Hầu hết mọi tín hữu Công giáo Việt Nam (trong lẫn ngoài nước) và rất đông các vị Lãnh đạo Tinh thần thuộc nhiều tôn giáo tại Việt Nam đều nghe biết đến Đức Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền, một chức sắc Công giáo cao cấp tại Huế. Ngài nổi tiếng vì đã sống và chết như một chứng nhân cho sự thật và lẽ phải. Ngày 08-06 tới đây là kỷ niệm 20 năm vị Tổng Giám mục này qua đời (1988), mà nhiều người tin rằng là do bị Cộng sản Việt Nam ám hại. Sau đây là chứng từ của linh mục Nguyễn Văn Lý, vốn từng là thư ký của Đức TGM và có thể nói là đệ tử chân truyền của ngài.
1. Ðức Cố TGM Philipphê Nguyễn Kim Ðiền trước 1975
Ðức Cố TGM Ðiền, sinh năm 1921, nguyên là một Linh mục xuất sắc về đạo đức và trí thức của Giáo phận Sài Gòn. Ngài làm giáo sư Tiểu chủng viện, rồi làm Giám đốc Tiểu chủng viện Giáo phận Sài Gòn. Ngài nói và viết tiếng Pháp gần như một nhà trí thức Pháp. Ngài đã trở nên một trong những thành viên đầu tiên của Dòng Tiểu Ðệ Phúc Âm theo tinh thần của Cha Charles de Foucauld do Cha René Voillaume thành lập. Từ đó, Ngài đạp xích lô để mưu sinh và gần gũi với giới lao động. Năm 1960, Ngài được chọn làm Giám mục Cần Thơ. Năm 1964, Ngài được chọn làm Giám quản Tông tòa Tổng Giáo phận Huế. Ít lâu sau Ngài chính thức làm Tổng Giám mục Huế.
Ngài thánh thiện, hiền từ, kín đáo, tế nhị đến nỗi làm Giám mục ở Huế suốt 11 năm, trừ một căn phòng nhỏ Ngài dùng để ngủ, còn lại tất cả các phòng khác trong Tòa TGM Huế, cách bày biện trang trí Ngài vẫn cố tình để y nguyên như thời Ðức TGM Phêrô Ngô Ðình Thục, để đợi Ðức TGM Thục trở về. Ngay cả cái ghế mỗi ngày Ngài quì chầu Mình Thánh Chúa cả tiếng đồng hồ, Ngài cũng để y nguyên như thời Ðức TGM Thục vậy. Sau 1975 Ngài mới cho thay đổi, vì biết chắc chắn Ðức TGM Thục không bao giờ trở về nữa.
Ngài có đời sống nội tâm sâu xa, mỗi ngày quì chiêm ngắm Mình Thánh Chúa đủ hoặc hơn một giờ đồng hồ không động đậy, không sách vở. Ngài xưng tội đều đặn với một linh mục đạo đức đang ở nghỉ hưu tại Nhà hưu dưỡng Giáo phận.
Ngài luôn xử sự với mọi người cách lễ độ, ôn tồn. Ðặc biệt, với hàng linh mục, Ngài luôn tôn trọng và thân tình. Với các tôn giáo bạn, Ngài luôn chân thành kính cẩn. Nhóm Hướng Thiện Phật giáo, một tổ chức từ thiện nổi tiếng ở Huế luôn coi Ngài là Vị Bảo trợ tinh thần, mỗi năm đều đến kính thăm Ngài ít nhất 4 lần: Tết Nguyên đán, Giáng Sinh, Phục Sinh và ngày Giỗ của Vị Bồ tát sáng lập Phạm Văn Siêu. Mỗi lần, họ đều quì lạy Ngài, không bao giờ nhận sự trợ giúp vật chất, chỉ xin Ngài cầu nguyện cho việc từ thiện của họ mà thôi. Ngài đỡ họ dậy, không muốn họ quì lạy như thế, nhưng họ vẫn cứ làm mãi.
Ðặc biệt là Ngài rất cẩn thận để Giáo Hội tách biệt khỏi chính trị thế tục, đến nỗi suốt 11 năm làm Giám mục ở Huế từ 1964 đến 1975, Ngài không hề sử dụng một chuyến máy bay nào của Không lực Việt Nam Cộng hòa và Không lực Hoa Kỳ, Ngài cũng không hề tiếp một Nhân viên nào của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa hay Sĩ quan cao cấp nào tại Tòa TGM Huế với tư cách là quan quyền phần đời cả. Ðầu năm 1975, Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân Khu I, một Vị Tướng lúc đó rất có uy tín trong chế độ Sài Gòn cũ, muốn gặp Ðức TGM Ðiền, Ngài đã trả lời: “Tôi là nhà tu hành, nếu Ngài muốn gặp tôi với tư cách là một con người đi tìm chân lý và bình an thì xin kính mời Ngài đến bình thường như mọi người lúc nào cũng được, nhưng nếu Ngài muốn đến thăm tôi với tư cách một Sĩ quan của Quân lực VNCH thì tôi không đủ tư cách tiếp Ngài”. Nghe trả lời thế, Tướng Ngô Quang Trưởng đã không đến.
Năm 1974, Ngài đi dự Thượng Hội Ðồng Giám Mục Thế Giới ở Rôma, nhiều phóng viên báo chí bao vây Ngài. Có người hỏi Ngài: “Có dư luận cho rằng Cộng sản Bắc Việt sẽ chiếm được miền Nam, Ngài nghĩ sao về Cộng sản VN”? Ngài đã trả lời rằng: “Là Giám mục Công giáo, tôi không bao giờ chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản, nhưng người cộng sản Việt Nam cũng là người anh em của tôi”. Sau đó, có dư luận cho rằng Ngài là TGM “đỏ”!
Ðầu năm 1975, Ngài tiên đoán quân CS Bắc Việt thế nào cũng đánh chiếm Huế, nên có bí mật thăm dò các Linh mục Giáo phận Huế để biết nếu quân Bắc Việt chiếm Quảng Trị Thừa Thiên, liệu có bao nhiêu Linh mục tình nguyện ở lại để làm việc trong chế độ cộng sản. Cuộc thăm dò cho kết quả đáng buồn: chỉ có 6 trên khoảng 120 Linh mục dám ở lại với CS mà thôi.
Ngài tức khắc vào Sài Gòn tìm 1 Nhà hưu cho các Linh mục già lão của GP Huế di tản vào và bàn giao Hội Thừa Sai VN cho Ðức TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình để vội về lại Huế cho kịp. Ngày 19-3-75 Ngài về đến Ðà Nẵng bằng một trong vài chuyến Boeing cuối cùng của Hàng không VN lúc đó. Từ Ðà Nẵng, xe của Tòa TGM Huế đưa Ngài về đến Huế lúc 2g sáng ngày 20-03-75. Ðược biết chỉ còn khoảng hơn 6 Linh mục thật sự ở lại trong tỉnh Thừa Thiên, còn tỉnh Quảng Trị thì không còn Linh mục nào, Ngài vội nhờ đường dây điện thoại còn lại cuối cùng của phòng Tuyên úy Công giáo để gọi gấp vào Sài Gòn mời tôi ra, là người đã tình nguyện theo Ngài ra sống trong vùng cộng sản.
Tôi đang dâng Thánh lễ tại Vườn Xoài trong một tuần giảng tĩnh tâm tại đây, thì nhận được tin Ðức TGM Huế muốn tôi ra Huế lúc 6g sáng. Tôi vội về lại cộng đoàn Thừa Sai thu xếp và ra Ðà Nẵng lúc 12g trưa ngay ngày hôm đó. Tôi chỉ ra Huế sau Ðức TGM Ðiền 10g đồng hồ, nhưng Ðèo Ðá Bạc đã bị quân Bắc Việt chiếm, nên từ Ðà Nẵng, tôi phải dùng nhiều phương tiện. Cuối cùng, sau 5 đêm và gần 6 ngày trọn, tôi về được đến Tòa TGM Huế chiều 25-03-75.
2. Ðức Cố TGM Philipphê Nguyễn Kim Ðiền sau 1975
Sáng 26-3-1975, quân Bắc Việt treo cờ giải phóng trên Thành phố Huế. Quân đội giải phóng miền Nam VN thực chất cũng là quân Bắc Việt thôi, nhưng phải lấy cớ là quân miền Nam giải phóng để tránh tiếng cho Hà Nội khỏi xâm lược miền Nam.
Ngay ngày 01-04-1975, Ủy ban Quân quản tỉnh Thừa Thiên đã mời Ðức TGM Ðiền tham dự buổi mit-tinh để chào mừng ngày Huế giải phóng. Ngài đã phát biểu theo tinh thần tích cực, vui mừng vì chiến tranh chấm dứt tại một phần Ðất Nước. Sau đó Ngài đều cổ vũ mọi người vui sống theo tinh thần lạc quan đó. Ngài phổ biến tập sách “Tôi Vui Sống” để hướng dẫn Dân Chúa sống Phúc Âm trong hoàn cảnh mới một cách tích cực.
Ðể đề phòng việc có thể thiếu vắng Chủ Chăn, Ngài dùng năng quyền đặc biệt, ngày 09-7-1975, tấn phong ngay Cha Têphanô Nguyễn Như Thể làm TGM Phó với quyền kế vị.
Dịp 02-09-75, Ngài xin đi Hà Nội để chào mừng vị Hồng y Tiên khởi của Giáo Hội Công giáo Việt Nam: Ðức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Như Khuê, đồng thời để 2 vị Lãnh đạo gặp nhau lần đầu tiên. Trên đường đi, Ngài thăm 2 Ðức Giám mục Giáo phận Vinh và Giáo phận Thanh Hóa. Tại Hà Nội, Ngài gặp Ðức Giám mục Bắc Ninh, hiện nay là Ðức Hồng Y Giuse Maria Phạm Ðình Tụng. Ngài lưu lại Tòa Tổng Giám mục gần 2 tuần, gặp Ðức TGM Phó Hà Nội, sau nầy là Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn, gặp Cha Phanxicô Xavie. Nguyễn Văn Sang, hiện nay là Giám mục Thái Bình, Tổng Thư ký HÐGMVN, gặp Cha Tổng Ðại diện Lê Đắc Trọng, hiện nay là GM Phụ tá Hà Nội, gặp cha Nguyễn Tùng Cương, về sau làm Giám mục Hải Phòng, gặp Cha Đỗ Tông, hiện nay là Tổng Ðại Diện TGP Hà Nội, và nhiều linh mục quan trọng khác. Chuyến đi miền Bắc nầy giúp Ngài thấy rất rõ CSVN đối xử thế nào với các Tôn giáo tại VN và nhất là Giáo hội Công giáo VN. Về lại Huế, CSVN yêu cầu Ngài viết và nói lại chuyến đi ấy, Ngài nhất mực từ chối. CSVN cũng mời tôi, Linh mục Thư ký cùng đi với Ngài làm như thế, nhưng tôi cũng từ chối.
CSVN đàn áp các Tôn giáo càng ngày càng rõ rệt, nhất là việc phân biệt đối xử các Tín hữu ghi rõ trong lý lịch mình là “Công giáo”. Biết bao nhiêu sinh viên Công giáo không thể tốt nghiệp đại học, bao nhiêu học sinh Công giáo không thể thi vào đại học, bao nhiêu nhân viên bị mất việc làm chỉ vì mình là Công giáo. Việc bổ nhiệm, thuyên chuyển Linh mục càng ngày càng khó khăn. Giữa năm 1975, Ngài phong chức được 2 linh mục, đầu năm 1976, được 4 Linh mục và sau đó đành chịu. Mãi 18 năm sau, năm 1994, Ðức TGM Têphanô Nguyễn Như Thể mới phong chức được thêm 5 linh mục khác.
Từ một người rất sợ Cộng sản, nhưng trong Ðức Tin và Ðức Ái, Ðức TGM Ðiền cố gắng sống cởi mở, hài hòa, tích cực. Tuy nhiên, dần dần Ngài nhận thức rõ, CSVN thực sự muốn tiêu diệt các Tôn giáo mà nhất là Công giáo. Năm 1977, nhân 2 cuộc họp do Ủy ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam (UBMTTQVN) tổ chức, Ðức TGM Ðiền đã phát biểu 2 bài đòi Tự do Tôn giáo, trong đó Ngài xác nhận, người Công giáo bị đối xử như “công dân hạng hai”. Tôi đánh máy ra và phổ biến cho các Linh mục Gp Huế. Ít lâu sau, 2 bài nầy được in ra khá nhiều ở Sài Gòn và báo chí nước ngoài đăng lại. Cuối tháng 08-1977, Linh mục Hồ Văn Quý, Giám đốc Ðại chủng viện Huế và tôi bị bắt, các tòa án nhân dân của các tổ chức quần chúng kết án chúng tôi 20 năm. Nhưng năm 1977, Việt Nam vừa nộp đơn xin gia nhập Liên Hiệp Quốc, nên chiều 24-12-1977, hai chúng tôi được đột ngột thả ra. CSVN buộc Ðức TGM Huế phải bổ nhiệm 2 anh em chúng tôi đi làm việc, không cho ở Nhà Chung nữa, nhưng không được bổ nhiệm ở thành phố, giáo xứ lớn, ở vùng núi, ở vùng biển; mà chỉ ở giáo xứ nhỏ vùng quê mà thôi. Ðầu tháng 7-1978, Linh mục Augustinô Hồ Văn Quí đi Bố Liêu, Quảng Trị; còn tôi đi Ðốc Sơ, gần Tp Huế.
Trước Giáng Sinh 1979, CSVN dùng bạo lực cưỡng chiếm Tiểu chủng viện Hoan Thiện, đuổi 3 Linh mục đang dạy trong đó phải đi làm việc khác và hơn 80 chủng sinh phải về sống với gia đình. Giáng Sinh năm đó, Ðức TGM Ðiền ra lệnh cho cả Giáo phận Huế phải để tang cho đứa con yêu 149 tuổi nầy vừa bị giết. Ngài nói: “Chủng viện là con mắt của Giám mục, nay tôi đã bị móc mắt rồi”. Cả Giáo phận rất đau lòng về việc Tiểu chủng viện bị cưỡng chiếm.
Lúc bấy giờ, CSVN không muốn giáo hữu đi hành hương kính Ðức Mẹ La Vang, ngăn chận xe khách dọc đường, đuổi tất cả những ai muốn đi La Vang xuống. Nên việc hành hương kính Ðức Mẹ La Vang rất khó khăn. Cha Tôma Trần Văn Cầu, Quản xứ Trí Bưu phụ trách Trung Tâm La Vang; về sau Cha Emmanuel Nguyễn Vinh Gioang, Quản xứ Diên Sanh phụ trách La Vang, và tất cả các Linh mục vùng Quảng Trị đã phải kiên trì đấu tranh bằng nhiều cách để có thể đưa giáo hữu đến La Vang. Dịp 15-08-1981, phải hướng dẫn khách hành hương La Vang nhưng bị chận dọc đường, tôi phải đứng tại chỗ hướng về La Vang mà nguyện kinh 4 lần 4 nơi khác nhau, mới có thể khai thông tuyến đường được. Năm ấy, lần đầu tiên sau 1975, số người hành hương La Vang lên đến 10 ngàn. Sau đó, CSVN kết án 5 chủng sinh từ 2 đến 4 năm tù và đuổi 5 chủng sinh khác về nhà vì “tội” diễn lại sáng kiến “đấu tranh” nói trên của tôi.
Từ 1976, Ðức TGM Huế không truyền chức linh mục được thêm cho một chủng sinh nào. Ðại chủng viện Huế coi như bị đóng cửa với 1 Linh mục giám đốc duy nhất và mấy chục chủng sinh chẳng biết tương lai thế nào. Các Dòng tu liên tiếp gặp rất nhiều khó khăn. Phải tu chui, khấn chui, một cách vô lý và đầy ấm ức. Các giáo xứ “kinh tế mới” và vùng xa khó khăn lắm mới có một Thánh Lễ dịp Giáng Sinh, Phục Sinh,…
Năm 1980, cùng với Ðức TGM Phó Têphanô Nguyễn Như Thể, Ngài đi dự buổi họp đầu tiên của HÐGMVN tại Hà Nội. Khi về lại, cả 2 Vị TGM đều rất buồn về Bức Thư Chung không được vừa ý, nhưng vì muốn bày tỏ tính hiệp nhất của Giáo hội mà đành lòng ký chung. Thư Chung nầy, hầu như không có Linh mục Gp Huế nào đọc chung trong Nhà Thờ cho giáo hữu nghe, chỉ trừ một Linh mục duy nhất mà nay đã qua đời. Sau đó, Ngài được đi Rôma. Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã gọi Ngài là “TGM anh dũng”, chia sẻ với Ngài công thức lừng danh để sống trong chế độ cộng sản: “Cộng tác trong tình trạng luôn luôn đề kháng” (collaborer en résistant).
Năm 1983, CSVN kết án tôi 10 năm tù ở và 4 năm quản chế rồi đưa tôi ra Thanh Hóa. CSVN lại bắt Linh mục Lê Thanh Hoàng, kết án 3 năm, nhưng phải ở 5 năm.
Đức TGM lặp đi lặp lại nhiều lần, tại nhiều nơi: VN chưa có tự do tôn giáo thực sự. Nhiều lần, Ngài viết thư cho Hội Ðồng Giám mục Việt Nam và Linh mục Nguyễn Thế Vịnh, Chủ tịch Ủy Ban Ðoàn Kết Công Giáo (UBÐKCG) chứng minh rằng Giáo Hội Công giáo VN đang bị bách hại thực sự; và GHCGVN đã có Hội Ðồng Giám mục VN là cơ quan chính thức để điều hành sinh hoạt Giáo hội, liên lạc với Chính quyền Cộng sản, không cần có thêm một Ủy ban nào hết. Nếu UBÐKCG hoạt động thì UB ấy cao hơn HÐGMVN, tạo nên sự bất hợp lý trong Giáo hội. (Tại nhiều giáo phận, việc thuyên chuyển, bổ nhiệm linh mục, việc du học và du lịch nước ngoài do UBÐKCG nầy lèo lái, sắp đặt). Ngài viết: “Ai không đi qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp” (Ga 10,1).
Ngài phải tìm cách chuyển các tài liệu ấy ra nước ngoài. Vì thế, Ngài đã bị CSVN gây ra bao nhiêu đau khổ. Rất tiếc, hiện nay tất cả các tài liệu nầy có lẽ đã bị một Linh mục của Tòa TGM Huế thiêu hủy năm 1994 (đành phải giấu tên cho Linh mục ấy). Khi đó, có một Nữ tu thấy và biết, khóc lóc xin đừng làm như thế, nhưng Linh mục nầy vẫn không nghe, vì cho rằng những tài liệu ấy không phù hợp và có hại (?!). Tôi chưa thể có đủ điều kiện kiểm chứng lúc nầy được. Hi vọng vẫn có ai đó trên trái đất nầy còn cất giữ được.
Linh mục Nguyễn Hữu Giải nhiệt tình chống đối việc thành lập UBÐKCG nên ngày 26-11-1983, ngài bị bắt, bị ở trại tập trung đến cuối 1989 mới được thả, dù không có tội gì. Nhiều Linh mục, Tu sĩ khác bị triệu tập làm việc rất căng thẳng. Ðức TGM Ðiền càng đau buồn.
Rồi Lm Phêrô Trần Văn Quí, Thư ký của Ngài cũng bị bắt và bị quản chế. Về sau bị cưỡng bức đưa đi giáo xứ Buồng Tằm, một giáo xứ nhỏ tận thượng nguồn sông Hương, nhưng Linh mục Quí phản đối và bỏ vào Sài Gòn học thêm tin học và ngoại ngữ. Năm 1995, Lm Quí được bổ nhiệm làm Quản xứ Phường Ðúc và Nguyệt Biều.
Ðức TGM Ðiền đã nói một câu rất thời danh: “Đã có những Giám mục chịu chết vì bênh vực quyền lợi của Hội Thánh. Nhưng ngày nay có Giám mục nào dám chịu chết để bênh vực quyền lợi của con người không?”
3. Ðức Cố TGM Philipphê Nguyễn Kim Ðiền đã tử đạo thế nào?
Năm 1975, Ðức TGM Ðiền không hề bị một bệnh nào, chỉ thỉnh thoảng bị cảm lạnh. Nhưng chịu quá nhiều phiền toái do CSVN gây ra như bị ép buộc ký giấy trao cho CSVN sử dụng hầu hết các cơ sở giáo dục và từ thiện của Giáo phận, bị triệu tập làm việc suốt 120 ngày, suốt ngày bị nghe những lời thóa mạ, bị buộc viết các lời khai, bị buộc ăn năn sám hối vì đã đấu tranh cho các quyền lợi chính đáng của Giáo Hội, bị buộc tố cáo chê bai các Linh mục, Tu sĩ con cái của mình, không thể truyền chức Linh mục cho các chủng sinh đã học xong từ lâu, không thể bổ nhiệm các Linh mục, có thời gian không thể đi cử hành Nhiệm tích Thêm sức trong giáo phận, nên từ 1981, Ngài bị bệnh nhồi máu cơ tim, thỉnh thoảng tim ngừng đập vài giây, cao huyết áp, xơ cứng động mạch, suy thận, đau cột sống và tiểu đường, mỗi thứ một ít, nhưng chưa có bệnh nào nặng đến nỗi gây ra cái chết đột ngột.
Ðức TGM Ðiền qua đời ngày 08-06-1988, lúc bấy giờ tôi đang ở trại giam Nam Hà, Hà Nam Ninh. Khoảng 1 tuần sau đó, tôi chỉ biết tin Ngài qua đời qua nhật báo Nhân dân. Các điện tín và các thư thân nhân (nay còn sống và tạm giấu tên) viết báo tin cho tôi Ngài qua đời đều không đến tay tôi được.
Cuối năm 1992, tôi ra khỏi tù. Nghe nhiều người bàn tán về cái chết “đầy bí ẩn” của Ðức TGM Ðiền và về các “ơn lạ” mà nhiều người đã xin được nhờ cầu nguyện với Ngài. Tôi quì trước mộ Ngài cầu nguyện rất lâu rằng: “Nếu việc làm sáng tỏ nguyên nhân cái chết của Ðức Tổng làm sáng danh Chúa và có lợi cho Hội Thánh CGVN, thì xin Ðức Tổng cầu bầu cùng Chúa phù trợ cho con đủ điều kiện làm xong việc quá khó khăn nầy”. Sau đó, tôi bắt đầu âm thầm tiến hành điều tra. Sau đây là kết quả bước đầu. Kính xin mọi người bổ sung đầy đủ hơn:
Cuối tháng 05-1988, Ngài xin vào điều trị tại bệnh viện Nguyễn Trãi, sao cho tạm ổn định để có thể đi Rôma. Ngài rất nôn nóng đi Rôma để báo cáo về Ðức TGM Phó mà Ngài định đặt, về Ðức GM Phụ tá Giacôbê Lê Văn Mẫn mà Ngài đã tấn phong “bí mật” và về GHCGVN, về GP Huế. Có 2 bác sĩ quen săn sóc, 1 bác sĩ ở đường Sương Nguyệt Anh, gần Nhà thờ Chợ Ðũi và một bác sĩ bạn của bác sĩ nầy. Theo họ, Ðức TGM bị ung thư đường tiểu, không thể chữa.
Ngài có bị nhổ 2 răng: 1 răng vàng và một răng khôn, có đem 2 răng ấy đến 42 Tú Xương nhờ em ruột của Nha sĩ Phạm Thị Thân khám. Ở phòng khám răng nầy có cô y tá tên Nguyễn Thị Kim Anh, 12 Trương Quốc Dung, Phường 10, Quận Phú Nhuận, Ðt 08.8350482 – 08.8449472, quen biết cô Bích Hồng, Thị Nghè, thuộc Tu hội Trợ Tá Tông Ðồ, người săn sóc Ðức Tổng vào những giờ cuối. Hai Lm Stanilaô Nguyễn Ðức Vệ và Gioakim Lê Thanh Hoàng đi theo Ðức TGM Ðiền để săn sóc Ngài biết cô Hồng nầy.
Chẳng biết có sự gợi ý của CSVN hay không, nhưng cho dù có, thì cũng chỉ vì chân tình và ngay tình, có hai Ðức Giám mục (tạm thời xin giấu tên) thăm Ngài hai lần khác nhau tại bệnh viện Nguyễn Trãi, khuyên Ngài xin vào bệnh viện Chợ Rẫy để có thể xét nghiệm làm hồ sơ xin đi nước ngoài chữa bệnh, vì theo hai Ðức Giám mục nầy cho biết, trên nguyên tắc Chính quyền CSVN đã đồng ý. Hai Ðức GM nầy còn cam đoan là CSVN không đến nỗi dùng thủ đoạn gì đâu (?!). Ngài nghe lời và xin chuyển qua bệnh viện Chợ Rẫy đầu tháng 06-1988, mục đích là để được khám nghiệm trước khi lên máy bay đi Rôma. Tại đây, các bác sĩ cho rằng bệnh Ngài quá nặng, không chữa được. Có một lần, Ngài đau đớn quá, Ngài bấm chuông gọi 2 Cha Vệ – Hoàng đưa Ngài về, vì không chữa được, nhưng sau đó, có một điện tín báo: Nhà Nước đã cho đi chữa bệnh nước ngoài, giấy tờ đã xong. Tòa Thánh đã bằng lòng tài trợ mọi phí tổn. Ngài rất mừng, vui, ăn hết một tô xúp, nhưng bí tiểu.
CSVN từ Huế đã vào Sài Gòn theo dõi Ngài sít sao và tham gia chỉ đạo các kế hoạch. Tôi có thể nêu tên của một sĩ quan công an CS lo việc nầy hiện nay đang công tác tại Huế.
Sáng 6-6-1988, cả 2 Linh mục Huế: Vệ và Hoàng theo chăm sóc Ngài đều vắng mặt. Ngài có người em ruột là Nguyễn Thị Thủy, Nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán (quen gọi là Dì Sáu) thường trực bên cạnh Ngài rất chu đáo, cẩn thận, không để Ngài uống thuốc gì mà không kiểm tra chặt chẽ. Nhiều Nữ tu Huế cũng xin được vinh dự chia sẻ gánh nặng túc trực chăm sóc Ngài. Sáng hôm đó, Nữ tu Nguyễn Thị Quí, Dòng Con Ðức Mẹ Vô Nhiễm Huế, xin phép thay Nữ tu Thủy để được săn sóc Ngài. Bà Thủy không chịu, hai người giằng co nhau, nên Ðức Tổng nói: “Thôi em để cho người ta săn sóc một lát, em về nghỉ ngơi đôi chút”. Lợi dụng chỗ sơ hở nầy, khoảng từ 10 đến 11g ngày 06-06-1986, một cô y tá đến trao cho Ngài một nắm thuốc. Ngài hỏi cô y tá: “Cô cho tôi uống thuốc gì vậy?”. Cô trả lời rất cộc cằn lỗ mãng: “Nhiệm vụ của ông là phải uống những gì chúng tôi điều trị ông, không được hỏi lôi thôi gì cả”. Ngài rất phân vân. Cuối cùng Ngài bằng lòng uống. Uống xong, Ngài cảm thấy rất đau đớn. Ngài hỏi cô y tá: “Cô biết tôi mấy giờ nữa thì chết không?”. Cô y tá ấy hốt hoảng và run sợ trả lời: “Con lạy cụ, xin cụ tha lỗi cho con! Việc nầy là do cấp trên.” Ðức Tổng trả lời: “Không những tôi tha lỗi cho cô mà thôi, tôi còn tha thứ cho cả cấp trên sai cô làm. Tôi tha thứ hết”. Sau đó, thấy dì Sáu vào, Ngài nói với Dì Sáu: “Chén đắng Chúa trao anh đã uống xong. Xin trọn theo ý Chúa”. Dì Sáu báo cho cô y tá biết Ngài đau đớn lắm. Khoảng 12g30 trưa, cô y tá ấy trở lại cho Ngài uống một liều thuốc khác. Sau đó Ngài bị tiêu chảy liên tục cho đến chết, không cầm lại được. Các nhân chứng hiện nay đều còn sống, một số Nữ tu cần tạm giấu tên một thời gian.
Khoảng 13g ngày 8-6-1988, Ngài bấm chuông gọi cấp cứu, nhưng không có ai đến cả. Vài phút sau, Ngài qua đời tại phòng Ngài nằm điều trị bệnh. Phòng nầy nay đã thay đổi số (lúc đó, người thân không ai nhớ số phòng), chỉ nhớ ở tầng lầu thứ 9, bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn. Lúc ấy chỉ có Dì Sáu bên cạnh.
Vì vụ việc có nhiều ám muội (lúc Ðức TGM Ðiền qua đời xong, môi miệng Ngài tím bầm, 2 tay cũng tím thẫm), nên có một nữ tu kín đáo theo dõi cô y tá vừa cho Ngài uống thuốc, đã đi theo cô và nghe được câu nói rất quan trọng nầy của cô khi cô gọi điện thoại cho cấp trên: “Vụ việc đã hoàn thành”. Nữ tu ấy nay còn sống ở Huế.
Vì thân nhân muốn đưa xác ra Huế, bệnh viện đã mổ lấy bộ ruột của Ngài. Bộ ruột nát bầy nhầy khác thường. Một bác sĩ tên Bình, bệnh viện Chợ Rẫy, trao nó cho thân nhân và đề nghị không nên đưa về nhà nữa. Lúc đó, các thân nhân quá đau lòng, không ai còn bình tĩnh để nhận lãnh cả. Bệnh viện đã đem chôn bộ ruột, nay chưa tìm ra dấu vết. Thật là đáng tiếc!
Sau đó, cô y tá ấy thanh minh rằng cô không biết Vị mà cô cho uống thuốc là ai, và cô đã xin lỗi thân nhân. Cô được gửi đi du học ngay tại Cộng Hòa Dân Chủ Ðức (Ðông Ðức) và theo thời hạn là sẽ trở về Việt Nam tháng 3-1995. Không rõ nay đang ở đâu.
Xác Đức TGM được đưa về Tòa TGM Sài Gòn.
Tin tức về cái chết của Ngài bị bưng bít hoàn toàn. Tất cả các đường điện thoại gọi ra Huế đều bị cắt. Lúc bấy giờ chưa có Fax, chưa có E-mail. Nội bộ Giáo hội chẳng ai có điện thoại di động. Và tất cả các điện tín khẩn gửi ra Huế đều không được trao ngay (người ta chỉ mang đến cho Tòa TGM Huế cả một chồng dày sau khi Ngài đã được an táng). Cho đến nỗi, Giáo phận Huế đã thành lập một phái đoàn vào Sài Gòn gồm tất cả các Linh mục Quản hạt để thăm viếng và tiễn đưa Ðức Tổng đi Rôma. Ðau đớn thay, khi phái đoàn ấy lên xe tại Huế sáng 09-8-1988 để đi thăm Ngài thì thực ra Ngài đã chết hôm trước rồi mà vẫn chưa ai biết ! Khi phái đoàn Gp Huế vào đến Tòa TGM Sài Gòn, hỏi Ðức Tổng Huế ở đâu, thì có nhân viên chỉ 1 phòng. Gp Huế tưởng gặp Ðức Tổng còn sống, không ngờ nhân viên chỉ phòng đang quàn xác Ngài! Các linh mục tại Huế thì chỉ biết tin nhờ Radio Veritas, Philippin. Sau đó mới tổ chức để đưa xác Ngài về Huế. Nhà Nước gây rất nhiều trở ngại để việc đưa xác Ngài về Huế bị chậm lại. Dầu vậy, giáo dân GP Huế quá thương tiếc Ngài đã đón tiếp xác Ngài rất trọng thể. Có công an kín đáo tháp tùng bám sát, có nhân viên của CSVN quay phim đầy đủ.
Xác Ngài được liệm trong hòm bọc kẽm, phần trên có lồng kính để thấy được mặt. Môi ngài tím bầm, mũi trương sình bong bóng máu, làm cho giáo dân hết sức thắc mắc. Mặc dù đã được điểm trang kỹ lưỡng, nhưng môi Ngài vẫn tím bầm! Ðoàn xe tang chở thi hài Ðức Tổng Giám mục về Toà Giám Mục Huế lúc 21g30 ngày 13-06-1988, và sáng 14-06-1988 được đưa lên an vị tại Nhà Thờ Chính Tòa Phủ Cam để tín hữu và quan khách kính viếng Ngài suốt ngày đêm. Tối 14-06-1988, vì mặt Ngài biến dạng khác thường, nên ban tẩm liệm đã đậy nắp hòm gỗ che mặt Ngài lại. Sáng 15-6-1988, Thánh lễ Ðồng tế an táng trọng thể đã được Ðức TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình, TGM Sài Gòn chủ sự cùng với hầu hết các Giám mục trong HÐGMVN, rất đông Linh mục các Giáo phận của 3 Giáo tỉnh và của Giáo phận Huế. Vì số giáo hữu quá đông, nên mãi đến tối 15-06-1988 mới hạ huyệt được, rồi ban tẩm liệm đã khoan 5 lỗ quanh hòm kẽm để xác dễ phân hủy và an táng Ngài tại phía trái Cung Thánh Nhà Thờ Phủ Cam.
Linh mục Phaolô Nguyễn Kim Bính, Hạt trưởng Thành phố Huế, Chánh sở Nhà Thờ Chính Tòa Phủ Cam, trang hoàng mộ Ngài rất lộng lẫy như mộ một Vị Thánh Tử Ðạo. Sau đó, phái đoàn Tòa Thánh thăm Nhà Thờ Phủ Cam, thấy vậy có ý kiến rằng: không nên đi trước ý kiến của Tòa Thánh, nên Lm Kim Bính đã trang hoàng đơn giản như hiện nay: phần mộ sát với nền Nhà Thờ, bên trên có một tấm đá cẩm thạch đen, có khắc vài dòng về Ngài.
Dì Sáu, em ruột Ngài là Nữ tu Mến Thánh Giá Chợ Quán, 118 Trần Bình Trọng, Q. 5, Sài Gòn, Đt: 08.8350482. Nay ở Nhà Hưu dưỡng Dòng MTG Chợ Quán, 30/1 ấp Truông Tre, xã Linh Xuân, Thủ Ðức, Sài Gòn, Ðt 08.8964116.
Còn cô y tá đã cho Ngài uống thuốc là nhân viên cũ của Nữ bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, hôn thê của Bs Trần Văn Thọ, 117 Cách mạng 1-11 cũ, nay là 1 cơ quan Nhà nước. Cô có làm việc cho Bs Nguyễn Văn Thọ, 99 Võ Tánh, gần cổng xe lửa số 6, đối diện với Nhà thờ Cơ Ðốc Phục Lâm. Cô có 1 người bạn Công giáo, đã trọ học ở 40/5 Ngô Tùng Châu, Gia Ðịnh, đối diện với phòng mạch Bs Hoàng Văn Ðức, khoa trưởng Y khoa Minh Ðức. Lm Ðỗ Quang Biên, dạy trường Trí Ðức do Lm Nguyễn Văn Ngà làm hiệu trưởng, Lm Nguyễn Văn Hòa (nay là GM Nha Trang và đã được bổ nhiệm TGM Phó Hà Nội) làm hiệu phó, biết anh nầy. Anh hiện ở Ðà Lạt.
4. Kết luận:
Liều thuốc Ngài bị buộc uống sáng 6-6-1988 là liều thuốc độc. Liều thuốc Ngài bị uống sau trưa ngày 6-6-1988 là liều thuốc xổ để giúp tẩy bớt các dấu vết chất độc trong ruột, tạo nên cơn tiêu chảy cho đến ngày 8-6-1988 mà bệnh viện cố tình không cho cầm lại, mặc dù Chợ Rẫy là một bệnh viện lớn nhất nhì ở Sài Gòn. Bộ ruột nát bầy nhầy khác thường; miệng Ngài tím bầm, hai bàn tay Ngài cũng bị bầm tím, 2 hốc mắt trái và phải đều bị tím bầm và có 2 bong bóng máu đen sẫm rất lớn tại 2 lỗ mũi, vỡ rồi lại hiện, làm gương mặt Ngài biến dị khác thường, khiến tối 14-6-1988 một giáo hữu trong ban tẩm liệm (nay còn sống, nhưng tạm giấu tên) phải xin Lm Nguyễn Kim Bính cho phép đậy nắp hòm gỗ bên ngoài hòm kẽm, không để khách đến viếng thấy mặt Ngài nữa, vì quá đau lòng và khó nhìn. Kèm theo những diễn biến chung quanh việc Ngài bị buộc uống thuốc sáng 06-06-1988 nói trên, các điều nầy không phải là những bằng chứng Ngài đã thực sự bị đầu độc sao?
Sau đám tang Ðức TGM Ðiền, Công an tỉnh Bình Trị Thiên đến tận trại giam Bình Ðiền, Thừa Thiên, gặp Linh mục Phêrô Nguyễn Hữu Giải nguyên một buổi sáng, kể lại cái chết và đám tang Ngài, thanh minh về việc CSVN không hề đầu độc Ngài và dặn: “Khi được tự do, anh đừng có tin lời đồn ấy”. Sau đó, Cán bộ Giáo dục trại giam lại gặp Lm Giải thêm một buổi thanh minh rằng Ðức TGM Ðiền không hề bị trúng độc, khuyên nên biết giải thích lại cho dân. Năm 1989, khi thả Lm Giải ra khỏi tù, CSVN lại nói với Lm Giải rằng: “CQ không đầu độc TGM Ðiền”. Tại sao CSVN lại phải mất công thanh minh nhiều lần vất vả như thế và tại sao lại tự buột miệng phải thanh minh một điều không ai chất vấn cả?
Trong Tuyên ngôn 24-11-1994, tôi ghi rõ: “Ðức TGM Ðiền đã khổ vì đạo và đã chết vì đạo”, mà CSVN trong suốt 5 tuần làm việc liên tiếp, không hề dám đả động gì đến chuyện ấy. Vì sự thực là thế!
Chắc chắn một điều: cho dù chưa đưa ra được bằng chứng khoa học 100% rằng Ngài đã bị cho uống thuốc độc đi nữa, vì một đàng bộ ruột Ngài chưa tìm được, một đàng việc khai quật mộ Ðức Cố TGM Ðiền lên là điều chưa thật sự cần thiết phải làm trong lúc nầy, thì việc Ngài suốt 13 năm liên tiếp chịu khổ vì Giáo hội từ 1975 đến khi chết (1988), cũng đủ cho mọi người thành tâm ngay thẳng xác nhận Ngài ÐÃ CHẾT VÌ ÐẠO rồi.
Ngày 26-12-2000, Lễ Thánh Têphanô Tử Ðạo tiên khởi, tôi đã nằm sấp trên mộ Ngài, khóc rất nhiều và cầu nguyện thiết tha khá lâu giờ, xin Ngài phù trợ cho công việc đấu tranh tự do tôn giáo của một nhóm linh mục Huế và tôi được thành công theo ý Chúa. Tôi xin Ngài cầu bàu cùng Chúa cho tôi một dấu chỉ từ trời trong ngày hôm đó. Và tôi đã được nhận lời mau lẹ ngay sáng hôm đó.
Hiện nay, hằng ngày vẫn có giáo hữu thường xuyên đến kính viếng, quỳ cầu nguyện trước mộ Ngài. Ðối với đa số Tín hữu Gp Huế, Ðức cố TGM Ðiền là một Vị Thánh Tử Ðạo.
Trong Sổ Tang của Ðức Cố TGM Ðiền tại Nhà xứ Chính Tòa Phủ Cam, rất nhiều người viết những câu rất ý nghĩa. Ðặc biệt là ngay khi ra khỏi tù, trước khi thăm viếng bất cứ ai, trước hết, Lm Nguyễn Hữu Giải đã đến kính viếng mộ Ðức TGM Ðiền, và ghi vào Sổ Tang nầy: “Xin Chúa cho chúng con được duy trì mãi phong cách Philipphê Nguyễn Kim Ðiền”.
Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý,
Quản Xứ An Truyền
30-01-2001
Sent from my iPad
Jacqueline Mã Phương Liễu
Jacquelinelieu@yahoo.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét