Một lần đi khám bệnh khi gần 60 tuổi đã làm thay đổi cuộc đời của "Bệnh nhân Số 5".Ông bị tiểu đường, và ông đăng ký tham dự vào nghiên cứu xem liệu việc uống "statin" - loại thuốc làm giảm hàm lượng cholesterol - có giúp điều trị bệnh không. Đến thời điểm đó, mọi thứ đều rất bình thường.
<!>
Nhưng ngay sau khi tham gia quá trình điều trị, vợ ông bắt đầu chú ý đến những chuyển biến hung bạo. Người đàn ông trước kia từng điềm đạm nay trở nên nóng tính nảy lửa và không biết tự bao giờ đã có xu hướng bạo lực trên đường phố.
Trong một tình huống đáng nhớ, ông cảnh cáo gia đình hãy tránh xa ông, không thì ông sẽ cho họ vào bệnh viện hết.
Lo sợ những hệ quả có thể xảy đến, Bệnh nhân Số 5 ngừng lái xe. Thậm chí dù chỉ là người ngồi trong xe, cơn nổi điên của ông cũng thường buộc vợ ông phải hủy chuyến đi và quay xe về nhà. Sau đó, bà để mặc ông xem TV một mình và từ từ bình tĩnh lại. Bà ngày càng lo sợ cho sự an toàn của bản thân.
Sau đó một ngày nọ, Bệnh nhân Số 5 như thể đã giác ngộ ra điều gì.
"Ông ấy kiểu 'Ô trời, thực sự có vẻ là những vấn đề này bắt đầu từ lúc tôi đăng ký tham dự nghiên cứu này'," Beatrice Golomb, người đứng đầu một nhóm nghiên cứu tại Đại học California, San Diego, nói.
Hết sức cẩn trọng, hai người đã tìm đến những người thực hiện nghiên cứu.
"Họ rất hung hãn. Họ nói rằng hai yếu tố trên không thể nào liên quan được, họ nói ông ấy cần phải tiếp tục dùng thuốc, và nói ông ấy nên tiếp tục tham gia nghiên cứu," Golomb kể lại.
Trớ trêu thay, đến mức đó bệnh nhân đã quá cáu giận tới mức ông thẳng thừng vứt bỏ lời khuyên của bác sĩ.
"Ông ấy chửi thề thẳng vào mặt, bật dậy bỏ ra khỏi văn phòng và ngưng dùng thuốc ngay lập tức," bà kể lại. Hai tuần sau đó, tính cách cũ của ông trở lại bình thường.
Nhiều người khác không được may mắn như vậy.
Hung hãn, mạo hiểm, nghiện cờ bạc, bạo lực tình dục...
Qua nhiều năm, Golomb đã thu thập báo cáo về bệnh nhân ở khắp nơi tại Mỹ, chuyện về hôn nhân tan vỡ, sự nghiệp bị hủy hoại, và một số lượng đáng kinh ngạc đàn ông đã trở nên tàn nhẫn đến mức gần như giết vợ.
Trong gần như mọi trường hợp, triệu chứng xuất hiện khi họ bắt đầu uống statin, sau đó thình lình họ trở lại bình thường khi ngưng thuốc; một người đàn ông lặp lại chu kỳ này đến năm lần cho đến khi ông hiểu điều gì đã xảy ra.
Theo Golomb, kinh nghiệm của bà cho thấy điều phổ biến là với hầu hết bệnh nhân thì nguyên chỉ việc nhận ra sự biến đổi hành vi của bản thân đã là khó chứ đừng nói đến chuyện họ có thể liên hệ sự thay đổi này với việc dùng thuốc.
Trong một số trường hợp, họ nhận ra quá trễ: nhà nghiên cứu được nhiều gia đình bệnh nhân liên hệ, trong đó có cả thân nhân của một nhà khoa học nổi tiếng tầm quốc tế và là cựu biên tập viên ấn phẩm về luật pháp, thông báo người thân của họ đã tự sát.
Ta thường quen thuộc với tính chất bẻ cong tâm trí của các loại ma tuý - nhưng hóa ra cả những dược phẩm thông thường cũng có thể gây tác dụng tương tự.
Từ thuốc paracetamol (được gọi là acetaminophen ở Hoa Kỳ) tới thuốc antihistamines, statin, các loại thuốc hen suyễn và thuốc chống trầm cảm, có bằng chứng mới cho thấy chúng có thể khiến ta bốc đồng, giận dữ hay không yên, làm suy giảm lòng cảm thông với người lạ, và thậm chí thao túng cả những khía cạnh cơ bản nhất trong tính cách, như việc ta nhạy cảm đến mức nào.
Với hầu hết mọi người, những thay đổi trên cực kỳ tinh vi. Nhưng trong một số trường hợp, chúng cũng có thể rất kịch tính.
Trở lại năm 2011, một người đàn ông người Pháp có hai con, đã kiện công ty dược phẩm GlaxoSmithKline vì cho rằng loại thuốc mà ông đang uống để chữa bệnh Parkinson đã biến ông thành kẻ cờ bạc và nghiện quan hệ tình dục đồng tính, và việc dùng loại thuốc đó đã gây ra những hành vi nguy hiểm khiến ông bị hiếp dâm.
Sau đó vào năm 2015, một người đàn ông chuyên nhắm đến săn tìm các cô gái trẻ trên mạng nói rằng loại thuốc chống béo phì tên Duromine khiến ông hành động như vậy - ông nói loại thuốc đó làm suy giảm khả năng kiềm chế sự bốc đồng của ông.
Hết lần này đến lần khác, những kẻ giết người cố gắng đổ tội cho thuốc giảm đau hay thuốc chống trầm cảm khiến họ gây tội ác.
Nếu những tuyên bố trên là thật, thì hệ quả vô cùng to lớn.
Danh sách những kẻ tội đồ gồm một trong số những loại thuốc được tiêu thụ rộng rãi nhất trên hành tinh này, nghĩa là thậm chí dù hiệu ứng có rất nhỏ ở mức độ cá nhân, chúng có thể định hình tính cách của hàng triệu người.
Nghiên cứu về những hiệu ứng này đến vào thời điểm tốt hơn bao giờ hết.
Thế giới đang chìm trong khủng hoảng lạm dụng thuốc, với chỉ riêng Hoa Kỳ đã mua tới 49.000 tấn paracetamol mỗi năm, tương đương với 298 viên paracetamol cho mỗi người - và trung bình người Mỹ tiêu thụ số lượng thuốc kê toa trị giá khoảng 1.200 đô la Mỹ mỗi năm.
Trong khi dân số thế giới đang già đi, sự thèm khát sử dụng thuốc của con người tăng cao không ngớt đến mức mất kiểm soát; ở Anh Quốc, cứ 10 người trên 65 tuổi có một người sử dụng tám loại thuốc mỗi tuần.
Bằng cách nào những loại thuốc này ảnh hưởng đến não bộ của chúng ta? Và liệu ta nên có cảnh báo trên bao bì hay không?
Tác dụng phụ tai hại
Ban đầu Golomb nghi ngờ có mối liên hệ giữa thuốc statin và sự thay đổi tính cách trong gần hai thập niên, sau một loạt những khám phá kỳ bí, như tình trạng những người có mức cholesterol thấp hơn thường có xu hướng chết rất bạo lực.
Vì vậy một ngày nọ, bà nói chuyện với một chuyên gia về cholesterol về khả năng có mối liên hệ này, nhưng ông gạt đi và cho rằng rõ ràng đó là điều vô lý. "Tôi đáp 'Làm sao mà ta biết được?'," bà kể lại.
Tràn đầy cương quyết, bà Golomb đào xới những văn bản khoa học và y tế để tìm thông tin.
"Số lượng bằng chứng nhiều hơn bất ngờ so với những gì tôi tưởng tượng," bà chia sẻ. Và có một thứ, đó là bà tìm ra những nghiên cứu cho thấy rằng nếu bạn cho động vật linh trưởng ăn kiêng theo chế độ ít cholesterol, chúng sẽ trở nên hung hãn hơn.
Thậm chí còn có cả một cơ chế tiềm năng: đó là nếu ta làm giảm lượng cholesterol ở động vật thì có vẻ như điều đó sẽ tác động đến nồng độ serotonin, một hóa chất quan trọng trong não có liên quan đến việc điều tiết cảm xúc và hành vi xã hội ở động vật. Chẳng hạn như ruồi giấm bắt đầu đánh nhau nếu ta làm rối loạn hàm lượng serotonin của chúng.
Điều này cũng có thể gây ra một số hiệu ứng khó chịu ở người - nhiều nghiên cứu liên kết nó với bạo lực, sự bốc đồng, tự tử và giết người.
Nếu statin gây tác động tới não người, nhiều khả năng đó là vì tác dụng trực tiếp của chúng trong việc làm giảm cholesterol.
Kể từ đó, nhiều bằng chứng trực tiếp khác đã xuất hiện. Nhiều nghiên cứu đã củng cố mối liên hệ tiềm ẩn giữa sự cáu kỉnh và thuốc statin, trong đó có một thử nghiệm kiểm soát ngẫu nhiên - vốn là tiêu chuẩn vàng của nghiên cứu khoa học - mà Golomb là người đứng đầu, thực hiện trên 1.000 người.
Nghiên cứu phát hiện loại thuốc này làm tăng sự hung hãn ở những phụ nữ trong thời kỳ hậu mãn kinh, và lạ thay, không gây hiệu ứng gì ở đàn ông.
Trong năm 2018, một nghiên cứu phát hiện hiệu ứng tương tự ở cá.
Khi ta nạp chất statin cho loài cá rô phi sông Nile, chúng sẽ trở nên hung hãn hơn và - quan trọng là - việc đó làm biến đổi hàm lượng serotonin trong não chúng.
Điều này cho thấy cơ chế liên hệ giữa cholesterol và bạo lực có thể đã có từ hàng triệu năm trước.
Golomb vẫn tin rằng thuốc làm giảm hàm lượng cholesterol và nói cụ thể hơn là statin có thể gây ra những thay đổi hành vi ở cả đàn ông và phụ nữ, mặc dù mức độ của hiệu ứng xảy ra cực kỳ khác nhau tùy theo người.
"Có một loạt các bằng chứng hội tụ," bà nói và trích dẫn một nghiên cứu bà thực hiện ở Thụy Điển, liên quan đến so sánh dữ liệu về hàm lượng cholesterol ở 250.000 người với tỷ lệ tội phạm.
"Ngay cả khi đã điều chỉnh những yếu tố trùng hợp, thì kết quả vẫn là những người có hàm lượng cholesterol thấp, ở mức tối thiểu, nhiều khả năng hơn hẳn là sẽ bị bắt vì tội phạm bạo lực."
Nhưng phát hiện đáng lo ngại nhất của Golomb không phải là tác động mà những loại thuốc thông thường gây ảnh hưởng tới nhân cách của ta - mà là hiện có rất ít sự quan tâm tìm hiểu chúng.
"Có nhiều thứ quan trọng hơn mà bác sĩ có thể dễ dàng đo lường được," bà chia sẻ, và giải thích rằng trong một thời gian dài, nghiên cứu về tác dụng phụ của thuốc statin đều chỉ tập trung vào cơ và gan, vì bất cứ vấn đề gì xảy ra với những cơ quan nội tạng này đều có thể phát hiện nhờ xét nghiệm máu thông thường.
Đây cũng là điều mà Dominik Mischkowski, nhà nghiên cứu về cơn đau từ Đại học Ohio đã chú ý.
"Thực ra có khoảng trống cực lớn trong nghiên cứu về hiệu ứng thuốc tác động lên tính cách và hành vi," ông cho biết.
"Ta biết rất nhiều về hiệu ứng sinh lý của các loại thuốc trên - ví dụ như liệu chúng có tác dụng phụ với cơ thể hay không. Nhưng ta không hiểu chúng ảnh hưởng ra sao đến hành vi con người."
'Kẻ thủ ác' trong paracetamol
Nghiên cứu của Mischkowski đã phát hiện tác dụng phụ tội lỗi của paracetamol.
Trong thời gian dài, các nhà khoa học đã biết rằng loại thuốc này làm giảm cơn đau trong cơ thể bằng cách làm giảm hoạt động ở một số vùng trong não bộ, như vỏ đảo, vốn đóng vai trò quan trọng trong cảm xúc con người.
Những vùng này cũng liên quan đến trải nghiệm đau đớn về mặt xã hội của con người - và đáng ngạc nhiên thay, thuốc paracetamol khiến ta cảm thấy dễ chịu hơn sau khi bị khước từ.
Và một nghiên cứu gần đây đã tiết lộ vùng này của thần kinh nhiều chức năng hơn hẳn so với những gì ta từng nghĩ trước đó, vì hóa ra trung tâm đau đớn của não bộ cũng là nơi sự thấu cảm lưu trú.
Chẳng hạn, những bản chụp cộng hưởng từ chức năng fMRI (functional magnetic resonance imaging) cho thấy những vùng tương tự trong não của con người được kích hoạt khi ta cảm thấy "thấu cảm tích cực" - vui vẻ vì người khác - cũng như khi ta cảm thấy sự đau đớn.
Với thông tin đó, Mischkowski tự hỏi rằng liệu loại thuốc giảm đau này có thể khiến người ta khó cảm thấy cảm thông hơn không.
Đầu năm nay, cùng với nhiều đồng nghiệp ở Đại học Ohio và Đại học Bang Ohio, ông thực hiện thử nghiệm đối với một số sinh viên. Ông chia họ thành hai nhóm, một nhóm nhận được liều thuốc 1.000mg paracetamol, nhóm còn lại chỉ nhận được giả dược.
Sau đó, ông yêu cầu các sinh viên đọc các kịch bản về những trải nghiệm tích cực đã xảy ra với người khác, như sự may mắn của "Alex", người cuối cùng đã đủ dũng cảm mời một bạn gái hẹn hò (và được cô ấy nhận lời).
Kết quả cho thấy thuốc paracetamol làm suy giảm đáng kể khả năng cảm thông tích cực của con người - kết quả này đi cùng với sự liên quan cho thấy loại thuốc này đang định hình quan hệ xã hội của hàng triệu người mỗi ngày.
Mặc dù thí nghiệm không tìm hiểu về sự cảm thông tiêu cực - nơi ta trải nghiệm và liên hệ với nỗi đau của người khác - nhưng Mischkowski nghi ngờ rằng ta cũng khó có cảm giác này sau khi uống thuốc.
"Tôi hoàn toàn không phải là nghiên cứu sinh mới vào nghề nữa, và thành thật mà nói, những nghiên cứu mà tôi vừa thực hiện thực sự đáng lo ngại nhất," ông chia sẻ.
"Đặc biệt vì tôi để ý số lượng người liên quan. Khi bạn đưa cho ai đó thuốc, bạn không chỉ đơn giản là đưa thuốc cho họ - mà bạn đưa loại thuốc đó cho cả hệ thống xã hội. Và ta thực sự không hiểu hiệu ứng mà những loại thuốc đó gây ra ở bối cảnh rộng hơn."
Sự thấu cảm không chỉ quyết định liệu bạn có phải là một người "dễ chịu" hay liệu bạn có khóc khi xem bộ phim buồn hay không.
Cảm xúc đi cùng với rất nhiều lợi ích thực tế, trong đó có cả những thứ như tình yêu ổn định hơn, trẻ em cư xử đúng mực hơn, và người trưởng thành thành công hơn trong sự nghiệp - một số nhà khoa học thậm chí từng cho rằng thuốc chịu trách nhiệm cho sự thăng hoa của loài người.
Trong thực tế, lướt qua rất nhiều tác dụng của thuốc làm sụt giảm khả năng cảm thông của con người, thì đây không phải chuyện thường nữa.
Về mặt kỹ thuật, thuốc paracetamol không làm thay đổi tính cách con người, vì thuốc chỉ gây tác dụng trong vài giờ và rất ít người sử dụng thuốc này thường xuyên.
Nhưng Mischkowski nhấn mạnh rằng ta cần phải được biết về cách mà thuốc gây ảnh hưởng đến ta, từ đó ta có thể chọn dùng thuốc theo cách hợp lẽ thường.
"Cũng như ta luôn phải nhận thức rõ ràng rằng bạn không nên ngồi lái xe nếu đang bị ảnh hưởng bởi rượu cồn, bạn cũng không muốn rơi vào tình thế là mình uống paracetamol rồi sau đó phải có phản hồi về mặt cảm xúc - như trò chuyện nghiêm túc với đối tác hay đồng nghiệp."
Những mối liên hệ phức tạp
Một lý do mà các loại thuốc gây ra tác dụng mạnh về mặt tâm lý là vì cơ thể không đơn thuần là một túi chứa các nội tạng tách rời nhau, đầy hóa chất với những chức năng rõ ràng - thay vào đó, cơ thể là một mạng lưới, mà rất nhiều quy trình khác nhau có liên kết với nhau.
Chẳng hạn, các nhà khoa học từ lâu đã biết những loại dược phẩm dùng để đều trị hen suyễn thỉnh thoảng có liên hệ với tình trạng thay đổi hành vi, như gây ra sự tăng động thái quá và phát triển hội chứng tăng động giảm chú ý (ADHD).
Gần đây, nghiên cứu cũng phát hiện mối liên hệ bí ẩn giữa hai hội chứng rối loạn trên; khi một người mắc phải một hội chứng thì nguy cơ mắc thêm hội chứng kia lên tới 45-53%.
Không ai hiểu lý do là vì sao, nhưng có một cách giải thích, đó là thuốc điều trị hen suyễn gây ra triệu chứng tăng động giảm chú ý vì nó biến đổi hàm lượng serotonin hoặc hóa chất gây viêm, vốn được cho là liên quan đến việc gây ra cả hai tình trạng trên.
Đôi khi những liên hệ trên rõ ràng hơn.
Vào năm 2009, một nhóm các nhà tâm lý từ Đại học Tây Bắc, Bang Illinois quyết định kiểm tra xem liệu thuốc chống trầm cảm có ảnh hưởng đến tính cách không.
Cụ thể, nhóm nghiên cứu quan tâm đến tình trạng bất ổn về cảm xúc. Yếu tố này nằm trong tính cách 'Năm Yếu tố' ở con người, được tóm tắt lại là gồm các cảm giác lo âu, chẳng hạn như sợ hãi, ghen tuông, ganh ghét và thấy tội lỗi.
Để thực hiện, nhóm tuyển mộ những người trưởng thành đang trải qua tình trạng trầm cảm trung bình hoặc nghiêm trọng.
Họ cho một phần ba số người tham gia nghiên cứu uống thuốc chống trầm cảm paroxetine (một loại hóa chất nổi tiếng với tính năng ức chế serotonin - SSIR), một phần ba dùng giả dược, và một phần ba còn lại sử dụng liệu pháp trò chuyện.
Sau đó, những người này được kiểm tra để xem tính cách và tâm trạng họ thay đổi ra sao từ khi bắt đầu đến hết chu trình điều trị 16 tuần.
"Chúng tôi nhận thấy có thay đổi cực lớn trong mức tâm lý bất ổn đối với nhóm sử dụng thuốc, và có rất ít biến đổi xảy ra với nhóm dùng giả dược [hay liệu pháp tâm lý]," Robert DeRubeis, một người tham gia nghiên cứu, nói. "Điều này rất đáng kinh ngạc."
Điều gây ngạc nhiên lớn là những người uống thuốc cảm thấy họ bớt trầm cảm, và mức rối loạn tâm lý thì lại càng giảm mạnh hơn hẳn - thuốc tác động lên tình trạng rối loạn tâm lý một cách độc lập so với tác động lên tình trạng trầm cảm. Bệnh nhân sử dụng thuốc chống trầm cảm bắt đầu ghi điểm nhiều hơn về mặt hướng ngoại.
Quan trọng là ta phải chú ý đây chỉ là một nghiên cứu khá nhỏ, và vẫn chưa có ai lặp lại thử nghiệm này, vì vậy chúng không hẳn là hoàn toàn đáng tin cậy.
Tuy nhiên, ý tưởng cho rằng thuốc chống trầm cảm có tác động trực tiếp đến rối loạn tâm lý là một ý tưởng rất thú vị. Có một cách giải thích, đó là yếu tố bất ổn về cảm xúc có liên quan với nồng độ serotonin trong não, thứ đã bị thay đổi vì thuốc SSRI.
Nên hay không nên dùng thuốc?
Dù việc làm giảm rối loạn tâm lý nghe có vẻ là một tác dụng phụ hấp dẫn, nhưng nó không hẳn là tin tốt lành.
Đó là vì khía cạnh này trong tính cách con người giống như con dao hai lưỡi.
Quả thực là tình trạng rối loạn tâm lý gắn với rất nhiều hệ quả không hay, ví dụ như chết sớm.
Thế nhưng cũng có người cho rằng lo lắng và suy nghĩ thái quá có thể có ích. Ví dụ, những người bị rối loạn tâm lý có xu hướng không thích mạo hiểm, và trong một số tình huống, sự lo âu có thể giúp cải thiện khả năng làm việc của con người.
"Những gì mà [bác sĩ tâm thần người Mỹ] Peter Kramer cảnh báo ta là khi ai đó đang dùng thuốc chống trầm cảm, thì điều có thể xảy ra là họ bắt đầu không quan tâm đến những thứ mà mọi người thường quan tâm," DeRubeis giải thích.
Nếu kết quả là như vậy thì liệu bệnh nhân có nên được cảnh báo là phương pháp điều trị có thể khiến họ biến đổi ra sao không?
"Nếu tôi đang tư vấn cho bạn bè, tôi tất nhiên sẽ muốn họ cảnh giác với những hiệu ứng không mong muốn như vậy, cũng như họ sẽ tự nhiên để ý tới những tác dụng phụ khác, như liệu họ có tăng cân không, và nhiều thứ khác nữa," DeRubeis chia sẻ.
Ở điểm này thì đáng lưu ý là không ai tranh cãi rằng mọi người nên ngưng sử dụng thuốc.
Mặc dù có những hiệu ứng khó thấy xảy ra với não bộ, nhưng thuốc chống trầm cảm đã chứng tỏ rằng nó giúp hạn chế tình trạng tự tử, thuốc làm giảm độ cholesterol đã cứu sống hàng ngàn người mỗi năm, và paracetamol có tên trong danh sách những loại thuốc thiết yếu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) vì khả năng giúp giảm đau.
Điều quan trọng là mọi người nên được biết về bất kỳ tác dụng phụ nào có thể có đối với tâm lý của người sử dụng thuốc.
Đây là vấn đề hoàn toàn cấp bách, khi bạn nhận thấy rằng có một số biến đổi nhân cách có thể diễn ra theo hướng đầy kịch tính.
Có bằng chứng rõ ràng cho thấy thuốc L-dopa, dùng để chữa trị bệnh Parkinson, làm tăng rủi ro rối loạn kiểm soát xung điều khiển (ICD) - một nhóm các vấn đề khiến người ta khó cưỡng lại sự xúi giục và thúc bách.
Kết quả là, thuốc có thể gây ra những hệ lụy hủy hoại cuộc đời, chẳng hạn một số bệnh nhân thình lình ưa mạo hiểm hơn, trở thành kẻ mắc bệnh ghiền đánh bạc, ghiền mua sắm, hay trở thành kẻ tấn công tình dục.
Trong năm 2009, một loại thuốc có tính chất tương tự đã xuất hiện trên báo, sau khi một người đàn ông bị bệnh Parkinson lừa đảo tiền vé đến 45 ngàn bảng Anh. Ông đổ lỗi hành vi này cho việc dùng thuốc, cho rằng thuốc đã thay đổi hoàn toàn tính cách của ông.
Sự liên hệ với hành vi bốc đồng có lý, bởi vì thuốc L-dopa về bản chất là cung cấp cho não bộ một liều dopamine bổ sung - trong bệnh Parkinson một phần của não sản xuất chất này dần dần bị hủy hoại - và liều hormon này cung cấp cho ta cảm giác vui vẻ và được tưởng thưởng.
Các chuyên gia đồng tình rằng thuốc L-dopa là cách điều trị hiệu nghiệm nhất cho rất nhiều triệu chứng của bệnh Parkinson, và thuốc được kê toa cho hàng ngàn người ở Hoa Kỳ mỗi năm. Điều này bất chấp một danh sách dài những tác dụng phụ đi kèm với thuốc này, vốn rõ ràng có đề cập đến rủi ro của những thôi thúc mạnh mẽ bất thường, như đánh bạc hay tình dục.
Trong thực tế, DeRubeis, Golomb và Mischkowski tất cả đều có ý kiến rằng những loại thuốc họ đang nghiên cứu sẽ tiếp tục được sử dụng, dù tác dụng phụ tiềm ẩn về tâm lý có ra sao.
"Bạn biết đấy, ta là con người mà," Mischkowski nói. "Chúng ta uống rất nhiều thứ không hẳn lúc nào cũng tốt cho mọi tình huống. Tôi luôn sử dụng ví dụ về rượu bia, bởi vì nó cũng là thuốc giảm đau như paracetamol. Ta uống rượu vì ta cảm thấy nó có ích cho mình, và cũng tốt thôi miễn là bạn uống trong đúng tình huống và bạn không uống quá nhiều."
Nhưng để có thể giảm thiểu bất kỳ tác dụng không mong đợi và tận dụng được tối đa số lượng thuốc nhiều đến choáng ngợp mà ta uống mỗi ngày, MIschkowski lặp lại rằng ta cần phải hiểu biết hơn.
Vì, ông cho biết, hiện thời cách mà các loại thuốc tác động vào hành vi của từng người - và thậm chí tác động đến cả xã hội - vẫn còn là điều bí ẩn.
Từ chối trách nhiệm
Nội dung bài viết chỉ nhằm cung cấp thông tin tổng quát, không thay thế cho cho các tư vấn về chăm sóc sức khỏe từ bác sỹ hay các chuyên gia y tế. BBC không chịu trách nhiệm hay có bổn phận pháp lý nào với những chẩn đoán mà độc giả đưa ra dựa trên nội dung bài viết. BBC không ủng hộ cho các sản phẩm hay dịch vụ nào được nêu trong bài hay được tư vấn trên các trang mạng. Hãy hỏi ý kiến bác sỹ nếu bạn thấy lo ngại về sức khỏe cá nhân.
Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Future.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét