Chị Bùi Bích Hà tại buổi trình diễn vở “Poor Yella Rednecks” tại South Coast Repertory, Quận Cam, Nam Cali, tháng 3/2021. (Ảnh Trùng Dương)
Vào một tối gần nửa khuya cách đây trên 10 năm, lúc ấy tôi chưa thân với chị lắm, chị tới gặp tôi tại nhà một chị bạn chung trong căn phòng share của chị bạn này, nơi tôi tá túc nhân một chuyến ghé Quận Cam, Nam Cali. Lúc ấy chị đang họp bàn với một số thân hữu ra một tờ nhật báo, mặc dù Quận Cam đã có một số nhật báo đang lưu hành. Và tôi vừa về hưu được đôi ba năm. Chị muốn mời tôi cộng tác giữ một chân trong ban chủ biên. Mặc dù hãnh diện được chị tới mời cộng tác, nhưng tôi thành thực nói với chị là tôi không đủ khả năng và cả bản lãnh đảm nhận vai trò là một thành viên trong ban chủ biên, nhưng nói sẽ thỉnh thoảng đóng góp bài vở
Mặc dù mang tiếng là tốt nghiệp báo chí tại một trường đại học ở California và đã có vài năm làm phóng viên và biên tập viên tại vài tờ báo Mỹ, truớc khi chuyển sang phụ trách bộ phận văn khố và nghiên cứu tin tức cho các phóng viên vì vào thập niên đầu của thế kỷ, Internet còn đang chập chững, phóng viên còn phải dựa vào tài liệu do nhân viên thư viện tin tức lục tìm cho. Đó là một cuộc tuyển người khác thường: thay vì người được tuyển nói về kinh nghiệm, và có khi tự thổi phồng, thì ngược lại. Chị có vẻ không vui lắm.
Trước khi chị ra về, tôi có hỏi chị tại sao chị ra tờ nhật báo. Tôi nghĩ chứ không nói ra, rằng báo chí đâu phải là sở trường của chị. Chị thành thực trả lời: “Để cho anh em họ có việc làm.”
Tờ báo, do chị đứng tên chủ nhiệm, ra được vài tháng thì đóng cửa. Nghe nói chị mất một số tiền lớn, chưa kể một số nợ nần chị phải mang, hình như tới giờ vẫn chưa trả hết. Chị cũng chịu nhiều điều tiếng. Có nguời nói với tôi là chị háo danh, háo thắng. Tôi nghĩ họ không hiểu chị đấy thôi.
Để cho anh em họ có việc làm. Câu nói đeo đẳng tôi. Chị như vậy đó. Luôn nghĩ tới người khác. Tôi còn được nghe vài lần câu nói tương tự đó từ chị ở vài cảnh huống khác sau đó. Khiến có lúc tôi nghĩ chị đã từng bị lợi dụng. Có bảo thẳng với chị như thế thì chị chỉ cười, nói thì đã sao, miễn là người khác vui là chị vui rồi. Như thể chị có nhu cầu được người khác cần tới mình. Như nhiều bà mẹ Việt truyền thống mà tôi biết, coi đó là ý nghĩa, một thứ sứ mệnh của đời mình
Sau khi chị thất bại với tờ nhật báo, tôi đến chơi với chị thường hơn. Tôi nghĩ đây có thể là lúc chị cần tới tôi hơn. Dù vậy, tôi ngưỡng mộ chị ở chỗ chị đã tự vực mình đứng dậy và tiếp tục cuộc hành trình. Dạo ấy, chị không chỉ bị thất bại với tờ nhật báo, mà cả với một đài phát thanh mà chị đã mua lại, vun xới gầy dựng, bỏ nhiều công của vào đó, để rồi bị mất. Không chịu thua cuộc, chị lại gầy dựng một đài phát thanh khác, trong khi tiếp tục làm một tờ tuần báo dành cho phụ nữ. Tôi cũng có dịp tiếp tay tích cực hơn qua việc đóng góp bài vở cho tờ tạp chí này.
Chị và tôi trở thành thân nhau hơn từ đấy. Mặc dù tôi có vài anh chị em cũng cư trú ở Quận Cam, nhưng mỗi lần xuống đấy chơi, giống như Trần Mộng Tú, tôi thường lê la ở nhà chị phần lớn thời gian. Đôi khi nhằm lúc Tú và tôi cùng xuống chơi, bộ ba chị em đi chơi chung, ăn uống hàn huyên thật vui, đúng là một thứ sisterhood. Chị hay xưng chị và gọi Tú bằng em, nhưng lại chỉ gọi tôi bằng tên cúng cơm của tôi và xưng mình, mặc dù tôi thua chị tới sáu, bẩy tuổi, và thua Tú một tuổi. Thỉnh thoảng chị “lỡ” xưng chị với tôi, nhận ra, chị xin lỗi, tất nhiên là không cần thiết. Nhưng chị như vậy đó – chi ly trong lời nói và sắc bén trong cái nhìn, nhiều khi chỉ là một cái liếc mắt. Giáo dục gia đình và nhiều năm làm cô giáo đã để lại nơi chị nhiều dấu ấn.
Ở chơi với chị, tôi có dịp biết nhiều hơn nữa về chị, và thêm cảm mến chị hơn. Chị sinh trưởng tại Huế, trong một gia đình gốc Bắc, nên chị nói được cả hai giọng Bắc và Huế trôi chảy. Chị có giọng nói trong, gọn và rõ ràng, tiếng nôm na gọi là “ăn micro,” dễ nhận ra. Nhiều người ở Quận Cam đã từng nghe chương trình của chị nghe tiếng chị ở ngoài chợ hay trên đường phố thường nhận ra giọng chị ngay, chạy tới hỏi thăm, thấy chị vui lắm. Chẳng thế mà khi chị còn đang học trung học, nghe bạn bè rủ, đi thi xướng ngôn viên cho đài phát thanh ở Huế, được nhận vào liền, nhưng không dám nhận việc vì bố cấm.
Chị có một thân thế hơi đặc biệt. Mẹ chị nguyên là một cô gái quê giúp việc trong một trong những đồn đỉền của bố chị. Bố chị có hai vợ, cả hai bà cùng không sinh được đứa con nào. Nhưng khi thử mẹ chị thì bà sinh cho ông ba người, duy có người thứ hai là con trai, nên được bà Cả đem về nuôi như thể con mình. Người con gái đầu hình như chết sớm sao đó. Khi chị Hà ra đời không ai buồn để ý, và mẹ chị do đấy được quyền nuôi chị, nhưng không được phép nhận là con. Chị gọi mẹ là chị, ăn ngủ với mẹ, mãi tới năm bẩy, tám tuổi mới biết đó là mẹ mình. Cũng vậy là người anh của chị. Cậu ấm được nuông chiều, đâm hư thân, hống hách. Một bữa tức giận vì mâm cơm “chị người làm” dọn không vừa lòng, cậu hất nguyên mâm cơm xuống đất. Ông quản gia nhìn thấy, gọi cậu ra một chỗ, cho cậu biết là chị người làm chính là mẹ cậu. Sự thật quá phũ phàng khiến cậu ấm bỏ nhà ra đi và nhập ngũ, thề không nhìn lại những người đã nói dối cậu. Mãi nhiều năm sau cậu mới quay lại nhìn nhận mẹ ruột, nhưng không nhìn bà mẹ Cả.
Chị kể với tôi, mấy lần, hồi chị còn học trung học, chị bắt đầu làm thơ viết truyện. Có lần nghe bạn bè rủ rê, chị gửi một truyện ngắn dự thi tại một tờ tạp chí ở Sài Gòn. Chẳng dè trúng giải nhất. Nhà văn Thanh Nam và Tô Kiều Ngân mang giải thưởng ra tận Huế trao, được ông bố chị tiếp đãi rất trang trọng và nhận giải thưởng hộ chị. Khi khách về rồi, ông cụ mới gọi chị ra nhận phần thưởng, gồm những gì chị nói mà tôi quên rồi. Rồi cụ nói, “Viết thế đủ rồi, nghe con. Lo mà học hành đi.” Chị nghe lời, gác bút sang một bên từ đấy.
Tuy thế, ông cụ chị rất quan tâm tới việc học của con gái, khuyên chị học để cho có một nghề, để sau này lỡ có gì thì có cái để nuôi con, không phải đi bước nữa như nhiều người đàn bà thất học khác, để có nơi nuơng tựa vì thiếu khả năng kinh tế. Nhờ vậy mà chị học xong sư phạm môn Pháp văn. Rồi có người hỏi cưới, bị mẹ áp lực, cho rằng đàn bà con gái không có chồng là “bất túc,” nên, thương mẹ, chị lấy chồng, một ông thẩm phán. Họ vào Nam sinh sống, rồi cuối cùng lập nghiệp ở Sài Gòn.
Cuộc hôn nhân kiểu chồng chúa vợ tôi không hạnh phúc ấy kéo dài được khoảng chục năm. Sau khi chị sanh cô Út, tổng cộng trước sau là bốn cô, sau đôi ba lần sẩy thai và một cậu con trai không nuôi được, ông chồng chị một bữa bảo chị “trả lại tự do” cho ông. Chị kể là chị “mừng hết lớn,” bèn xúc tiến đơn xin ly dị ngay lập tức, mặc dù những can ngăn của vài nguời bạn của chồng cùng trong ngành luật. Chị tiếp tục đi dậy nuôi con.
Rồi biến cố 30 tháng 4, 1975 xẩy ra. Gia đình chị kẹt lại. Không thể cộng tác với chính thể mới, và nhờ ông anh đã sinh sống ở Mỹ từ trước 1975 gửi đồ về, chị mang bán bớt để nuôi mẹ và các con. Chị xoay sở gửi được cô con thứ hai đi vượt biển thoát. Đến khi gửi tiếp cô con lớn thì không may thuyền cháu bị lật ngay khi còn trong sông, cô bị chết đuối cùng với nhiều người khác. Chị phải lặn lội đi tìm xác con và chôn đỡ ở một nghĩa trang gần đó, chờ khi nào có cơ hội sẽ về cải táng hốt cốt. Nghe chị kể cô rất thiêng, không chỉ thỉnh thoảng về “thì thầm” với mẹ, mà còn “giúp” vài người địa phương, nên họ lập miếu thờ cô.
Sau tai nạn của cô lớn, theo lời khuyên của ông anh, chị chờ ông xin đoàn tụ để đi theo ngả chính thức. Vào giữa thập niên 1980, chị được gọi đi phỏng vấn. Ông chồng cũ lúc ấy đang tá túc ở nhà chị vì sau khi đi tù cải tạo về, ông không có chỗ ở nên chị thấy tội nghiệp cho ở nhờ. Khi biết chị sẽ được đi Mỹ, ông năn nỉ cho đi theo. Chị kể: hai người ban đêm bàn chuyện nhỏ to với nhau, bà mẹ sợ chị trở lại với ông, nên đã lên tiếng can ngăn, sợ lửa gần rơm, mặc dù xưa chính bà là người thúc đẩy chị lấy ông ta. Chị nói cho mẹ an tâm, là mặc dù chị có xin với nhân viên phỏng vấn Mỹ cho ông ta cùng đi theo, lý luận là mặc dù đã ly dị nhưng con chị cần có cha, sang Mỹ rồi thì ông ta sẽ phải đi đường ông, và đã được bên Mỹ nhận. Và chị lo được cho ông chồng cũ đi theo sang Mỹ.
Sang Mỹ năm 1985, chị cặm cụi đi làm nuôi mẹ và ba con. Các cô đều học hành thành đạt. Cô lớn thành dược sĩ, cô thứ hai làm y tá, cả hai đều đã có gia đình, nhà riêng. Riêng cô Út học luật xong, ra hành nghề đâu được 10 năm. Một hôm, sau khi đi hành hương cuốc bộ 500 dặm dọc theo The Camino de Santiago ở bắc Tây Ban Nha, cô mang về tặng mẹ bức bản đồ nổi có núi non trùng điệp của phần đất mà cô đã đi qua, tuyên bố cô sẽ sang Ấn Độ tìm đường đi tu. Chị không cản, nhưng hai người chị của cô út thì cực lực phản đối. Chị kể với tôi bằng giọng bình thản, nhưng vẫn chứa lo âu tự nhiên của một người mẹ. Tôi nói với chị là tôi thực tâm thán phục quyết định của cô, khen cô không đi theo con đường mòn của xã hội, của những thứ tình cảm vốn chi phối đời mỗi chúng ta, khiến ta mất làm chủ chính đời mình. Với tôi, tên cô là Camino, tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là con đường, là đạo. Lần nào thăm chị, tôi cũng hỏi thăm cô Camino. Tôi nhớ một bữa chở chị tới một tiệm có dịch vụ gửi tiền qua Western Union để gửi mấy trăm Mỹ kim cho cô để cô chữa cái lưng đau vì một lần bị té sao đó tại thiền viện. Trở lại xe, chị chui vào ngồi lặng im. Tôi đoán chị đang nghĩ tới con gái ở một chốn xa xôi đau đớn một mình. Gần đây tôi nghe biết sau một thời gian tu tập sự, cô Camino đã được nhận vào tu chính thức.
Con cái khôn lớn, có đời sống riêng, chị về hưu và bắt đầu sống toàn thời cho giấc mộng đầu đời: đó là viết. Chị viết miệt mài, đủ loại. Chị còn gỡ rối tơ lòng cho nhiều người nữa. Trần Mộng Tú thì cứ khuyên chị viết về bà mẹ của chị. Chị lần lữa, nói rồi sẽ làm. Dù vậy, chị cũng kể về bà cụ trong một số bài viết. Và về ông anh hơn chị mấy tuổi mà chị săn sóc như săn sóc một cậu em. Tôi nghĩ giá chị cứ chuyên chú vào viết lách thì hay hơn. Và có lẽ chị đã không gặp thất bại như đã thất bại với tờ báo và cái đài phát thanh trước. Khổ nỗi chị luôn muốn làm cái gì mà chị có thể qua đó giúp “cho anh em họ có việc làm” nữa cơ.
Tôi sẽ nhớ mãi những buổi tối ở nhà chị, chị đi làm, tôi nằm nhà đọc sách. Có khi tôi thức tới khi chị về để cùng đi bộ quanh cư xá với chị, có khi tôi ngủ mất đất. Chừng thức dậy sau nửa đêm để vào thăm phòng tắm, thấy chị lui cui ngồi trước computer đánh máy dịch bài vở cho tờ tuần báo phụ nữ hồi chị còn nó. Tối nào cũng vậy, tới hai, ba giờ sáng. Tú và tôi giục chị buông tờ tạp chí vì thấy chị đã lớn tuổi và cực quá, mà chị không chịu. Mãi sau có người muốn mua, trả $2,000, tôi bảo chị bán với giá tượng trưng là $1. Chị nghe lời, nhưng vẫn ái ngại về việc vài người bị mất ít lợi tức từ tờ tạp chí, như huê hồng quảng cáo, gói gửi báo, chẳng hạn. Người mua tờ tạp chí ra báo được đâu một, hai số thì buông, làm chị tiếc hùi hụi, đôi khi nói xa xôi như trách Tú và tôi xúi chị buông tờ báo. Chị vẫn tiếp tục chương trình phát thanh của chị. Chị còn nhận dịch tài liệu, thông cáo, v.v. cho cơ quan Cảnh sát Quận, nói “để chia việc cho những người cần.” Chị làm phát thanh tuần một lần miễn phí cho một vị giám sát quận gốc Việt mà chị cho là làm nhiều việc hữu ích cho cộng đồng, “nên mình cần phải tiếp tay.”
Tình bạn giữa chị và tôi ấm áp, tốt đẹp cho tới đôi năm trở lại đây, khi chị trở thành người nhiệt thành ủng hộ ông Donald Trump và chịu ảnh hưởng bởi các thuyết âm mưu. Chúng tôi vẫn liên lạc, thăm nom khi có thể, song phải rất gượng nhẹ đối với nhau, tránh hết sức để không đụng chạm nhau. Vài tháng gần đây chị không vui, “xuống sắc,” như vài người bạn chung nhận xét với tôi. Có người hỏi tôi, vì biết tôi thân với chị, là tại sao chị vẫn cuồng nhiệt ủng hộ ông Trump, nhất là sau biến cố các phần tử cực đoan tấn công Điện Capitol hôm 6 tháng Giêng vừa rồi. Chị không đồng ý với hành động đó, nhưng nhiệt liệt cho là không dính dáng gì tới ông Trump. Tôi ước gì tôi có đủ can đảm để hỏi chị tại sao ông Trump lại chiếm được lòng yêu mến ấy của chị. Thực tình là tôi không dám. Có lần trong một điện thư, tôi có nói về hiện tượng nhiệt hoá toàn cầu dẫn tới khí hậu thay đổi thất thường, là điều ông Trump và phe phái vẫn chối coi là không có, chị viết lại bằng giọng chì chiết làm tôi sợ, nên im, không dám trả lời.
Biết chị quan tâm tới các vấn đề phụ nữ, tôi mua tặng chị cuốn hồi ký của Melinda Gates, “The Moment of Lift: How Empowering Women Changes the World” (2019). Định là khi chị đọc xong thì sẽ cùng nhau thảo luận. Nhưng rồi thấy chị im. Gần đây chị cho biết đã vất cuốn sách đang đọc vào thùng rác sau khi nghe, qua một trong những thuyết âm mưu, là Bill Gates, chồng của Melinda, đã dùng cơ quan Bill & Melinda Gates Foundation của họ tiếng là làm việc từ thiện song là để khống chế việc sản xuất thuốc ngừa dịch toàn cầu để làm lợi cho công ty của họ(!)
Lần cuối chúng tôi nói chuyện điện thoại với nhau là hồi tháng Sáu vừa rồi, sau khi chị vào được Netflix và mở xem phim “The Kindergarten Teacher” mà tôi giới thiệu với chị. Chị nói chị cảm thông được tâm trạng của cô giáo không có ai hiểu cô, và cô tìm thấy ở cậu bé thi sĩ thần đồng một tri kỷ, một người mà cô cần phải cứu vãn. Và cô đã vượt ra khỏi khuôn khổ luật lệ để làm cái việc bất thường là “bắc cóc” cậu bé. Để rồi cuối cùng cô đành đầu hàng, trả lại cậu bé cho gia đình và để cảnh sát dẫn độ cô về tội bắt cóc trẻ con. Ngồi ở băng sau của xe cảnh sát ở cảnh cuối cùng, cậu bé bất chợt kêu lên: “Em có một bài thơ…” Nhưng cô giáo không còn ở bên để chép lại hộ cậu bài thơ đó. Chị kể lại cảnh cuối đó với giọng xúc cảm.
Tôi có hẹn với chị tháng Mười này sẽ xuống để cùng đi dự Việt Film Fest. Như mọi năm, trừ năm ngoái vì đại dịch Covid nên đại hội phải hủy bỏ. Chị nói chị chờ tôi. Đi dự hội phim thường niên này đã thành cái hẹn hàng năm của hai chị em. “Để yểm trợ các em trẻ,” như chị nói. (Cùng với bài này, tôi xin kèm theo một bài chị viết về Việt Film Fest 2016, với nhiều nhận xét sâu sắc, đầy quan tâm.)
*****
Khi tôi bắt đầu viết bài này, chị đang nằm hôn mê chờ đi trong bệnh viện sau vỏn vẹn chưa tới một tuần kể từ ngày chị bị đột quỵ, sau bác sĩ còn cho biết thêm chị cũng bị động tim nữa. Như thể chị không thể chờ lâu hơn được nữa để đáp chuyến tầu suốt, mặc dù những níu kéo của người thân và bằng hữu.
Trần Mộng Tú, trong lúc chờ giờ lên đường ra phi trường để đáp chuyến bay xuống Quận Cam thăm chị lần cuối, viết điện thư cho vài thân hữu:
“Con gái chị Hà, tối qua gọi nói là Bệnh Viện chỉ cho: con/chồng vào thăm và chỉ có 2 người được vào 2hrs/1 ngày.
Các cháu ghi tên cô mà họ không cho vào.
BS nói chỉ trong 1,2 hôm nữa là chị Hà sẽ tự đi, không cần rút ống, nên các cháu sẽ đợi 2 ngày nữa.
Tang gia sẽ không có Cáo Phó. Trước khi hỏa thiêu ,chỉ có các con cháu, anh ruột chị Hà và cô Tú viếng, không có bạn hữu, báo chí, truyền thông gì cả. Tro sẽ mang ra biển. Xin cầu nguyện cho chị Hà đi an bình.”
Tang gia sẽ không có cáo phó. Không có gì hết, như xã hội đòi hỏi phải như vậy mới đúng lề thói. Chị muốn và chọn như vậy – ra đi lặng lẽ, không ồn ào, phiền toái tới ai hết. Tự dưng tôi mỉm cười. Kể từ ngày bố chị, sau khi nhận giùm chị giải thưởng hạng nhất cho một bài chị viết từ các nhà văn Thanh Nam và Tô Kiều Ngân cất công mang ra từ Sàigòn, đã gọi chị ra và trao lại cho chị, và nói: “Viết như thế đủ rồi, nghe con.” Từ đấy chị khép mình vào khuôn khổ xã hội đặt định. Cả đời chị, chị đã ghép mình vào khuôn khổ, nề nếp, sống cho người khác, thân và nhiều lúc cả sơ. Chỉ trước cái chết chị dứt khoát chọn cho mình: không cáo phó, không có trò viếng quan tài, không đưa đám, không mọi thủ tục thói thường. Không gì hết.
Tôi có cảm tuởng chị cũng đang mỉm cười, thanh thản chờ giờ lên đường.(*)
Trùng Dương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét