch. Tiếng của Quang vang lên trong máy:
– Chúng pháo dữ quá đích thân, nhưng hầm hố kiên cố, không sao!
Rồi hàng loạt tiếng đạn AK47 kêu rít, tiếng Quang hét trong máy:
– Chúng nó phản công, đông lắm! Cho pháo binh bắn trên đầu tôi, tụi nó đông như kiến! Mau lên! Pháo! Pháo mau lên!
Ban đêm trời tối. ĐĐ11 trừ bị cho Quang và Bá đang ở lưng đồi yên ngựa. Trung đội Thiếu Úy Bá thì không liên lạc được ngay từ loạt đạn đầu. Sau nầy mới biết được Bá và 4 binh sĩ đã hy sinh vì mìn claymore (lấy của SĐ3 BB) ngay từ lúc đó!
Thiếu Tá TĐT Ngô Tùng Châu bảo Quý:
– Nếu thấy không được thì bảo Quang rút về, đừng hy sinh nhiều, ta sẽ tìm cách khác !
Nhưng Quang không nghe lệnh (hoặc không thể nghe lệnh)! Sau nầy mới biết là Quang đã tập trung đạn của các binh sĩ bị thương, bảo họ rút, còn Quang thì ở lại bắn tới hết đạn và hy sinh anh dũng trên mục tiêu D ! Đáng phục thay một chiến sĩ can trường, biết hy sinh bảo vệ thuộc cấp và làm tròn bổn phận núi sông!
Các chiến sĩ 2 trung đội đột kích của TĐ1 ND đã gặp sự kháng cự phản công quá mãnh liệt, quân số địch rất đông. Địch định lấy thịt đè người; từ đỉnh cao, khe núi, và các địa đạo trong rừng cây ùa ra như đàn ong vỡ tổ! Binh sĩ Dù ria bắn không nghỉ tay.
Trước khi gần hết đạn, Quang có gọi Thiếu Tá Quý phải kêu pháo binh bắn đạn nổ chụp ngay trên đầu thí quân, quyết liều sống chết với quân CSBV một phen; vì ta và địch lẫn lộn, không còn cách chọn lựa nào khác. Các đạn pháo CVT đã sát hại 10 phần địch và 3 phần quân bạn! Nhờ vậy các chiến sĩ ĐĐ11 được giải tỏa áp lực, xác địch và ta nằm ngổn ngang trên đỉnh đồi 1062.
ĐĐ14 của Trung Úy Vệ bị kẹt cứng ở yên ngựa nhỏ hẹp giữa mục tiêu C và mục tiêu D, hỏa lực địch phủ kín từ D và 1062. ĐĐ14 tổn thất mỗi ngày mà không tiến được bước nào. Pháo binh Dù được sử dụng tối đa nhưng địa thế núi cao cây rậm. Bản đồ ghi rõ đỉnh 1062, nhưng D1 và D2 ở phía Bắc và Đông Bắc trong thực tế còn cao hơn 1062. Vì thế pháo binh phải bắn góc độ cao mới “Gõ” vào 1062 được, nhưng với độ chính xác thật ít.
Thiếu Tá Quý lại dùng kế cũ (dương Đông kích Tây), đẩy ĐĐ11 về Tây để tấn công 1062 từ chính Nam nhằm giải tỏa áp lực ĐĐ14 như trường hợp đánh mục tiêu C. Nhưng lần nầy sự việc không như lần trước. ĐĐ11 vừa mới đến triền núi phía Nam của 1062 thì địch dùng 82 ly từ góc đồi phía Tây bắn trực xạ một cách dữ dội, ĐĐ11 bị hy sinh một Tiền sát viên và 4 binh sĩ chưa kể một số bị thương.
Rạng sáng, sau khi sử dụng pháo binh và súng cối 81 ly lối đa, ĐD11 dàn 3 trung đội tấn công 1062 từ chính Nam. Hai bên quần thảo gần 6 tiếng đồng hồ, cuối cùng ĐĐ11 chiếm được đỉnh 1062.
Nhưng chưa đầy 10 phút, địch đã từ D1 và D2 đồng loạt khai hỏa bằng đủ loại vũ khí phủ trùm 1062. May nhờ hệ thống giao thông hào của địch để lại nên cũng giảm bớt phần nào tổn thất.
Thượng liên bọn phỉ quân bắc việt bắn liên hồi từ nhiều vị trí, và sợ nhất là 61 ly của địch. Ngay đợt pháo đầu Thiếu Úy Huệ đã bị thương! Đỉnh 1062 trước đó đã bị phi pháo quần nát từ rậm rạp nay chỉ còn lại một đồi trọc với đất cát vàng cày xới tung tóe. ĐĐ11 không chịu nổi phải rút về triền núi phía Nam, Huệ kéo xuống được còn xác Quang bị cháy thành than như đã nói ở phần trên!
Tổn thất ĐĐ11:
- Thiếu Úy Quang và 15 binh sĩ hy sinh.
- 37 bị thương trong đó có Thiếu Úy Huệ và Thiếu Úy Quách An – K26 ĐL.
Trong khi đó bên ĐĐ14 cũng cố gắng xuyên thủng chốt địch trong hốc đá ở yên ngựa để lên 1062 bắt tay với ĐĐ11, nhưng mọi dự tính không thành. Trung Úy Vệ bị thương, Trung Úy Bằng, ĐĐP/ ĐĐ11 qua thay, hai ngày sau cũng bị tử thương vì lựu đạn địch!! Eo yên ngựa giống như một khúc xương kẹt ngay cổ họng, thật khó nuốt vô cùng!!!
Riêng ĐĐ12 của Trung Úy Thọ – K25 ĐL, và ĐĐ15 của Đại Úy Lộc – K23 ĐL, đi với Thiếu Tá TĐT Ngô Tùng Châu vẫn lục soát và làm thành phần trừ bị ở Đông Lâm. Trung Úy Thọ bị thương vì cố xung phong chiếm đỉnh D2 để bảo vệ sườn phải cho nỗ lực chính, Trung Úy Khánh (Truyền Tin) ra thay cũng bị tử thương. Vài hôm sau, TĐ8 của Thiếu Tá Vân vào thay; TĐ1 ND rút về Hà Nha dưỡng quân và bổ sung quân số.
Bước tiến quân của TĐ1 ND trong giai đoạn đầu đến sát chân đồi 1062, bảo vệ sườn phải cho TĐ9 ND. Sau đó Thiếu Tá Phú “Đen” đến thay thế làm Tiểu Đoàn Phó, Thiếu Tá Quý về đơn vị cũ làm Tiểu Đoàn Phó TĐ7ND.
Trương Dưỡng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét