tranh mai trung thứ
Ba tôi không yêu mạ tôi, đó là một sự thật suốt cả cuộc đời không một lần cả hai người hở ra với con cái. Tôi biết được nhờ láu lỉnh và thói quan sát bẩm sinh. Ba tôi là người đàn ông ở ngoài mơ ước đẹp nhất của mạ tôi. Ông có vẻ đẹp trời phú, một giọng hát ấm áp và một cái bằng diplome ở vị trí đầu bảng. Nhưng điều đó không quan trọng bằng việc ông được người giàu nhất tỉnh lúc bấy giờ là ông bác Vĩ nhận làm con nối dõi, được hưởng tập ấm. Ông bác Vĩ là anh ruột của ông nội tôi, khi ông bà nội tôi bị chết bom, ông bác Vĩ đem cả bốn đứa con người em ruột đem về nuôi, trong đó có ba tôi. Ông bác Vĩ không có con trai, hai đứa con gái sang ăn học bên Tàu từ nhỏ, ba tôi được chọn làm con là vì lẽ đó.
<!>
Mạ tôi nhan sắc tầm thường, một chữ bẻ đôi cũng không biết, chị của 9 đứa em đói rách lầm than. Nhà ông ngoại ở xóm Dừa, xóm nghèo nhất Thị trấn. Nếu trai gái trong xóm không lấy nhau thì họ đành chịu ế, chẳng ma nào xóm khác muốn bạ men. Cái thời trai gái 16, 17 tuổi là đến tuổi dựng vợ gả chồng trong khi mạ tôi đã 25 tuổi đầu vẫn chưa có nhà nào trong xóm đánh tiếng hỏi han, đủ biết bà không có khả năng quyến rũ bất kì chàng trai nào trong xóm.
Người ta vẫn khen mạ tôi khỏe mạnh hiền lành nhưng ai cũng sợ đoàn tàu há mồm chín đứa em có thể nuốt chửng hai chục lon gạo một ngày. Mạ tôi thủ phận gái ế, ngày đêm sấp mặt kiếm ăn cho cả nhà. Cái từ sấp mặt rất đúng đối với bà cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Sáng đội chồng nón ra chợ bán buôn, chồng nón ba chục cái đè cổ bà cúi gập. Chiều ra đồng cày cuốc, lưng bà hất lên gập xuống trên cánh đồng chua mặn của xóm Dừa, cánh đồng chẳng có gì tươi tốt ngoài cỏ lác cỏ năn và cá lia thia. Tối gò lưng gập mặt lợp nón khâu nón đến nửa đêm, vùi mặt trong đống lá nón dưới chân đàn em ngủ như chết. Ba giờ sáng bò dậy nấu nước cho cha, hâm cháo cho em, dọn nhà quét sân giặt giũ áo quần... Sáu giờ sáng lại đội chồng nón ra chợ. Một ngày của mạ tôi là vậy, chưa một lần bà ngước lên tự hỏi rồi đời mình sẽ ra sao, chồng con rồi sẽ thế nào.
Một lần đang bữa cơm ông ngoại chợt nhìn mạ tôi chăm chăm, nói mi biết thằng Vũ con ông cu Cuông không Thu? Mạ tôi lườm ông ngoại rồi thở hắt, nói thôi đi bọ ơi, hỏi chi hỏi lắm. Câu hỏi đã quá nhàm khiến mạ tôi phát chán, từ năm 17 tuổi bà đã nghe ông ngoại hỏi vậy rồi, từ bấy đến khi bà 25 tuổi ông ngoại đã hỏi đi hỏi lại hàng trăm lần. Có lẽ đó không phải là câu hỏi, đó là sự tiếc nuối.
Ông cu Cuông là ông nội tôi, người bạn nối khố chí thân của ông ngoại tôi. Ông bà nội tôi thuộc dân xóm Dừa, nghèo hèn chẳng khác gì ông bà ngoại. Họ đã hẹn với nhau trong cả đống con cái của hai nhà nhất định phải có một đôi thành vợ thành chồng, đó là thằng Vũ (ba tôi) và con Thu (mạ tôi). Hẹn hò chưa được bao lâu thì ông bà nội tôi bị chết bom, bốn đứa con được người anh ruột là ông bác Vĩ đem về nuôi cho ăn học rất tử tế, nhanh chóng biến họ thành công tử, tiểu thư giàu sang phú quý, nhất là ba tôi được ông bác Vĩ chọn làm con nối dõi thì niềm hy vọng mong manh của ông ngoại tôi cũng tắt ngúm luôn. Thỉnh thoảng ông ngoại tôi vẫn kể lại lời hứa hẹn năm xưa, mạ tôi không buồn nghe, thường bỏ ra sau nhà khóc, bà thấy nhục hơn là nuối tiếc.
Cơm xong mạ tôi bưng mâm đi ra giếng, vừa ra tới cửa ông ngoại tôi gọi giật, nói Thu, đứng lại bọ nói. Mạ tôi ngạc nhiên nhìn ông ngoại. Ông ngoại làm bộ như không có gì quan trọng, nói chiều ni ông Vĩ tới nhà, té ra trước khi chết ông Cuông có nhắn lại cho ông Vĩ lời hẹn của tụi tao, rứa mới hay chơ!
Mạ mình suýt đánh rơi cái mâm nhưng bà trấn tĩnh lại được, bà lườm ông ngoại, nói thôi đi bọ, tin chi ba chuyện tầm vơ. Mạ tôi bưng mâm quay ngoắt, nhưng kể từ đó bà đi không vững nữa, đất trời quanh bà chao đảo ngả nghiêng.
Tới gần giếng mạ tôi ngồi sụp xuống, bà ngồi ngửa mặt trông trăng cả tiếng đồng hồ. Và bà đi, cứ ngửa mặt trông trăng như thế bà đi như kẻ mộng du ra đến tận bờ sông Linh. Lần đầu tiên mạ tôi khỏa thân dưới trăng, bà ngập vào sông Linh bơi lội tha hồ cho tới khuya. Trăng 11 đã tàn từ lâu mạ tôi vẫn không về, bà ngồi thu lu trên bờ đê nhìn trời đang rựng sáng. Bà sợ phải về nhà, hai ông bà già ốm yếu già nua và 9 đứa em đang nằm ngổn ngang trên sạp nứa sẽ làm tắt ngúm giấc mơ đẹp nhất của đời bà, giấc mơ chàng công tử đẹp trai với nàng nhà quê đói rách rốt cuộc vẫn chỉ là giấc mơ hão.
Thế rồi một ngày ba tôi xuất hiện trước ngõ với tư cách chàng rể đón mạ tôi về nhà chồng giữa năm trăm cây đèn lồng, một ngàn chiếc chiếu hoa do ông bác Vĩ bỏ tiền ra rải dọc lối vào ngôi nhà tranh rách nát mười hai miếng ăn ông bà ngoại của tôi. Sự kiện này làm rúng động Thị trấn bốn ngàn nóc nhà, duy nhất chỉ có hai nhà lầu, đó là nhà ông bác Vĩ và nhà ông Hiệp Phú cũng là ông bác tôi nốt. Một giàn kèn đồng Tây bốn mươi người thuê tận Thị xã Hoa Hồng đồng loạt cất tiếng vang rền khi ba tôi bước vào ngõ làm ngất ngây hết lượt dân Thị trấn.
Cả nhà ông bà ngoại tôi đứng ngẩn ngơ nhìn ra như là chuyện của ai đó chứ không phải của nhà mình. Ông ngoại tôi véo đùi hai ba lần, nói oa chà, mơ hay thiệt ri bay! Dù đã được báo trước mạ tôi cũng không khỏi bàng hoàng. Những gì đang diễn ra trước mắt khiến bà choáng ngợp đến nỗi không đứng vững được nữa. Mạ tôi ngã khụy xuống sân nhà, lấm hết bộ quần áo lụa màu mỡ gà ông ngoại tôi phải bán đi một con bò con mới mua được.
Trời, Phật tới nhà cũng đến thế mà thôi.
Mạ tôi ngây ngất đến độ coi sự dửng dưng của ba tôi trong đám cưới cũng như trong suốt ba mươi đêm bà vò võ đợi ông trên chiếc giường gỗ lát bốn chân quỳ rộng rinh rang, chạm trổ tinh vi trong căn buồng thơm nức mùi gỗ pơ-mu, không một lần ông bước vào, cũng chỉ là một thử thách thánh thần trước khi ban cho bà thứ ân huệ vĩnh hằng.
Đêm thứ ba mươi mốt ba tôi mới chịu vào buồng, khi không còn tìm được bất kì lí do chính đáng nào để từ chối hợp cẩn với người đàn bà hơn mình hai tuổi, vì những thề thốt nặng lời của cha mẹ hai bên, buộc phải coi nhau là vợ chồng. Ông vén tấm màn che cửa uể oải bước vào, uể oải ngồi xuống cạnh mạ tôi. Và ông ngáp, cái ngáp kiêu ngạo đáng ghét.
Mạ tôi giấu hân hoan vào bộ ngực đầy, giấu luôn đôi mắt long lanh chứa chan hy vọng. Bà ráng làm mặt giận, cố hắt ra một câu suốt ba mươi đêm vò võ một mình bà đã nhẩm thuộc làu, nói răng không đi luôn đi, vô đây mần chi. Nhưng bà đã không nói được. Khi ba tôi cầm nhẹ tay bà, nói giận anh không, bà đã khóc òa.
Mạ tôi suốt đời không biết người đàn ông nào khác ngoài ba tôi. Không phải vì thứ đức hạnh truyền kiếp của đàn bà chân quê, chính là vì bà tự biết mình được hưởng phúc quá lớn, hơn vạn đêm được “quân tử nằm kề”, con số chính xác có trừ đi khoảng bốn ngàn đêm ba tôi vắng nhà đi công tác hoặc qua đêm với một ai đó trong bốn chục người tình nửa nắng của ông.
Điều duy nhất mạ tôi quan tâm là làm sao ông không chán bà chứ không bao giờ dám nghĩ điều ngược lại. Mạ tôi không cần đếm xỉa đến bao nhiêu lần ba tôi ôm ấp người tình, bà chỉ cần biết thời khắc ông riết bà vào lòng, đẩy bà vào rên xiết ái ân, dù không ít lần ông là kẻ chiến bại, bẽ bàng nằm trơ trong hừng hực lửa tình chính ông đã đốt cháy lên, phải vất vả lắm bà mới làm nó nguội đi được. Thế cũng đủ cho mạ tôi hạnh phúc.
Hạnh phúc của mạ tôi giản đơn như cây cỏ, cứ ba năm hai lần vác cái bụng vượt mặt đi lại vênh vang giữa chợ phiên và hả hê chửi ba tôi như chửi chó mỗi lần vượt cạn.
Nguyễn Quang Lập
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét