Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 31 tháng 10, 2020

Tưởng Nhớ Công Ơn Cố Tổng Thống NGÔ ĐÌNH DiỆM - Lê Duy San

            Tôi không phải là thần thánh, tôi chỉ là một người bình thường. Tôi chỉ biết thức khuya dậy sớm làm việc, một lòng hiến dâng đời tôi cho đất nước và dân tộc.

                        "Tôi tiến, hãy tiến theo tôi.

                        Tôi lùi, hãy giết tối.

                        Tôi chết, hãy nối chí tôi" (1)

Ngô Đình Diệm

<!>

 

Ngày 7/5/1954 Diện Biên Phủ thất thủ (2). Hoàng Đế Bảo Đại lúc đó là Quốc Trưởng, mời cụ Ngô Đình Diệm đảm nhiệm chức vụ Thủ Tướng. Biết tình hình khó khăn, Cụ đã từ chối mấy lần nhưng Hoàng Đế Bảo Đại vẫn năn nỉ. Sau cùng, cụ đã đòi phải được tòan quyền về dân sự cũng như quân sự. Hòang Đế Bảo Đại đồng ý nên cụ đã nhận lời. Ngày 7/7/1954, cụ Ngô Đình Diệm về nước chấp chính. Chưa đầy hai tuần sau, ngày 20/7/1954, Hiệp Định Jenève được ký kết phân chia nước Việt Nam thành hai miền. Từ vĩ tuyến 17 trở ra, thuộc miền Bắc còn từ vĩ tuyến 17 trở vào thuộc miền Nam.

Về nước đúng lúc đất nước bị chia đôi, miền Nam lại chia năm xẻ bẩy: nào Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo, nào phe thân Pháp như các tướng Nguyễn Văn Hinh, Nguyễn Văn Xuân và Nguyễn Văn Vỹ, nào phe thân Cộng như Phong Trào Hòa Bình do Dược Sĩ Trần Kim Quang làm Chủ Tịch, Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ làm Phó Chủ Tịch, Giáo Sư Phạm Huy Thông làm Tổng Thư Ký. Quốc gia thì chậm tiến, xã hội thì đầy dẫy tệ đoan, dân trí thì thấp kém, ruộng vườn thì bị bỏ hoang, đường xá, cầu cống thì bị Việt Cộng phá hoại. Ðó là chưa kể đến sự phá hoại an ninh ngấm ngầm của thực dân Pháp và Việt Cộng. Ngay cả người Mỹ cũng chưa hết lòng ủng hộ cụ Diệm vì cũng không biết khả năng và lập trường của cụ thế nào (3). Các chính trị gia thì mỗi người một chính kiến. Cụ Ngô Đình Diệm lại chẳng ở trong một đảng phái nào. Không những thế, cụ còn phải lo cho cả triệu người Bắc di cư vào Nam để tránh nạn Cộng Sản.

Trong bài này, chúng tôi xin trình bầy 3 vấn đề: Thiết lập nền Đệ I Công Hoà, những thành quả của chính phủ Ngô Đình Diện trong 9 năm cầm quyền và những nguyên nhân đưa tới sự xụp đổ của nền Đệ I Cộng Hòa.

I/ Thiết lập nền đệ Nhất Cộng Hoà.

Nói tới vấn đề thiết lập nền Đệ I Cộng Hoà Việt Nam, chúng ta không thể không nói tới vấn đề truất phế Hoàng Đế Bảo Đại tức cuộc trưng cầu dân ý ngày 23/10/1955.

Tuy cụ Diệm đã được Hoàng Đế Bảo Đại trao toàn quyền về dân sự cũng như về quân sự. Nhưng thực tế về quân sự, tướng Nguyễn Văn Hinh vẫn là Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội. Tướng Hinh lại là người thân Pháp, luôn luôn chống đối cụ Diệm và có âm mưu đảo chánh lật đổ cụ Diệm. Nhưng âm mưu đảo chánh bất thành và tướng Hinh bị trục xuất khỏi Việt Nam.

Ngày 28/3/1955, Bình Xuyên nổi loạn, pháo kích vào dinh Độc Lập rồi mấy ngày sau đó tấn công vào thành Cộng Hoà. 

Trước tình thế khó khăn như vậy, vậy mà Hoàng Đế Bảo Đại lại gây khó khăn cho Thủ Tướng Ngô Đình Diệm bằng cách từ Cannes (Pháp Quốc) gửi ngay một công điện vào  ngày  28/4/1955,  triệu hồi Thủ Tướng Diệm qua Pháp nói là để “tham khảo ý kiến”,

Theo luật sư Lâm Lễ Trinh (4) thì ý đồ của Hoàng Đế Bảo Đại là để cất chức Thủ Tướng Diệm vì ông Diệm đã khai trừ tướng Nguyễn Văn Hinh và đã đóng cửa sòng bài Đại Thế Giới của Bẩy Viễn là nơi cung cấp tiền bạc cho Bảo Đại và muốn thay thể bằng Lê Văn Viễn tức Bẩy Viễn, xếp sòng Bình Xuyên, lúc đó đang nắm giữ guồng máy cảnh sát, công an và kiểm sóat sòng bài Đại Thế Giới để cung cấp tiền bạc cho Hoàng Đế Bảo Đại.

Bị đẩy vào chân tường, Thủ Tướng Diệm đã tham khảo ý kiến hội đồng nội các rồi phúc đáp: “Hội đồng Nội Các không đồng ý để ông xuất ngọai giữa tình thế rối ren của xứ sở và một Hội nghị các chánh đảng và nhân sĩ quốc gia sẽ được triệu tập ngày 29/4/55 tại dinh Độc Lập để cho biết ý kiến “Thủ Tướng có bổn phận thi hành lệnh triệu thỉnh của Quốc Trưởng hay không?” Hội nghị này gồm có 18 chính đảng, đòan thể và 29 nhân sĩ miền Nam trong đó có ba tổ chức nổi bật và có thực lực là: VN Dân Xã Đảng (Hòa Hảo) mà bí thơ là Nguyễn Bảo Tòan, VN Phục Quốc Hội (Cao Đài) do Hồ Hán Sơn thay mặt và Mặt Trận Quốc Gia Kháng Chiến VN của Trịnh Minh Thế do Nhị Lang đại diện.

         

Ông Nhị Lang, tác giả cuốn sách Phong Trào kháng chiến Trịnh Minh Thế cho biết đúng 10 giờ sáng ngày 29/4/55 Hội nghị khai mạc, Thủ Tướng Diệm tiến vào phòng họp với vẻ mặt ưu tư, sau khi ngỏ lời chào mừng Hội Nghị, ông tuyên bố: “Để qúy ngài được tự do thảo luận” rồi ông kiếu từ đi ngay…”

Trong khi các hội viên yên lặng chăm chú đọc chương trình nghị sự, thì ông Nhi Lang đứng lên tuyên bố: “Thưa quí vị, tôi được chỉ thị của đòan thể chúng tôi là Mặt trận Quôc gia Kháng chiến Việt Nam đến đây gặp quí vị không phải đề nói chuyện về việc Thủ Tuớng  Ngô Đìng Diệm có bổn phận hay không bổn phận thi hành lệnh của Bảo Đại. Mà trái lại, tôi xin thẳng thắn đặt vấn đề, là đã đến lúc chúng ta cần trút bỏ quyền hành của ông Quốc trưởng vô dụng kia đi. Là vì ông ta đang làm một việc trái với nguyên tắc lãnh đạo quốc gia. Thử hỏi, thành phố Sài Gòn đang có biến, dân chúng đang xôn xao lo sợ, tại sao ông Bảo Đại lại chọn ngay lúc này để bắt buộc Thú tướng phải bỏ nước sang bên Pháp xa xôi kia, để ‘’tham khảo ý kiến?’’ Tham khảo cái gỉ? Phải chăng đây là mưu kế để nhắm lật đổ Chánh phủ này? Vậy tôi xin tuyên bố dứt khoát, nếu quí vị bằng lòng thảo luận việc truất phế Bảo đại ngay bây giờ, thì tôi ở lại. Bằng không, tôi xin phép ra khỏi phòng hội này ngay!’’.

Trong khi cử toạ còn đang bàng hoàng và sửng sốt thì đại tá Hồ hán Sơn, đại diện tướng Cao đài Nguyễn thành Phương cũng đứng lên và tuyên bố tiếp: “Nhân danh Việt Nam Phục Quốc hội, chúng tôi đồng ý với mặt trận Quốc gia kháng chiến, yêu cầu quí vị đừng bận tâm tới lệnh triệu thỉnh vô lý của Bảo đại nữa, mà hãy đồng tâm làm một cuộc cách mạng, chấm dứt ngay vai trò của ông Quốc trưởng Bảo Đại kia đi cho xong. Nếu ý kiến nầy không được hưởng ứng, tôi cũng xin rút lui ngay tức khắc!’’

 Phiên họp kéo dài 7 tiếng. Đúng 5 giờ chiều, Chủ Tịch Nguyễn Bảo Tòan mời Thủ Tướng Diệm xuống phòng họp để nghe kết qủa. Kết qủa gồm có 3 điểm sau:

             * Truất phế Bảo Đại.

                         * Giải tán chính phủ Diệm và ủy nhiệm chí sĩ Ngô Đình Diệm thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời.

             * Tổ chức tổng tuyển cử, thành lập chế độ Cộng Hòa.

 Ông Nhị Lang viết: “Khi Thủ tướng nghe xong, tôi thấy mặt ông tái hẳn đi. Tôi chắc ông không ngờ Hội nghị này lại quay sang một chiều hướng khác và lôi kéo ông đi một bước quá xa như vậy. Thủ Tướng Diệm lộ vẻ đăm chiêu và nói bằng một giọng trầm mặc: “Xin qúy ngài cho tôi được có thì giờ suy nghĩ kỹ về vấn đề quan trọng này”.

Ngay ngày hôm sau, 30/4/55, cụ Diệm lại nhận được thêm một công điện thứ 2 triệu hồi ông Diệm sang Pháp. Đây có thể nói là giọt nước cuối cùng đã buộc ông Diệm phải đi tới quyết định truất phế ông Bảo Đại.  

Như vậy, việc truất phế Hoàng Đế Bảo Đại không phải hoàn toàn do Thủ Tướng Diệm quyết định mà là do cả một Hội nghị gồm có 18 chính đảng, đòan thể và 29 nhân sĩ miền Nam quyết định. Ông chỉ là người quyết định sau cùng và quyết định của ông cũng đứng trên quyền lợi của quốc gia dân tộc chứ không phải quyền lợi của cá nhân hay phe phái.

Với cuộc Trưng Cầu Dân Ý vào ngày 23/10/1955, Quốc Trưởng Bảo Đại bị truất phế và ông Ngô Đình Diệm trở thành Tổng Thống. Tổng Thống Diệm đã cho bầu cử Quốc Hội Lập Hiến để sọan thảo bản Hiến Pháp cho nước Cộng Hòa Việt Nam và bản Hiến Pháp này đã được Tổng Thống Diệm ban hành ngày 26/10/1956.

II/ Những thành qủa của Tổng Thống Ngô Đình Diệm sau 9 năm cầm quyền.

 1/ Về Hành Chánh: Cải biến Trương Quốc Gia Hành  thành Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (5).

Trường Quốc gia Hành chánh ở Đà Lạt thành lập từ năm 1952 thời Quốc gia Việt Nam. Chương trình học là 1 năm. Đến năm 1955 thì trường được chuyển về Sài Gòn và đổi tên là Học viện Quốc gia Hành chánh ở đường Alexandre de Rhodes gần Dinh Độc lập sau dời về trụ sở mới ở số 10 đường Trần Quốc Toản, Quận 3. Đây là một cơ sở giáo dục của Việt Nam Cộng hòa nhằm đào tạo nhân viên hành chánh cao cấp cho chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Chương trình học là 3 năm.

2/ Về Quân đội: Cải biến Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt thành Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt và nâng cao trình độ các TT Huấn Luyện Hải Quân và Không Quân Nha Trang (6).

Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt (tiếng PhápÉcole militaire Inter-armes) thành lập năm 1950, nhằm đào tạo sĩ quan cho quân đội quốc gia Việt Nam, thời gian thụ huấn là 1 năm. Sang thời Đệ I Cộng hòa Việt Nam, chính phủ Ngô Đình Diệm cải tổ lại và kể từ ngày 29 tháng 7 năm 1959 theo nghị định của Bộ Quốc phòng đổi tên thành Trường Võ bị Quốc gia Việt Nam với nhiệm vụ huấn luyện sĩ quan hiện dịch cho ba binh chủng: hải quân, lục quân, và không quân cho Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Chương trình thụ huần là 2 năm, sau tăng lên 3 năm.

Ngòai ra các Trung Tâm Huyấn Luyện Không Quân Nha Trang, Trung Tâm Huấn Luyên Hải Quân Nha Trang v.v … cũng được nâng cao trình độ kiến thức để đào tạo các sĩ quan có khả năng cho hai ngành Không Quân và Hải Quân cho quân lực VNCH. Ai muốn vào 2 binh chủng này phải có bằng Tú Tài và phải qua một kỳ thi tuyển.

3/ Về Giáo Dục: Việt Hóa Trung Học và Đại Học, Thành lập thêm Đại Học Huế.

Trước khi ông Diệm về nước, chỉ có mỗi một Viện Đại Học đó là Viện Đại Học Hà Nội. Sau năm 1954 được di chuyển vào Nam. Không những trường Đại Học mà hầu hết các trường  Trung Học ở miền Nam lúc bấy giờ vẫn còn giảng dậy bằng Pháp Ngữ. Tới khi Thủ Tướng Diệm về nước chấp chính, nền giáo dục được cải tổ và Việt Ngữ được dùng để giảng dậy không những ở cấp Tiểu Học mà cả ở cấp Trung Học. Riêng cấp Đại Học thì vì vấn để thiếu giảng viên Việt Ngữ nên được Việt hóa dần dần.

Chỉ 2 năm sau ngày nền Đệ I Cộng Hoà được thành lập, nhiều trường trung và tiểu học đã được thành lập thêm. Số học sinh trung học đã tăng lên 40% và số học sinh tiểu học đã tăng lên 60%. Trường Quốc Gia Nông Lâm Súc thành lập năm 1955, sau đổi thành trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc. Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ, sau đổi thành Đai Học Kỹ Thuật Phú Thọ và Viện Đại Học Huế cũng được thàng lập vào năm 1957.

4/ Về Nông nghiệp: Thành lập Khu Trù Mật, Hữu Sản Hóa Nông Dân.

Phong trào Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc của Cộng Sản dùng biện pháp đấu tố, tra tấn dã man và chém giết địa chủ để cướp đất của họ, nhằm tiêu diệt giới điền chủ và bần cùng hóa người dân, khiến cả trăm ngàn người dân vô tội bị chết chỉ vì họ có vài ba mẫu ruộng. Trái lại, chương trình Cải Cách Điền Địa ở miền Nam do Tổng Thống Ngô Đình Diệm thực hiện nhằm hữu sản hóa nông dân. Đối với điền chủ, Tổng thống Ngô Đình Diệm chỉ thị cho các viên chức địa phương trả tiền mua số đất vượt quá giới hạn một cách thỏa đáng, chứ không tịch thu, đấu tố như miền Bắc. Chương trình này bị gián đoạn vì biến cố 1/11/63 và được tiếp tục vào những năm 1971, 1972, 1973 (7).

Tổng Thống Diệm còn cho thành lập khu Trù Mật, khu Dinh Điền, thi hành Quốc Sách Ấp Chiến Lược và phát động Phong Trào Tố Cộng, Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng đã ra bản Tuyên Cáo vào ngày 17 tháng 4 năm 1963 mở đầu chiến dịch Chiêu Hồi khiến cho Cộng Sản miền Bắc lo sợ.

5/ Về Kinh Tế và kỹ nghệ.

“Kế hoạch 5 năm” đầu tiên từ 57-61 được thực hiện để kỹ nghệ hoá đất nước đã làm gia tăng sự sản xuất lúa gạo và cao su. Khu Kỹ Nghệ Biên Hoà được thành lập. Nhiều nhà máy dệt, nhà máy giấy, nhà máy đường, nhà máy ván ép v.v… được xây cất và các viện bào chế dược phẩm được thành lập. Đường xe lửa xuyên Việt được tái lập.

6/ Cải tạo xã hội: Bãi bỏ chế độ đa thê, Bài trừ tệ đoan xã hội.

Năm 1961 luật Gia Đình được bàn hành, chế độ đa thê bị bãi bỏ. Các tệ đoan xã hội như cờ bạc, hút sách v.v… bị bài trừ khiến xã hội trở nên lành mạnh. Các Trung Tâm Hướng Nghiệp, Trại Giáo Hóa Thủ Đức được thành lập để đưa các thanh niên, thiếu nữ lầm đường, lạc lối trở lại đời sống bình thường. Đời sống kinh tế của người dân miền Nam ổn định và sung túc không như người dân miền Bắc phải sống dưới chế độ hộ khẩu, tem phiếu. 

7/ Về Tài Chánh: Thành lập Ngân Hàng Quốc Gia và Viện Hối Đoái.

Ngày 3/12/1954, Thủ Tướng Diệm ký sắc lệnh thành lập Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam một cách gấp rút để có thể hoạt động từ 1/1/1955, khi Hoa Kỳ viện trợ trực tiếp cho Việt Nam và Viện Hối Đoái để phụ trách các giao dịch về ngoại tệ.

III/ Những nguyên do đưa tới sự xụp đổ của nền Đệ I Cộng Hòa.

Có thể nói, kể từ khi Nhật đầu hàng và trao trả độc lập cho Việt Nam cho tới bây giờ, chưa có một TT, một Quốc Trưởng hay một Chủ Tịch nước nào đạo đức và liêm khiết bằng TT Ngô Đình Diệm. Và cũng kể từ khi Việt Nam được độc lập tới nay, cũng chưa có chính phủ nào thực hiện được những thành quả tốt đẹp cho quốc gia dân tộc như chính phủ Ngô Đình Diệm.

Ngòai những thành qủa trên, cụ Diệm còn cho  phát động Phong Trào Tố Cộng khiến cho Cộng Sản miền Bắc lo sợ. Vào "Tháng 5 năm 1959 Việt Cộng đã mở ra đường mòn Hổ Chí Minh và gửi vào miền Nam hàng ngàn lính và vô số chiến cụ với mục đích lật đổ chính phủ trong Nam. Và ngày 5/9/1960, Hà Nội đã phải họp đại hội đảng lần thứ 3 trong 5 ngày liên tiếp để tìm biện pháp đối phó. Vào ngày 20/12/1960 Cộng Sản miền Bắc quyết định thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để lừa gạt thế giới, và bắt đầu mở những mặt trận lớn để quyết chiếm miền Nam (8).

Vậy mà một số trí thức miền Nam cũng như một số đảng phái quốc gia đã không ý thức được vấn đề mà còn vì bất mãn cá nhân, vì quyên lợi riêng của đảng, đã lợi dụng quyền tự do báo chí và ngôn luận để, chỉ trích và chống đối chính quyền Ngô Đình Diệm. Thêm vào đó, một số tu sĩ thân Cộng còn dựng chuyện kỳ thị tôn giáo khiến không những một số người miền Nam lầm tưởng chế độ Ngô Đình Diệm là một chế độ độc tài, gia đình trị, tàn ác, tham nhũng, thối nát, kỳ thị tôn giáo. Có kẻ còn cho rằng TT Ngô Đình Diệm có ý định dâng miền Nam cho CSVN vì đã để cố vấn Ngô Đình Nhu tiếp xúc với Phạm Hùng (9), mà ngay cả người Mỹ cũng nghĩ rằng chính phủ Ngô Đình Diệm không còn được lòng dân và cũng không còn đủ khả năng chống Cộng nên đã cấu kết với một số tướng lãnh vô ý thức và vô kỷ luật tìm cách lật đổ TT Ngô Đình Diệm hầu có thể đem quân Mỹ vào VN tự tung tự tác.

Kết luận.

Về nước trong trong tình thế nhiễu nhương, đầy khó khăn, vậy mà ông đã ổn định được miền Nam, thu hồi được chủ quyền từ tay người Pháp và lập lên nền Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam. Với một thể chế dân chủ tuy không được hoàn hảo như các nước tân tiến tây phương nhưng chính phủ Ngô Đình Diệm cũng đã đem lại cho người dân được hưởng một cuộc sống tự do dân chủ, no ấm và một nền giáo dục tốt đẹp, có tính cách dân tộc, nhân bản và khai phóng. Trong khi đó, miền Bắc, cho tới năm 1975  người dân vẫn còn phải sống dưới chế độ ngu dân, độc tài và đói khổ.

 Có thể nói, kể từ khi Nhật đầu hàng và trao trả độc lập cho Việt Nam cho tới bây giờ, chưa có một vị Tổng thống, Quốc Trưởng hay Chủ Tịch nước nào đạo đức, liêm khiết và hết lòng vì nước, vì dân bằng Tổng thống Ngô Đình Diệm. Và cũng kể từ khi Việt Nam được độc lập tới nay, cũng chưa có chính phủ nào thực hiện được những thành quả tốt đẹp cho quốc gia dân tộc như chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Có thể nói: Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người đã tái thiết miền Nam sau chiến tranh Việt Pháp 1946-1954, đã đưa miền Nam Việt Nam trở thành một quốc gia có một nền kinh tế tốt đẹp và một quân đội hùng mạnh. Còn ông Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam chì lo phá hoại, lo chiến tranh và lo khủng bố, giết hại đồng bào miền Nam vô tội.

Thử hỏi, sau khi nền đệ I Cộng Hòa Việt Nam xụp đổ, những chính trị gia miền Nam, những trí thức miền Nam thân Cộng cũng như bọn thân Cộng đội lốt tôn giáo đã làm được gì cho nhân dân miền Nam hay đã đưa miền Nam vào cảnh nhiễu nhương, mất an ninh và làm miền Nam sớm lọt vào tay Cộng Sản ?

Không phải chỉ có người Việt Nam chúng ta mới mới kính trọng Tổng Thống Diệm mà nhiều người ngọai quốc trong đó có Giáo Sư Sử Gia Edward Miller và Sử Gia Henry Fairbanks cũng phải cộng nhận ông là một người có hoài bão thực hiện một nhà nước được xây dựng trên những giá trị tốt đẹp nhất của Tây Phương và khôi phục những giá trị cổ truyền tốt đẹp (của Đông Phương) làm nền tảng cho phương thức canh tân xứ sở. Tổng Thống Tưởng Giới Thạch thì nói: Tôi khâm phục ông Ngô Đình Diệm. Ông xứng đáng là một lãnh tụ lớn của Á Châu. Một trăm năm nữa thì Việt Nam cũng không thể tìm được một người như Tổng Thống Ngô Đình Diệm” và Tổng Thống Eisenhower cũng phải công nhận ông là một người phi thường (He’s a miracle man). Phó TT Hoa Kỳ Johnson cũng đã ca ngợi rằng: "Tổng Thống Diệm là một Churchill của Á Châu...Lịch sử xếp ông ta như là một trong những vĩ nhân của thế kỷ 20".

 Từ ngày miền Nam xụp đổ người dân miền Nam đã nhận thức được ông Ngô Đình Diệm là người thế nào và đâu là nguyên do thực sự đưa đến sự xụp đổ của miền Nam, thì hầu như khắp nơi trên thế giới, nơi nào có đông người Việt tỵ nạn Cộng Sản cũng đều tổ chức Lễ Tưởng Niệm Tổng Thống Ngô Đình Diệm một cách trang nghiêm và long trọng vào tháng 11 hàng năm để tưởng nhớ công ơn của cố Tổng Thống Diệm.

 Những việc làm của Tổng Thống Diệm không phải là không có khuyết điểm và thiếu sót. Nhưng với những thành quả mà ông đã đạt được, dân tộc Việt Nam sẽ đời đời nhớ ơn ông. Rồi đây, khi đất nước Việt Nam thanh bình và chế độ Cộng Sản không còn, chắc chắn sẽ có những kỳ đài, những quảng trường, những trường học, những đại lộ mang tên NGÔ ĐÌNH DIỆM, để tưởng nhớ  vị tổng thổng đầu tiên của Việt Nam đã vị quốc vong thân.

 Để kết thúc bài này, tôi xin mượn mấy câu thơ sau đây cùa Tố Nguyên trong bài TƯỞNG NHỚ NGÔ TỔNG THỐNG:

Yêu nước thương dân lại nhớ Ngài,


            Bây giờ thiên hạ biết còn ai ?

            Một phường tôi tớ không đầu óc,

            Mấy kẻ đồng minh thiếu mắt tai.

            Đến lúc Đông Tây cần chí sĩ,

            Đang khi Nam Bắc ngóng nhân tài.

            Chao ôi ! Chúa định là như thế, 

            Đã giặc trong còn có giặc ngoài.

                                            *                           

Chú thích

            (1) Có người cho rằng câu : “Tôi chết hãy nối chí tôi” thực ra là: “Tôi chết hãy trả thù cho tôi” là không đúng. Cụ nói :”Tôi chết…” chứ cụ đâu có nói: “Nếu tôi bị giết hay bị ám hại… “ mà nói :” hãy trả thù cho tôi” ?

            (2) Tháng 11 năm 1953, Tướng Navarre (Pháp) mở cuộc hành quân Castor, đánh chiếm Điện Biên Phủ.

Hội nghị Genève khai mạc ngày 26 tháng 4 năm 1954 để bàn về vấn đề khôi phục hòa bình tại Triều Tiên và Đông Dương. Do vấn đề Triều Tiên không đạt được kết quả.

Một ngày sau khi Pháp để Điện Biên Phủ thất thủ, ngày 8 tháng 5 năm 1954Hội nghị Genève bắt đầu bàn về vấn đề Đông Dương. Sau hội nghị này, Pháp công nhận quyền tự do, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương trong đó có Việt Nam, chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương.

(3) Nhiều người lầm tưởng rằng TT Diệm là con bài của Mỹ, do Mỹ đưa về. Thực ra không phải vậy. Xin xem “Giải Mã Những Bí Ẩn Của Chiến Tranh Việt Nam” của tác giả Bùi Anh Trinh (Posted on Tháng Mười Một 11, 2013 bởi Báo TỔ QUỐC)

            (4) Lâm Lễ Trinh: Truất phế Bảo Đại và khai sinh Đệ I Cộng Hòa – Ký ức 50 năm sau.

(5).Sau kỳ thi ra trường, sinh viên trở thành công chức hạng A với ngạch trật Phó Đốc sự hạng 3 và được bộ Nội Vụ cử đi làm việc tại các quận, tỉnh tùy nhu cầu. Sinh viên mới ra trường được đề cử làm Phó Quận Trưởng (tại các quận) hay Trưởng Ty (tại Tòa Hành Chánh Tỉnh) hay Phó Tỉnh Trưởng (Tòa Hành Chánh Tỉnh) hoặc Chủ Sự, Chánh Sự Vụ, Giám Đốc tại các bộ. Tới thời đệ Nhị Cộng Hòa thì Học Viện Quốc Gia Hành Chánh có             thêm ban Cao Học. Chương trình học là hai năm dành cho sinh viên đã tốt nghiệp Đốc sự hoặc có bằng cử nhân các ngành về khoa học xã hội.

(6) Học trình lúc đầu tương đương với trường Cao Đẳng. Sinh viên mãn khóa được miễn thi nhập học vào trường Đại Học vì coi như đã hoàn tất bằng  Tài tòan phần.

Khóa học có những môn vũ khí, truyền tin, tác chiến. Lý thuyết được bổ túc với phần thực tập. Trường lấy Học viện West Point của Hoa Kỳ làm mẫu. Hai năm đầu chương trình học cho các sinh viên đều giống nhau. Bắt đầu từ năm thứ ba trở đi thì tách ra ba quân chủng riêng biệt, trong đó tỷ số 1/8 thuộc Không quân, 1/8 thuộc Hải quân và 6/8 thuộc Lục quân.

Đến năm 1966 thì ngang hàng với bằng Cử nhân Đại học, tương đương với các  trường võ bị quốc tế. Hai năm đầu sinh viên mang cấp trung sĩ, hai năm sau là chuẩn úy. Sinh viên học xong 4 năm thì tốt nghiệp với cấp thiếu úy. Năm 1970 trường cho tốt nghiệp 241 khóa sinh.

(7) Nhờ chính sách này mà sau khi cưỡng chiếm được miền Nam, Việt Cộng không còn lý do để phát động phong trào đấu tố và các điạ chũ miền Nam thoát được cảnh đấu tố dã man của Việt Cộng.

(8) Việt Cộng lấy cớ là chính phủ miền Nam đã không thi hành Hiệp Định Jeneve 1954, một Hiệp Định mà chính phủ Ngô Đình Diệm không hề ký kết.

(9) Ông Ngô Đình Nhu tiếp xúc với Việt Cộng (Phạm Hùng) nếu có, là để xem có thể tìm một giải pháp chấm dứt chiến tranh hay không chứ  không phải là để dâng miền Nam cho Việt Cộng như một số người đã xuyên tạc.


Lê Duy San

Không có nhận xét nào: