Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Năm, 20 tháng 10, 2022

TS Võ Hùng Anh và Sinh Hoạt Văn Hóa Paris - Đỗ Bình


TS Võ Hùng Anh mặc Áo Xanh

NGƯỜI VỀ CUỐI TRỜI
Paris vào thu, hàng cây bên đường những chiếc lá vàng xanh đỏ bay bay trong gió như đàn bướm lượn làm đường phố Paris thêm thơ mộng. Nhưng Paris hôm nay thoáng buồn vì vừa mất một người đã tha thiết với Con người và Văn hóa Paris dài hơn nửa thế kỷ. Để tiễn biệt TS Võ Hùng Anh, một người bạn cùng sinh hoạt chung văn hóa với ông ở Paris, nhà biên khảo cao niên, KS Đỗ Hữu Hứa đã viết lời chân tình: «Đời thật vô thường! sắc sắc , không không, có đó mất đó , có tụ có tan , có đến ,có đi, có sinh có tử ….nhưng không ai tránh khỏi ngậm ngùi buồn đau khi có thân nhân bạn bè vĩnh viễn ra đi không bao giờ trở lại …
<!>
Âu cũng là số mệnh . Người xưa có câu :
Thọ yểu mạc phi mệnh
Cùng thông cát hữu thì …

tạm dịch
Chết yểu sống lâu chi chẳng mạng
Vận cùng vận đạt đếu có thì».

Trong thời gian qua chúng ta đã tiễn đưa nhiều khuôn mặt thường xuyên và tích cực sinh hoạt trong Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN Paris: Phương Du BS Nguyễn Bá Hậu, Khuê Trai GS Vũ Quốc Thúc, GS Phạm Đình Liên, GS Nguyễn Quang Riệu, GS Trần Văn Thu, GS Hà Ngọc Bích, GS Mạnh Bích, Minh Châu GS Thái Hạc Oanh, Học giả Thái Văn Kiểm, Học giả Võ Thu Tịnh, Nhà Nghiên cứu Phật học Minh Nhật Phạm Văn Đức, TS Nguyễn Tân Phước, Hoài Việt TS Nguyễn Văn Hướng, Nhà văn Hồ Trường An, TS Võ Hùng Anh.

Vài Nét về Nhà văn hóa Võ Hùng Anh :

Ông sinh năm 1944 tại làng An Hội, tỉnh bến Tre. Quê quán Thôn Mỏ Cày, Nam Bến Tre.
Tiến sĩ Toán học Đại học Paris VI năm 1977. Thạc sĩ Công Nghệ Thông Tin Ứng Dụng vào Kỹ Nghệ&Xí Nghiệp ENSIE ‘L’École Nationale Supérieure d’Informatique pour L’industrie et Entreprise) Paris Evry năm 1979.
Đồng sáng lập Hội Ái Hữu Orsay Anthony và là trưởng ban báo chí thập niên 60.
Đồng sáng lập viên và tham gia vào ban biên tập Nguyệt San Ngày Mới Paris.
Thành viên Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN Paris.

Ban Biên tập cuốn Những Khuôn Mặt Văn Hóa VN Paris.

TS Võ Hùng Anh tính tình đôn hậu và giản dị, rất chân thành với bằng hữu. Dù xa quê hương đã lâu nhưng ông vẫn giữ được nét mộc mạc chân quê của người miệt vườn Miền Tây Nam Bộ.
Ông là thành viên trong CLB Văn Hóa VN Paris nên ở trong ban biên tập cuốn NhữngKhuôn Mặt Văn Hóa VN Paris và cuốn Những Khuôn Măt Văn Hóa VN Hải Ngoại. Cuốn đầu, sau hơn hai năm soạn thảo, sách được in ở Thụy Sĩ. Đến ngày nhận sách một số anh chị trong ban biệp tập đã qua Thụy Sĩ mấy ngày trước ở trong một tu viện thuộc Dòng Kín để kiểm lại sự in sách, gồm Nhà thơ Đỗ Bình, GS Trần Văn Cảnh, Nhà biên khảo Nguyễn Đức Tăng, TS Võ Hùng Anh, TS Nguyễn Thị Phượng Anh, BS Nguyễn Bá Linh, KS Lê Minh triết. Ở Thụy Sĩ chúng tôi được các vị Linh mục người Việt, và TS Nguyễn Hồng Lĩnh tiếp đãi rất nồng nhiệt.

Gặp lại Bạn cũ:

Nhân một buổi đại lễ, Gáo xứ VN Paris có mời vị Phó tế Vũ Thành An từ Mỹ sang đồng tế. Trong dịp này Nhạc sĩ Vũ Thành An muốn đến nhà thăm gia đình chúng tôi. Để chào đón người bạn cũ phương xa đến Paris, tôi mời một số bạn đến họp mặt tâm tình. Trrong số người hiện diện hôm nay quen biết cũ, ngoài chúng tôi còn có hai người bạn với nhạc sĩ thuở còn học trò, đó là Nhà Nghiên cứu, biên khảo Phật học Minh Nhật Phạm Văn Đức và TS Võ Hùng Anh. Trong lúc uống rượu khai vị, bỗng TS Võ Hùng Anh hỏi lớn:“ An, mày có nhớ tao không? Nhạc sĩ Vũ thành An ngơ ngác nhìn tôi chẳng hiểu gì, thì Nhà Ngiên cứu Phật học Minh Nhật liền hỏi“ Toi còn nhớ Moi không?“Bị hỏi dồn dập, tôi biết là nhạc sĩ Vũ Thành An hiểu lầm nên lên tiếng liền:“ Hai ông này là bạn cùng lớp thời trung học, sau đó đi du học, hơn nửa thế kỷ mới gặp nhau làm sao nhớ được!“

Lúc đó nhạc sĩ Vũ Thành An mới cười và vỗ trán cố nhớ hai người bạn năm xưa đã ngoài tuổi cổ lai hy! Sau khi nhận ra nhau không khí trong phòng vui nhộn, nhất là TS Võ Hùng Anh, Nhà nghiên cứu Phật học Minh Nhật và Nhạc sĩ Vũ Thành An xúm xít hỏi han, pha trò dí dỏm y như thuở học trò.

Tôi cũng đã gặp cảnh này trong một sinh hoạt văn học khi Nhà thơ Du Tử Lê lần đầu đến Paris ra mắt tác phẩm“ Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu“ đã gặp lại người bạn thuở trung học là TS Võ Hùng Anh. Trong hội trường mọi người đều dùng ngôn ngữ kính trọng khi tiếp xúc với nhà thơ Du Tử Lê, duy chỉ có TS Võ Hùng Anh và Nhà thơ Du Tử Lê là tỏ ra thân mật cười nói với nhau xưng hô mày tao.

Trong ngôn ngữ Pháp Đại danh từ nhân danh „“toi, moi“ là ngôn ngữ thân mật dùng trong gia đình, ý nghĩ tùy theo vị thế của những người trong gia đình, hoặc dành cho những người bạn thật thân. Có lẽ cách xưng hô mày tao ở đây cũng mang ý nghĩa đó, thể hiện tình thân mật của một thuở còn còn đi học ngày xưa, mà ở xứ người lâu ngàykhông có dịpdùng.

Tôi giới thiệu vài nét về Nhạc sĩ. Tiếp theo Nhạc sĩ Vũ Thành An với gương mặt trong sáng, ánh mắt hiền hậu, giọng nói trầm ấm và khiêm tốn gửi lời tâm tình: "Không biết phải dùng chữ gì để diễn tả sự đón tiếp ân cần này. Nhưng được tham dự buổi họp mặt hôm nay với các anh chị, An có cảm giác đặc biệt lắm nên rất là xúc động cảm thấy văn hóa văn nghệ thật là cần thiết. Bởi vì những sinh hoạt văn nghệ cùng nhau ca hát, An đã từ giã nó lâu lắm từ 20 năm rồi. Năm 1995 An ra một CD là "Tình Ơi Giã Biệt", chấm dứt một đoạn đời để đi sang một đoạn đời mới, mình dùng cuộc đời của mình để toàn tâm toàn ý phục vụ cho lý tưởng về tôn giáo mà mình tự tìm thấy khi mình mất hết tất cả. Trong suốt mười năm của người tù, không những mất tất cả về vật chất lẫn tinh thần, mất luôn cả hy vọng. Sống trong tình trạng tuyệt vọng như một cái xác mà phải tồn tại, ở khoảng tối tăm đó thì mình tìm thấy lý tưởng tôn giáo giải thoát. Khi biết mình có thể đi học để làm Phó tế của đạo Công giáo thì mình dứt khoát cuộc đời cũ để làm một cuộc đời mới…".

Sau đó nhạc sĩ Vũ Thành An hát cho nghe bài Đời Đá Vàng và giải thích ca khúc là một tâm tình của tác giả trải dài mấy mươi năm, từ trước năm 1975 và sau này qua nhiều giai đoạn biến đổi của cuộc đời. Đỗ Bình và Lê Như Quốc Khánh đệm đàn. Sau cùng Vũ Thành An hát và tâm tình về Những Bài Không Tên, những bản tình ca vang bóng một thời… Nhạc sĩ Lê Như Quốc Khánh trình bày kế tiếp tình khúc Bài Không Tên Số Bảy và Nhạc sĩ Đình Đại với bài Anh Đến Thăm Em Đêm Ba Mươi, của Vũ Thành An, thơ Nguyễn Đình Toàn.
Vì bận việc nên xin về sớm, trước khi từ giã, nhạc sĩ Vũ Thành An hát thêm một sáng tác mới: Hạt Giống Tình. Theo nhạc sĩ, ca khúc không hoàn toàn là bài tình ca về đôi lứa nhưng nó cũng có tình yêu tôn giáo, lấy cảm hứng từ câu thơ của Thi sĩ Đỗ Vẫn Trọn: "Mối tình đầu là hạt giống trăm năm":

"Ai có hỏi xin người hãy nói mối tình đầu là hạt giống trăm năm. Hạt giống tình rơi trên đất tốt sẽ nở tươi thành đóa thi ca. Hạt giống tình ươm trong lòng tôi kết tinh thành một khối long lanh. Bạt sóng xô tình về cuối trùng dương. Lời hát si tình vọng tới mười phương. Nhớ ôi vô cùng làm sao người biết, nỗi đau êm đềm quặn thắt trái tim. Gió đâu rồi hởi gió bâng khuâng. Thắp cùng người ngọn nến thơm hương. Tôi yêu người thiên thu vĩnh viễn. Xin được gặp chốn ấy bình yên".

Sinh Hoạt Hội Thảo của CLB VHVNParis

Do tính bộc trực nên trên hai mươi năm sinh hoạt trong Câu Lạc Bộ Văn Hóa Paris TS Võ Hùng Anh và BS Nguyễn Bá Linh thường được giao điều khiển những buổi hội thảo tranh luận những đề tài về Triết lý, Tâm linh, Văn chương, Nghệ thuật hay Khoa học. Ông có nhiệm vụ giữ đúng thời lượng quy định của ban tổ chức dành cho mỗi người phát biểu. Chính sự thẳn thắn của ông, cộng thêm lại ở Pháp lâu ngày nên ông đã quen tính tôn trọng thơì gian quy định, do đó ông đã cắt ngang những lời phát biểu qúa giờ.

Trong một buổi thảo luận về đề tài : Ý Nghĩa Cuộc Sống Loài Người, do Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN Paris tổ chức uy tụ nhiều khuôn mặt trí thức Paris như : GS Vũ Quốc Thúc, GS Lê Mộng Nguyên, GS Phạm Đình Liên, GS Nguyễn Quang Riệu, GS Trần Văn Cảnh, GS Nguyễn Bảo Hưng, GS Trịnh Khải, Linh Mục Nguyễn Văn Hội, Linh Mục Ngô Đình Sỹ, BS Nguyễn Bá Hậu, BS Nguyễn Bá Linh, BS Phan Khắc Tường, TS Nguyễn Văn Hướng, TS Nguyễn Tấn Phước, TS Võ Hùng Anh, TS Từ Thu Hương, Nhà Biên khảo Nguyễn Đức Tăng, Nhà Biên khảo Mỹ PhướcNguyễn Thanh, Nhà Nghiên cứu Phật học Minh Nhật, Nhà văn Hồ Trường An,Nhà văn Từ Trì, Nhà thơ Đỗ Bình, Nhà thơ Quỳnh Liên, nhà thơ Nguyễn Mây thu, Nhà báo Kim Long….

Câu hỏi mở đầu :
"Theo những tài liệu được ghi lại trong sách, trái đất được hình thành từ Tinh Vân Mặt Trời cho đến nay khoảng 4,54 tỷ năm. Con người xuất hiện trên trái đất khoảng từ 250.000 năm, nhưng Ai sinh ra ta con người?"
BS Nguyễn Bá Hậu xin phát biểu:
"Theo tôi đây là một đề tài rộng lớn. Con người là một thành phần của vũ trụ. Muốn biết ai sinh ra ta thì ta phải biết ai tạo dựng ra vũ trụ hay là vũ trụ được tạo dựng như thế nào?... Và mọi sự xảy ra trong vũ trụ đều là huyền bí... Những người theo Thiên Chúa giáo nhờ có Thánh kinh mà biết được nguyên nhân làm ra những điều huyền bí về việc tạo dựng vũ trụ..."

(Sách Sáng Thế- Genèse).

Giáo sư Trịnh Khải giải thích rằng:
"Theo Hippocrate le Grand (460-370 trước J-C): Từ lúc sinh ra, con người chúng ta lúc nào cũng có thể nhiễm mọi thứ bệnh. Và bệnh tật là con đường hay phương tiện dẫn đến cái chết. Trong lúc học hỏi hay mong chờ sự giúp đỡ bên ngoài, con người thật vô dụng. Trong lúc đang lớn, nó vừa yếu vừa thiếu đức hiền". Theo Blaise Pascal (1623-1662): Nếu có Trời, Người sẽ vô cùng tận không thể hiểu được đối với kẻ phàm tục. Vì không thể đo lường, không có kích thước, Người không có dính dáng gì đến chúng ta. Chúng ta không có khả năng để biết Người là thế nào, kể cả Người có thật không. Sự thật là thế, ai có thể giải quyết câu hỏi trên? Chắc chắn không phải chúng ta vì chúng ta phàm tục chẳng có bang giao gì với Người. Đức Phật lại nói rằng: "Tất cả sinh đều đi đến tử" từ vạn vật cho đến các ngôi sao sáng trên vòm trời rồi cũng sẽ tan rã. Và "Trong sự sinh, sống, lão, tử của con người không có thánh thần nào can dự vào... .".

BS Nguyễn Bá Hậu đáp lời Giáo sư Trịnh Khải:
"Quan niệm về Phật học khác với Công Giáo. Theo Công giáo con người ta có hai phần là phần xác và phần hồn. Nói về đau khổ, phần xác không lâu dài chỉ có trên 80 năm là hết, còn phần hồn là vĩnh cữu. Vậy con người ta sống ở đời này đều tạm bợ cả. Tạm bợ để thử thách xem giá trị của linh hồn mình ra sao. Muốn thử thách phải có đau khổ. Có đau khổ mà mình thắng được, giữ cho linh hồn trong sạch thì mới được vinh quang đời sau".

Có nhiều người hỏi tôi rằng:
"Nếu Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa thì tại sao ta không nhìn thấy mặt Thiên Chúa, làm thế nào mà tin được?".
Nhà thần học TS Nguyễn Tấn Phước cho rằng:
"Tại sao ta không thấy Thiên Chúa nhưng ta lại tin Ngài? Tất cả những điều đó qui tụ trong sách Sáng Thế, khi xưa trong Vườn Địa Đàng, Thiên Chúa đối với ông Adong và bà Evà như trong một gia đình, nhưng từ khi có tội tổ tông và tội bất phục tùng. Tổ tiên ta đã bị kết án bởi nguyên tội và tội lỗi ban đầu dẫn đến bị tước đoạt con người nhìn thấy Thiên Chúa. Tại sao có đau khổ? Vì tội lỗi ban đầu mà Thiên Chúa lên án con người. Người đàn ông phải chịu đau khổ để tồn tại và người phụ nữ phải chịu đau khổ để sinh con, chia sẻ giữa các thế hệ, tội lỗi được truyền đạt cho nhân loại. Sự đau khổ theo loài người cho tới chết tất nhiên luôn luôn một mình. Tất cả mọi người được sinh ra một mình, chịu đựng một mình và chết trong cô đơn ...".

TS Từ Thu Hương góp một vài cảm nghĩ về ý nghĩa cuộc sống của những người ngoại đạo: "Không theo một tôn giáo nào, chỉ tự tạo cho mình một ý nghĩa riêng biệt mà họ cho là phù hợp với nếp sống của họ như đại đa số người tích cực đóng góp vào công cuộc xây dựng hạnh phúc gia đình; những nhà từ thiện tìm kiếm phương tiện để trợ cấp, cứu giúp người nghèo đói khổ đau; giới y dược chữa trị bệnh nhân, khảo cứu y khoa để khắc phục các chứng bệnh nan y... Rất nhiều trường hợp của biết bao người theo đuổi những ý nghĩa tốt đẹp ở trên đời tựu chung là đi tới lòng thương yêu gia đình, đồng loại... Ngược lại, cũng có những người theo đuổi ý nghĩa đời sống của họ trong những ước muốn xấu xa như tham lam vật chất, chiếm đoạt của cải... Trường hợp của nhà thơ Charles Baudelaire (1821-1867) chọn sự sống sa đọa đam mê tửu sắc diễn tả trong tập thơ "Les Fleurs du Mal". Theo Baudelaire, trong thâm tâm của mỗi người lúc nào cũng có sự hiện hữu của hai đòi hỏi trái ngược: sống khắc khổ lành mạnh theo điều răn của Thiên Chúa hay sống dễ dàng trong lạc thú tội lỗi như quỉ Satan. Đời sống của nhà thơ này bị ray rứt giữa an lạc tâm hồn và khổ đau nhức nhối. Rút cục ông bị rơi vào con đường sa ngã bùn lầy vì ông chỉ thấy cái đẹp trong sự đồi trụy...".

Linh mục Nguyễn Văn Hội thuật lại một buổi nói chuyện trao đổi với một vị tu hành Phật giáo và sau khi xem một vài quyển sách liên quan đến Phật giáo đã có đôi dòng suy tư về ý nghĩa của hoa sen cùng việc giải thoát của con người. Linh mục phát biểu:
"...Sen mọc lên từ bùn. Mà bùn thì hôi tanh, dơ bẩn. Thế nhưng dù trong bùn, sen cũng không bị nhiễm cái hôi tanh của bùn, trái lại sen vẫn đẹp rực rỡ thơm ngát. Theo giáo lý Phật giáo, điều hệ trọng để có thể giải thoát là ở việc hướng về Tâm, làm chủ được Tâm và chuyển hóa Tâm. Bởi vì Tâm là Phật. Mỗi người cần phải tự mình cố gắng vươn lên, tu luyện làm cho Phật tính nơi mình lớn dần lên từng ngày, để thoát khỏi những gì là "hôi tanh" của cuộc đời, của thân phận con người, giống như hoa sen vươn lên khỏi mặt nước thoát cảnh bùn nhơ để trở thành thơm tho, tinh khiết. Theo giáo lý Công giáo, việc giải thoát khởi đầu bằng việc Ngài xuống trần gian qua mầu nhiệm Nhập Thể, mang thân phận con người và sau khi chịu chết trên thập giá, Ngài đã lên trời về nơi vĩnh hằng nhưng điều đặc biệt là Ngài không lên một mình mà kéo theo mình tất cả những ai tin vào Ngài...".

TS Võ Hùng Anh phát biểu:
"Theo một tài liệu vừa thu thập: "Về căn bản tín ngưỡng tôn giáo, chúng ta không có cách nào có thể so sánh Phật Giáo với Kitô Giáo được. Lý do rất đơn giản, vì Phật Giáo là tôn giáo của trí tuệ, mà trí tuệ thì không thể tách rời “Lý Trí” [Reason]. Đại Học Vạn Hạnh trước đây có “motto”: ‘Duy Tuệ Thị Nghiệp’. Còn Kitô Giáo thì ai cũng biết đó là tôn giáo của “Đức Tin” [Faith]. Vậy thì trước hết chúng ta cần phải biết định nghĩa của Đức Tin và của Lý Trí. Theo H. L. Mencken thì “Đức tin có thể định nghĩa ngắn gọn như là một niềm tin phi lý vào những gì không chắc chắn xảy ra (Faith may be defined briefly as an illogical belief in the occurrence of the improbable.) Còn theo Tự Điển thì “Đức Tin là sự tin chắc vào một cái gì đó mà không chứng minh được cái đó có thực” [Faith is the firm belief in something for which there is no proof]. Trong tự điển có 2 định nghĩa của Lý Trí: “khả năng có những tư tưởng hợp lý, suy lý hoặc phân biệt” (The capacity of rational thought, inference, or discrimination), và “suy xét đúng, phán đoán hợp lý” (Good judgment, sound sense)”.

Nhà thơ Đỗ Bình:
"Trong Ý Nghĩa về Cuộc Sống của Loài Người, các vị đã nói đến Đức Tin, Cái Tâm; Phật Tính, và những người không theo một tôn giáo nào mà chỉ tự tạo cho mình một ý nghĩa riêng biệt phù hợp với nếp sống của họ, nhất là nói về ý nghĩa của hoa Sen, xin hỏi: Thế nào là Thiền?".
Giáo sư Trịnh Khải trả lời câu hỏi của nhà thơ Đỗ Bình:
"Nếu tìm hiểu đến tận nguồn gốc, ta có thể hiểu cuộc đời Đức Phật chia làm ba giai đoạn: Giai đoạn cuộc sống gia đình, giai đoạn đi tầm Đạo để tới tột đỉnh về Thiền Yoga, giai đoạn thứ ba nhờ nắm vững phương thức Thiền Yoga, Đức Phật tìm ra phương thức Thiền Đạo Phật để đi đến Niết Bàn rồi đến Giác Ngộ. Có hai lối Thiền là Hatha Yoga và Raja Yoga...".
Nhà thần học Nguyễn Tấn Phước cũng cho biết thêm có một lối Thiền của Nhật Bản là Thiền Tọa.

Tiếp theo là phần phát biểu của Giáo sư Nguyễn Quang Riệu. Giáo sư Nguyễn Quang Riệu, nguyên là Giám đốc Nghiên cứu danh dự Trung tâm Quốc gia nghiên cứu Khoa học Pháp (CNRS), Đài Thiên văn Paris. Chuyên gia về Thiên văn vô tuyến và các chất hữu cơ trong vũ trụ. Năm 1973, ông đã được giải thưởng của Viện hàn lâm khoa học Pháp cho công trình nghiên cứu Cygnus X3 trong chùm sao Thiên Nga (Cygnus), cách trái đất 30.000 năm ánh sáng. Ông còn là tác giả nhiều tác phẩm thiên văn học bằng Việt ngữ như: Vũ trụ-Phòng thí nghiệm thiên nhiên vĩ đại, Lang thang trên dải Ngân Hà, Sông Ngân khi tỏ khi mờ, Bầu trời tuổi thơ v.v.. Con Người Đối Mặt Với Vũ Trụ (l'Homme face au Cosmos). Giáo sư Nguyễn Quang Riệu bằng một giọng nói nhỏ nhẹ, trầm ấm:
"Tôi xin mượn mấy lời của nhà văn học Pháp Henri Poincaré: "La pensée n'est qu'un éclair au milieu d'une longue nuit. Mais c'est cet éclair qui est tout". Tôi tạm dịch: "Tư duy chỉ như một tia chớp trong cả một đêm dài. Nhưng chính tia chớp này là tất yếu". Dù tia chớp không có ý nghĩa gì cả nhưng chính là con đường mình phải đi còn thật dài. Không có tia chớp này thì nhân loại không tiến được. Ngoài mắt thường ta nhìn thấy, còn có những ánh sáng mà mắt ta chỉ nhìn thấy được một phần rất nhỏ trong phổ điện từ như: tia bức xạ gamma, quang tuyến X, tia tử ngoại ultraviolet, tia hồng ngoại infrarouge… được ứng dụng vào các ngành y tế, hóa học, vật lý, xây dựng, dầu khí, cơ khí v.v. Do đó, các nhà thiên văn phải làm ra kính thiên văn như: kính thiên văn quang học (optical téléscope), kính thiên văn radio (radio téléscope) hay ăng-ten ra-đa… để thu được các bức xạ vô tuyến và nhìn thấy được chi tiết các thiên thể trên trời. Khởi đầu Vũ trụ là một hạt cực kỳ nhỏ và nóng đặc, thuộc về một môi trường "chân không lượng tử" (vide quantique), khoảng chân không này không phải hoàn toàn trống rỗng mà là nơi có những hạt ảo (particules virtuelles) xuất hiện đột biến bất thường. Sự chuyển động trong chân không của những hạt ảo này sản sinh ra rất nhiều năng lượng để tạo nên một lực đẩy vô cùng mãnh liệt làm Vũ trụ bỗng phình ra khoảng 10-35 giây sau Vụ Nổ Lớn (Le Big Bang). Hiện tượng lạm phát (phénomène d'inflation) này chỉ kéo dài trong vòng 10-3 giây nhưng đã làm thể tích Vũ trụ tăng lên 1078 lần trong vòng một mili giây! Để so sánh, sau thời đại lạm phát, thể tích của Vũ trụ chỉ tăng lên có 109 lần trong suốt 13,82 tỷ năm tuổi. Sau khi Vụ Nổ Lớn diễn ra, nhiệt độ tăng lên vô cùng nóng tạo điều kiện cho electron bị tách ra khỏi hạt nguyên tử và khuếch tán photon (ánh sáng) ra tứ phía làm Vũ trụ nguyên thủy mờ đục. Phải đợi đến khoảng 400.000 năm sau, nhiệt độ nguội dần xuống tới khoảng 3.000 độ K, các electron lúc đó mới tái hợp được với ion và Vũ trụ không còn bị electron tự do khuếch tán nên trở thành trong sáng. Như vậy, giải thích sự hình thành và phát triển của Vũ trụ được tạo ra từ một Vụ Nổ Lớn. Những mô hình vũ trụ mô tả nguồn gốc và sự tiến hoá của Vũ trụ đã được xây dựng trên những kết quả quan sát thiên văn và những lý thuyết vật lý phức tạp. Sở dĩ những điều kiện tự nhiên trong Vũ trụ nguyên thủy được điều chỉnh tinh tế, nên có các nhà khoa học nảy ra ý kiến là có sự can thiệp của một thực thể tương tự như một Đấng Sáng tạo. Hiện tượng này tỏ ra thích hợp với tư tưởng của những tôn giáo độc thần, như Kitô giáo, Do thái giáo và Hồi giáo. Ngược lại, khái niệm sáng tạo không phù hợp với tư tưởng Phật giáo. Đạo Phật được coi là một tôn giáo không có Thượng đế, thậm chí chỉ là một thuyết triết học. Phật tử phải sống theo đạo lý của Phật giáo để được giác ngộ và thoát ra khỏi vòng luân hồi liên miên đầy đau khổ. Theo Phật giáo, Vũ trụ không có khởi điểm và cũng không có kết thúc. Tư tưởng này hoà hợp với thuyết đa vũ trụ, cho là có nhiều vũ trụ bong bóng vĩnh hằng và bất di bất dịch, không trải qua trạng thái nóng đặc của thuyết Vụ Nổ Lớn. Tuy nhiên, tín ngưỡng là lòng tin thâm thúy của mỗi người và không cần phải được biện hộ bằng những chứng cứ khoa học. Tôn giáo và khoa học đi theo những con đường song song với nhau mà không bao giờ gặp nhau".

Mỗi người mỗi ý nghĩ, tựu trung đều đưa ra nhiều thắc mắc, khoa học và tôn giáo có liên quan với nhau hay không?
GS Nguyễn Bảo Hưng phát biểu:
"Khoa học giải thích cho chúng ta biết sự hình thành và phát triển mà sinh ra mọi vạn vật nhưng hạt nhân do từ đâu ra? Tôn giáo và khoa học là hai con đường song song cùng nhau. Là một nhà nghiên cứu khoa học có bao giờ GS bước sang lĩnh vực tôn giáo để đặt vấn đề khoa học nghĩ rằng tôn giáo mang một dạng khác?". Giáo sư Nguyễn Quang Riệu trả lời: "Cái đó thuộc về lĩnh vực Neurologie để cho người ta nghiên cứu hoặc là tâm linh. Theo ý tôi, người Pháp nói: "L'Un n'empêche pas l'autre" tức là khi chọn khoa học thì cứ nghiêng về khoa học. Tôi cũng tin, cũng đi chùa chứ không phải là tôi phủ nhận. Người vô thần có thể là một nhà khoa học rất tốt hay ngược lại". Gs Trịnh Khải góp ý: "Phật giáo đặt căn bản trên hai chữ vô thủy và vô chung. Cho nên những cái gọi là chân lý tương đối không phải là chân lý tuyệt đối, cũng không phải là chân lý tối hậu. Đức Phật khuyên chúng ta con đường của người Phật tử là đừng tìm chuyện cao xa mà phải tìm hiểu những điều ta sống hằng ngày, sửa đổi, tu tâm, để chuyển cái nghiệp của cuộc đời mình theo luật nhân quả, nếu làm xấu trước sau cũng phải trả. Câu nói của Đức Phật rất đơn giản: "Tout se paye et tout est payé" (Đã mang nợ thì trước sau phải trả thôi). Cuộc đời của chúng ta nên sống như vậy".

Nhà thơ Phương Du Nguyễn Bá Hậu tiếp lời: "Quan niệm về nghiệp chướng tôn giáo nào cũng có cả, tức là làm ác thì gặp đau khổ, làm lành thì gặp hạnh phúc. Ngoài ra còn có sự huyền bí trong vũ trụ, các nhà khoa học chỉ nói con người ta có ký ức, tư tưởng, trí thông minh nhưng không nói do ở đâu mà ra. Nếu chỉ nói về vật chất, người ta sinh ra, sống rồi chết thì vô lý quá. Phần hồn cũng là quan trọng. Phần xác là tạm bợ, phần hồn là vĩnh cửu. Tại sao không nghiên cứu về đời sau?". GS Trần Văn Cảnh nêu ra nhiều câu hỏi: "Những khám phá về triết học cũng như về thần học, khoa học chưa đủ vì nó chỉ có hai khái niệm về không gian và thời gian. Ngoài ra còn có những cái khác, bước nhảy vọt vượt qua mà không dựa vào gì hết, nếu dựa vào biến đổi khoa học sơ đẳng thì Trang 70 có vật lý biến đổi theo chuyển động, có sinh lý biến đổi theo sinh đẻ, có hóa học tức là có những biến đổi theo phân tích và tổng hợp. Trong thế giới có những biến đổi này, thì ta thấy qua và hiểu được. Và các khái niệm về không gian và thời gian thì ta có hiểu được nhưng chưa giải thích hết được?".
GS Nguyễn Quang Riệu trả lời:
"Nhiều khi tôi tự hỏi không cần tìm hiểu xa xôi trước khi sinh ra mình là gì, khi chết mình ra sao? Có ai biết được không? Tôi thấy con người mình phải khiêm tốn thôi, không thể nào biết được hết. Các nhà khoa học giỏi đến đâu thì giỏi mà cũng không thể hiểu".
GS Trần Văn Cảnh:
"Tiến trình từ lúc có Vụ Nổ Lớn (Big Bang) cho đến bây giờ ta đang ở đây sau gần 14 tỷ năm có những giai đoạn tiến trình nào khác? Trong tương lai giả dụ có tiến triển nào chưa? Ước lượng giả sử những tiến trình trong tương lai, những điều đã biết và những điều còn đang trong giả thuyết?".
GS Nguyễn Quang Riệu trả lời:
"Điều mà các nhà thiên văn hiện giờ đã đánh giá vào độ tuổi của Vũ trụ là 13,7. Đó cũng là một khoảng sai hay đúng thì không biết, nhưng người ta công nhận là đúng. Khoa học tiến qua giai đoạn gọi là sai và đúng chứ không có tuyệt đối. Vấn đề nan giải bây giờ người ta muốn giải quyết là thuyết Big Bang có đúng không? Theo như ý thức chung chung của Einstein khi có một vật thể nào gây ra sự nổ thì nó phát ra một làn sóng gọi là sóng hấp dẫn làm cho không gian và thời gian cong như một làn sóng cảnh tượng như khi ta ném một vật gì xuống hồ. Vấn đề là làm thế nào để phát hiện ra làn sóng đó".

Thu Paris Hội Thảo Văn Học& Nghệ thuật :

Vào ngày 10 tháng 10 năm 2017 tại phòng Paris 13, một buổi hội thảo văn học nghệ thuật với chủ đề: Sự Bảo Tồn Văn Hóa Việt Nam tại Hải Ngoại do CLB Văn Hóa VN Paris tổ chức với sự tham dự của nhiều khuôn mặt quen thuộc trong giới trí thức người Việt ở Paris. Nguyễn Bá Linh và TS Võ Hùng Anh điều hợp chương trình. Tiếp theo GS Trần văn Thu giới thiệu cuốn sách bằng tiếng Pháp 8000 Năm Lịch Sử Việt Nam. Kế tiếp BS Nguyễn Bá Hậu là người cao niên phát biểu:
«Muốn giữ gìn văn hóa thì Sự Tam Sao Thất Bổn trong văn học nghệ thuật cũng cần được thảo luận». GS Trịnh Khải phát biểu: «Sau khi CS cưỡng chiếm VN, chữ khoa học Việt hoàn toàn ngưng trệ. Chúng ta nên giữ lại gốc «latin» các chữ khoa học (toán học, vật lý...... triết học ….xã hội học ...) như các nước văn minh : Mỹ, Pháp, Đức, Anh …..vv.... vì nếu muốn dịch thì phải thành lập một ban chuyên môn, chứ không thể chỉ dùng chữ Hán làm căn bản. Ví dụ: Ở ĐH Văn Khoa Saigon, có ông đã dịch: hữu thể = être thì không đúng theo Phật Đạo vì: ** hữu = có và thể = sắc (forme) ==> hữu thể = tất cả mọi vật nhìn thấy được. ** Theo philosophie occidentale: être = người và động vật (les humains et les êtres vivants) và les humains = étants (Heidegger). Vì lý do trên nếu tự mình chuyển ngữ bằng gốc Hán (ít ai hiểu) thì chỉ đem lại sự hiểu lầm mà thôi nhất là V/Đ tôn giáo (Ví dụ : xin xem lại 02 chữ: la réincarnation et la résurrection)».

Tiếp theo TS Âm nhạc Trương Quỳnh Hạnh phát biểu: «Về phương diện Nhạc Cổ Truyền Việt Nam chúng tôi nhận xét: Những ngón đàn độc đáo của Đàn Đáy trong Ca Trù và Đàn Bầu cần phải được bảo vệ và truyền lại cho các em học sinh, sinh viên ở các Nhạc Viện, những người yêu thích âm nhạc cổ truyền Việt Nam kể cả người ngoại quốc». GS Quỳnh Hạnh giải thích về Ngón Chùn và Thang Âm Sa Mạc, bà nói: «Đó là Ngón Chùn tạo nên đặc tính của Ca Trù và tạo nguồn cảm hứng vô tận cho nghệ sĩ ca cổ truyền, ngâm thơ, đọc thơ ». Bà nói tiếp: "Về phương diện kỹ thuật, trong âm nhạc quốc tế nói chung, nhạc cổ truyền Việt Nam nói riêng, thông thường các Ngón Nhấn có khuynh hướng đi lên, không bao giờ một Ngón Nhấn mà có cao độ bị chùng xuống. Thí dụ: Nốt Sol nhấn lên nốt La, nốt Do nhấn lên nốt Ré nhưng trong kỹ thuật Đàn Bầu và Đàn Đáy: Tạo ra một nốt Fa dùng điểm của nốt Sol. Đối với kỹ thuật Đặc Biệt của Tính Năng Nhạc Cổ Truyền: Khi Nhấn Chùng xuống là tạo được Ngón Chùng. Đặc Điểm của Ngón Trang 72 Chùng bắt chước ra được giọng người hát tuyệt vời, có sức quyến rũ khá mạnh mẽ thu hút được trái tim người nghe và tạo được nguồn cảm hứng vô tận cho người nghệ sĩ qua ngón đàn tài hoa của người nhạc sĩ. GS Quỳnh Hạnh nói thêm về Quảng Ba Trung Bình trong Ngâm Thơ Sa Mạc, trong Ca trù, và Các Cung Giọng Đọc Kinh Công Giáo.”

BS Nguyễn Bá Linh đặt câu hỏi:
“Đất nước Việt Nam chúng ta không có Sa Mạc thế sao Thư Mục Ca Nhạc Cổ Truyền lại có ngâm thơ Sa mạc?”.
GS Quỳnh Hạnh:
“Đó là do Việt Nam giao lưu với các nước Trung Cận Đông từ nhiều thế kỷ trước. Khi tôi trình bày và minh họa qua tiếng hát trong các conférences có rất nhiều người trong giới âm nhạc thuộc các quốc gia Trung Cận Đông, họ phát biểu: “Tôi nghe Bà trình bày làn điệu này sao giống làn điệu thang âm ở nước chúng tôi!”. Tôi trả lời: "Đặc Tính của Âm Nhạc: Quảng Ba Trung Bình tạo nên sự Nhớ Nhà, Tình Hoài Hương, nỗi Nhớ da diết cô đọng trong tim không nói ra cùng ai. Có thể làn điệu này ở các nước Trung Cận Đông đã có sự giao lưu văn hóa với Việt Nam từ nhiều thế kỷ trước, những làn điệu âm nhạc nào phù hợp với khiếu thẩm mỹ của dân tộc chúng tôi thì nó sẽ ở lại với chúng tôi mãi mãi”.
Nhà báo Hoài Châu Nguyễn Kim Long phát biểu:
“TS Quỳnh Hạnh đã khẳng định là ngâm thơ điệu SA MẠC ở Việt Nam chịu ảnh hưởng từ những giao lưu người Ả Rập đến từ vùng sa mạc Trang - Á, tôi không đồng ý với quan niệm này! Theo thiển ý của tôi: từ "sa mạc" chỉ là cách nói, không liên quan đến những cuộc giao dịch trong sa mạc của người Touaregs hay Berberes ở vùng Sahel châu Phi (Sahel hay Sahara = sa mạc) hay người Ả Rập Hồi giáo ở thế kỷ thứ VII cho đến thế kỷ XIII vùng bán đảo Saoudite; còn vùng Trung Á chỉ có sa mạc Gobi không có người qua lại! Thật ra chỉ có đoàn quân kỵ mã của Thành Cát Tư Hãn và Hốt Tất Liệt người Mông Cổ là qua lại. Đó là thời kỳ nhà Nguyên cai trị Trung Hoa và thua trận ở VN khi họ tính thôn tính Đại Việt nước ta. Đây cũng là thời kỳ mà đoàn quân Mông Cổ đã theo con đường Tơ Lụa trong cuộc viễn chinh ở thế kỷ XIII. Như vậy, lời ngâm "sa mạc" chỉ là lối phân loại trong ngôn ngữ ở Bắc, cũng như điệu "Bồng mạc", tức lối "lẩy Kiều", cộng với hai lối ngâm khác là Ru Hát và Ru Nói. Như vậy, tôi xin thưa theo kiến thức thường tình-- như một người không rành âm nhạc cổ truyền VN -- là điệu sa mạc không có ảnh hưởng Ả Rập. Nhạc là một ngôn ngữ đại đồng. Có khi tôi nghe người Hung Gia Lợi, Basques, Lapons, hay Celtiques thổi kèn tù và thì tôi tưởng giống nhạc trỗi lên trong đám tang cha tôi ở miền Nam Trung Việt thuở nào».

Nhà thơ Đỗ Bình góp ý
: «Trong Tự Điển Hán Việt định nghĩa từ Sa Mạc như quý bác và anh chị đã biết, riêng Tự Điển Việt Nam còn ghi thêm: Làn điệu Sa Mạc. Ở Paris mấy chục năm về trước những nghệ sĩ ngâm thơ rất hiếm, nhất là điệu Ca Trù, Ngâm Sa Mạc. Về ngâm Ca Trù chỉ có GS TS Trần Văn Khê, GS nghệ sĩ Bích Thuận, nghệ sĩ Diệu Khánh. Còn ngâm Sa Mạc Khá nhiều: GS Trần văn Khê, Đặng Trần Vận, Bích Thuận, Diệu Khánh, Anh Trần, Linh Chi, Mỹ Hòa, Thụy Khanh, Thúy Hằng, Thụy Hương, GS Phương Oanh, GS Trần Quang Hải, Đỗ Bình, Ngân Đoài. Những nghệ sĩ đến Paris sau: GS Quỳnh Hạnh, GS NguyễnThanh Vân. Ngâm theo điệu Sa Mạc phải theo Trang 73 luật. Tất cả chữ cuối của câu thơ bằng dấu huyền thì phải ngâm ở nốt Do. Còn chữ cuối của câu thơ bằng không dấu thì ngâm ở nốt Mi trung (tierce neutre), có nghĩa là quãng ba ở chính giữa hai quãng ba thứ (tierce mineure) và quãng ba trưởng (tierce majeure)».

TS Võ Hùng Anh phát biểu:
«Tôi xin góp thêm chi tiết về Làn Điệu Sa Mạc. Trong cuốn Hồi Ký của GS Trần Văn Khê có ghi về Làn điệu Sa Mạc, tôi xin kể trích đoạn»: Trong cuốn Hồi Ký Trần Văn Khê, tôi xin trích đoạn kể: « Điệu sa mạc của Việt Nam gần với điệu Sêgah của Ba Tư và Sikah của Á Rập. Lần bắt đầu nghiên cứu nhạc Ba Tư trên thực địa tôi mang theo cây đờn tranh và đã xin gặp ông Hormozi, một nghệ nhân chuyên đàn sêtar, loại đàn nhỏ bốn dây của Ba Tư. Tôi đờn cho ông ấy nghe, khi đàn sang hơi Sa mạc, ông ngạc nhiên nhận xét: «Hơi này tôi nghe giống điệu Sêgah của chúng tôi quá! ». Sau đó ông lấy đàn ra biểu diễn điệu Sêgah. Ðàn xong ông hỏi: - “Anh có thấy hai điệu giống nhau không?” - Tôi trả lời: “Đúng, đặc biệt trong đoạn kết có chỗ giống nhau là cùng có một quãng ba trung bình giữa thứ và trưởng mà chữ kết nhấn vào bực trên của quãng ba đó”. Ông nói: - “Phải rồi, trong truyền thống nhạc Ba Tư chúng tôi gọi là quãng ba Zalzal, vì từ thế kỷ thứ 8 Zalzal là người dùng quãng ba đó trước nhứt. Vì vậy khi nghe Sa mạc tôi xúc động quá vì trong đó có nhiều quãng ba Zalzal mà trong nhạc Ba Tư vẫn được dùng để diễn tả nỗi day dứt, mong chờ”.

BS Nguyễn Bá Hậu phát biểu:
“Nghệ thuật thì vô tận, còn Văn chương Việt Nam có nhiều tam sao thất bản nói ra hàng ngày không hết cho nên hôm nay tôi chỉ chú trọng đề cập đến vài ba khía cạnh sau đây: Tam sao thất bản trong tục ngữ ca dao, loại văn chương này được phổ biến bằng lời truyền tụng cho nhau, nhất là dưới hình thức ca hát làm cho dân chúng quá say mê về điệu hát nên ít để ý đến ý nghĩa của lời ca. Vì thế mà có sự nhớ sai một vài danh từ nên ý nghĩa vô tình bị thay đổi: Về ca dao bài người đi cấy: “Người ta đi cấy lấy công Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề. Trông trời trông đất trông mây, Trông mưa trông gió trông ngày trông đêm. Trông cho chân cứng đá mềm, Trời trong biển lặng mới yên tấm lòng”. Bài này được in ở trong sách giáo khoa Việt Nam Văn Học Sử Yếu, quyển một của Dương Quảng Hàm. Về vần điệu cước vận ở câu hai (bề) không vần với cước vận của câu ba (mây). Sự lạc vận này làm mất giá trị nhạc tính của bài thơ. Ta có thể dùng danh từ (bầy) thay thế cho chữ (bề) vì ở nước ta cũng có nơi gọi bề tôi là bầy tôi cho nên tác giả bài thơ này có thể là người địa phương dùng danh từ bầy tôi. Về ý nghĩa chân cứng đá mềm không biết ý tác giả nói về người đi cấy hay là cây lúa. Nói về cây lúa có lẽ đúng hơn, thân cây lúa có cứng có mạnh thì mới mang Trang 74 được phần trên là lá lúa mà cây lúa có tươi đẹp thì lá mới mềm, nếu thân cây lúa yếu thì lá sẽ rủ xuống đi đến thối nát. Nhà biên khảo Nguyễn Đức Tăng phát biểu: “Theo tôi chữ Bề và Bầy trong bài ca dao Người Cây Lúa ý nghĩa khác nhau: Bề: khoảng cách giữa hai mặt đối nhau của một hình. Thí dụ: Bề mặt, Bề dầy. Còn có ý nghĩa khác diễn tả khía cạnh phương diện của sự vật. Người ta thường bảo: Khổ cực trăm bề. Bốn bề lạnh ngắt. Trong khi đó Bầy: có nghĩa là đám đông động vật cùng loài sống với nhau. Thí dụ: Bầy Chim, bầy gia súc. Từ Bầy khi nói về Người chỉ đám đông, đôi khi hàm ý khinh bỉ: Thí dụ: Một bầy tham nhũng. Từ Bầy tôi và Bề tôi đồng nghĩa: Chỉ người ở cương vị thấp, làm tôi thời quân chủ. Còn hai chữ Sa mạc thì tôi hiểu theo nghĩa là làn điệu ca du dương, êm đềm, lời theo thể Lục Bát, như ca Huế có điệu Nam Ai, Nam Bình, và trong kinh của Cao Đài giáo thường tụng theo giọng điệu Nam Xuân, Nam Ai, hay Đảo ngũ cung”. Nhà thơ nữ Từ Thạch góp ý: «Tôi xin góp ý: Tư tưởng trong bài nầy là nói lên ý chí của con người. Bài ca dao có hai nhân vật: Người Ta và Tôi. ‘Tôi’ trong bài là chủ điền có ruộng nên phải chú tâm đến việc này qua nhiều khía cạnh để đem tới sự thành công. Câu: «Trông...Trông…» dùng điệp ngữ chín lần để chỉ sự kiên nhẫn nhưng vẫn phải cảnh giác trong mọi trường hợp của thời tiết. Bài Câu Chân cứng đá mềm: nói lên nghị lực. Bài Ca dao gồm nhiều hình ảnh trong đó có: trời đất, con người (người cấy lúa), đá (núi), gió, mây, mưa. Cảnh, vật và người hòa nhau nhịp nhàng thành một bức tranh sơn thủy linh động. Bài Ca dao như một lời nhắc nhở, muốn nung đúc cho mọi người Việt Nam phải có lòng tin ở chính mình, cố gắng sẽ nên việc».

GS Trần Văn Cảnh góp ý:
“Tiếp lời BS Nguyễn Bá Hậu liên quan đến vấn đề «Tam sao thất bản trong tục ngữ ca dao », tôi xin góp vài ý tưởng vừa nhìn thấy. Tôi đồng ý với Bs Nguyễn Bá Hậu rằng về vần điệu cước vận ở câu hai (bề) không vần với cước vận của câu ba (mây)”. Nhưng bảo rằng “Sự lạc vận này làm mất giá trị nhạc tính của bài thơ. Ta có thể dùng danh từ (bầy) thay thế cho chữ (bề) vì ở nước ta cũng có nơi gọi bề tôi là bầy tôi”, thì tôi e rằng Bs Hậu hơi quá khắt khe và vội vã; Vì rằng, theo mạch văn, thì dường như chữ “bề” đã được tác giả ý thức và chủ ý chọn dùng, dẫu lạc vận, để tạo một hòa âm nghịch, làm đổi nhạc điệu, làm tăng nhạc tính và thu hút người nghe và người đọc hơn. Chữ Bề là một chữ thuần túy việt nam. Chữ Bề có nhiều nghĩa, như chiều hướng, chiều kích, như bề cao, bề sâu, bề dài, bề rộng, .. thứ bậc, như bề trên, bề ngang, bề dưới ... Trong bài ca dao này, chữ Bề có ý nghĩa là khía cạnh, lãnh vực, như câu Kiều « So bề tài sắc lại là phần hơn », hay câu Kiều khác “Công tư vẹn cả hai bề”. Ngoài ra, cũng trong bài ca dao này, với “chữ trông” vừa có nghĩa “trông thấy”, vừa có nghĩa “trông mong”, chữ “nhiều bề” trong câu « tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề” còn có một ý nghĩa hành văn, giới thiệu những chiều hướng, những khía cạnh, những lãnh vực nhận thức trông thấy được, từ khung cảnh trời đất, qua những biến cố mây mưa gió, đến các sự kiện thời gian ngày đêm ; và những chiều hướng ý chí hành động đạt được, từ ước nguyện tin tưởng đến quyết chí rèn “cho chân mềm thành cứng ”, và biến “đá cứng thành mềm”. Nếu vì hình thức máy móc muốn tránh lạc vận mà lấy chữ “ bầy”, (theo ý nghĩa “ bầy tôi ”) thay vào, thì ý nghĩa của bài ca dao chẳng những thành lủng củng, mà thậm chí còn sai lạc. Trong ba yếu tố mỹ học của thơ, hai yếu tố chữ và vận là quan trọng. Nhưng yếu tố ý là quan trọng hơn cả.

BS Nguyễn Bá Hậu:
“Về khía cạnh thơ đường luật thất ngôn bát cú ta lấy mẫu bài thơ Làm Lẽ của Hồ Xuân Hương in trong tập thơ của nhà biên khảo Phạm Trọng Chánh: “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng Chém cha cái kiếp lấy chồng chung Năm khi mười họa nên chăng chớ Một tháng đôi lần có cũng không. Muốn đấm ăn xôi, xôi lại hỏng, Cầm bằng làm mướn, mướn không công. Thân này nếu biết đường này nhỉ, Thà trước thôi đành ở vậy xong”. Bài thứ nhì khóc ông phủ Vĩnh Tường của Hồ Xuân Hương: “Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi Cái nợ ba sinh đã trả rồi. Chôn chặt văn chương ba thước đất, Tung hê hồ thỉ bốn phương trời. Hạt sương dưới chiếu chau mày khóc, Giọt máu trên tay mỉm miệng cười. Hăm bảy tháng trời là mấy chốc Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi”. Về ý nghĩa bài thơ chính của tác giả là than khóc nhớ thương vị hôn phu lại bị thay thế ở hai câu năm sáu bằng hai câu thơ sau đây: “Cán cân tạo hóa rơi đâu mất, Miệng túi càn khôn khép lại rồi”. Với hai câu thơ này ý nghĩa trang trọng không còn nữa. Vả lại theo ông Phạm Trọng Chánh thời Hồ Xuân Hương làm bài thơ này ta chưa có cái cân có cán. Về khía cạnh thơ lục bát số câu thơ tam sao thất bản quá nhiều nên tôi chỉ xét đến hai câu thơ sau đây của Nguyễn Du trong truyện Kim Vân Kiều mới được người ta cố ý thay đổi: “Trời còn để có hôm nay Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời”. Chữ trời ở đầu câu được đổi bằng chữ đời làm cho ý nghĩa câu thơ của Nguyễn Du bị sai hẳn vì Nguyễn Du trong truyện Kiều là một nhà thơ duy linh tin có đạo trời. Nếu đem chữ đời vào câu thơ thì người ta cố ý biến Nguyễn Du thành nhà thơ duy vật chủ nghĩa. Thiết tưởng nếu Nguyễn Du sống lại mà thấy hai câu thơ này thì cụ sẽ tự than vãn cho số mình chẳng cần phải đợi “tam bách dư niên hậu” nữa và dân chúng Việt Nam sau này sẽ đổi câu ca dao Lạy đời mưa xuống lấy nước tôi uống… Đời sinh đời dưỡng. Nhà thơ Nguyễn Bính cũng vậy trong bài Tương Tư ông viết: “Gió mưa là bệnh của Trời Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. Nay nếu người ta cũng đổi chữ trời ra chữ đời thì hai câu thơ đó sẽ đọc như sau:“Gió mưa là bệnh của đời. Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. Chắc nhà thơ Nguyễn Bính sẽ an ủi Nguyễn Du vì ở trong cùng một hoàn cảnh. »

Nhà thơ Nhất Uyên TS Phạm Trọng Chánh kể Cuộc Tình Nguyễn Du Hồ Xuân Hương:

«…Sau khi GS Hoàng Xuân Hãn mất năm 1996, tôi đã dựa theo văn bản ông Bùi Hạnh Cẩn là người được ông Trần Thanh Mại giao chép Lưu Hương Ký thành 5 bản, ông đã chép một bản cho mình, chỉ sót một bài, tôi đã tiếp nối công trình còn dang dở của Gs Hoàng Xuân Hãn. Trong Lưu Hương Ký có bài thơ Hồ Xuân Hương tặng Cần Chánh Học Sĩ Nguyễn Hầu, hầu Nghi Xuân Tiên Điền nhân. Bài thơ cho biết: Chữ tình chốc đã ba năm vẹn. Hai người yêu nhau trong ba năm, đó là thời gian từ năm 1790 đến 1793, sau khi Nguyễn Du thành nhà sư Chí Hiên đi giang hồ ở Trung Quốc về sống với anh Nguyễn Nể đang làm quan nhà Tây Sơn tại Thăng Long, nhưng Nguyễn Du lại thường ở nơi Gác Tía, nơi nhà câu cá cũ của anh Nguyễn Khản cạnh đền Khán Xuân và Cổ Nguyệt Đường gần đình làng Nghi Tàm ngày nay. Hai người hàng xóm yêu nhau thường cùng đi hái sen với nhau. Năm 1793 sau khi vua Quang Trung mất, Nguyễn Nể được cử vào dạy học cho vua Cảnh Thịnh mới lên mười. Nguyễn Du và em là Nguyễn Ức được anh giao phó trọng trách về xây dựng lại từ đường và làng Tiên Điền bị phá hủy năm 1790 sau cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh. Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du có tiễn đưa nhau tại đình đá sông Vị Hoàng, làm thơ đối đáp nhau trong thời gian này. Năm 1796, Nguyễn Du toan tính vượt biên vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh đã đánh tới thành Diên Khánh, Nha Trang, Nguyễn Du toan vượt biên vào Nam thì bị trấn thủ Nguyễn Văn Thận bắt giam 3 tháng, ra tù Nguyễn Du trốn ra Thăng Long đến Hồ Tây thì hay tin Hồ Xuân Hương bị mẹ gả cho Thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm, Nguyễn Du viết hai bài thơ ký tên Chí Hiên oán trách nàng tệ bạc. Năm đó Nguyễn Nể đi sứ về, mai mối cùng Đoàn Nguyễn Tuấn cưới cô em gái út Đoàn Nguyễn Thị Huệ cho Nguyễn Du. Nguyễn Du về Quỳnh Hải dạy học cho đến khi vua Gia Long lên ngôi đem quân ra Bắc truy đuổi vua Cảnh Thịnh. Nguyễn Du chiêu tập học trò, đem bò ngựa lương thực ra tiếp rước vua Gia Long, gặp tại huyện Phù Dung trấn Sơn Nam, vua phong ngay làm Tri huyện nơi này, sự kiện giống như Phi Tử thời Chiến Quốc dâng ngựa cho vua Chu Hiếu Vương được phong chức Phụ Dung, nên Nguyễn Du có danh hiệu là Phi Tử, Nguyễn Hành bài Đi Săn có nhắc danh hiệu này. Năm 1804 Nguyễn Du làm tri phủ Thường Tín, vợ mất, ông tìm về Cổ Nguyệt Đường gần đó mong nối lại duyên xưa, thì Hồ Xuân Hương đang làm lẽ Tổng Cóc Nguyễn Công Hòa, nàng đau ốm như nàng Tiểu Thành, xót thương Nguyễn Du viết bài Độc Tiểu Thanh Ký gửi nàng. Hai chữ Tố Như hiểu là Nguyễn Du là vô nghĩa, vì 6 câu đầu viết về nàng Tiểu Thanh, tự nhiên hai câu cuối tự hỏi ai khóc mình là lạc đề, vô nghĩa, nếu Nguyễn Du muốn ai khóc mình thì sẽ nói: Ngàn năm sau ai nhắc đến ta? Bách Tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp tố như. Tra tự điển Thiều Chửu: tố là tơ trắng là người (phụ nữ) phẩm hạnh cao quý, như là như thế như vậy. Hiểu: Không biết rồi đây ba trăm năm nữa, Ai khóc người phẩm hạnh cao quý như nàng Tiểu Thanh thì hoàn toàn phù hợp với ý sáu câu đầu bài thơ. Hai chữ Tố Như chỉ xuất hiện duy nhất trên bài Độc Tiểu Thanh Ký, do đó tôi cho rằng con cháu đời sau khi viết gia phả không hiểu mối tình Nguyễn Du Hồ Xuân Hương nên đoán bừa Tố Như là bút hiệu. Các người được thuê chép văn bản cho Trường Viễn Đông Bác Cổ chỗ nào nghi là Nguyễn Du cứ chép vào hai chữ Tố Như. Ví dụ thơ viết cho anh Trang 77 Nguyễn Du đề Ức Gia Huynh, viết cho em Ngô Gia Đệ cựu ca cơ. Thơ Nguyễn Nể viết cho em lại đề Hoài Thanh Hiên Tố Như Đệ, không ai viết cùng một lúc hai danh hiệu. Hồ Xuân Hương sau khi nhận được bài Độc Tiểu Thanh ký đã bỏ Tổng Cóc trở về làng Nghi Tàm, nàng có viết bài Chơi Tây Hồ Nhớ Bạn trả lời bài Độc Tiểu Thanh Ký. Năm 1813 Nguyễn Du làm Chánh Sứ đi sứ sang nhà Thanh, Hồ Xuân Hương gửi thơ mừng và ra đón tại Thạch Đình sông Vị Hoàng nơi tiễn biệt ngày xưa, nhưng chàng đường đường là vị quan Chánh Sứ, muôn cặp mắt trông vào, nàng chỉ dám nhìn từ xa, Hồ Xuân Hương viết hai bài thơ Mừng gặp bạn trên sông Hoàng Giang, và Hoài Cựu chép trong Lưu Hương Ký. Thơ truyền khẩu Hồ Xuân Hương chép theo văn bản Antony Landes, Giám Đốc Trường Thông Ngôn, trước khi có Trường Viễn Đông Bác Cổ năm 1892 ông thuê Lê Quý và Nguyễn Văn Đại chép thơ Hồ Xuân Hương. Hai ông này có đến làng Nghi Tàm gặp hai người con trai Tử Minh là người « không ruột nhưng mà thương quá ruột » nên chép được ba bài thơ Khóc Tử Minh của Hồ Xuân Hương, và toàn bộ các bài thơ truyền khẩu của Hồ Xuân Hương, các người con Tử Minh lúc này khoảng 70 tuổi. So văn bản này với các bài thơ Truyền Khẩu về sau tôi chú ý có nhiều chữ thay đổi ví dụ: Trong bài Khóc ông Phủ Vĩnh Tường (chức cũ của Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển) chồng Hồ Xuân Hương bị tử hình bị phe Lê Văn Duyệt, Lê Chất, Án Thủ Dung vu cáo nhận hối lộ 700 quan tiền vì ép dân trở lại cày ruộng thay vì làm nghề biển. Cùng thời gian sự kiện này là Trung Quân chỉ huy toàn quân đội nhà Nguyễn, Nguyễn Văn Thành phải tự tử, con là Nguyễn Văn Thuyên bị án chém. Binh Bộ Thượng Thư Đặng Trần Thường bị xử thắt cổ, Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán tự tử. Hai câu: ‘ Cán cân tạo hóa rơi đâu mất. Miệng túi càn khôn thắt lại rồi.’Cán cân là hình ảnh nữ thần Công lý cầm cán cân trước các tòa án thời Pháp thuộc, thời Hồ Xuân Hương dùng chữ: đồng cân, ‘ mượn tay thi tướng nhắc đồng cân. HXH. ‘âm công nhắc một đồng cân cũng vừa ;’ ND. Hai câu nguyên tác trong bản Landes: ‘Hạt sương dưới chiếu chau mày khóc, Giọt máu trên tay mỉm miệng cười’. Khi chồng bị tử hình, Hồ Xuân Hương ôm thây chồng khóc cười điên dại. Điều oan nghiệt người thi hành bản án tử hình là quan Tào Binh Bắc Thành Trần Quang Tỉnh, trước là Hiệp Trấn Sơn Nam Hạ, từng là người đã yêu và làm thơ xướng họa với Hồ Xuân Hương. Khi chồng bị bắt Hồ Xuân Hương có đến cầu cứu ông, ông lánh mặt và sai lính đuổi nàng đi. Hồ Xuân Hương cay đắng viết trong bài Bán Chầm thư hoài, (Nỗi niềm gối lẻ) ‘Ngâm khách thế thần đâu sắc tướng, Tình ma không sức đuổi sầu binh’. Đem chữ sắc tướng nhà Phật, sắc tức thị không, không tức thị sắc, đối với chữ sầu binh tài nghệ đối đáp Hồ Xuân Hương thật là tuyệt vời.” Ngoài trời những chiếc lá vàng rơi trong nắng thu rất đẹp. »

Trong phòng hội những mái đầu bạc đang đắm hồn vào thảo luận. Không khí buổi hội thảo thật hào hứng và sôi nổi vì nhiều ý kiến khác nhau. Cuộc tranh luận lan qua vấn đề tâm linh, triết học rồi quay trở lại phần nghệ thuật. Trong dòng lịch sử tân nhạc Việt Nam đã gần thế kỷ khởi từ những nhạc sĩ đầu tiên như Nguyễn Văn Tuyên (Kiếp Hoa, Bông Cúc Vàng), Nguyễn Xuân Khoát (Bình Minh, phổ thơ Thế Lữ), Lê Yên (Bẽ Bàng, Nghệ Sĩ Hành Khúc, Ngựa Phi Đường Xa), Thẩm Oánh (Khúc Yêu Đương, Đôi Oanh Vàng, Xuân Về), Nguyễn Thiện Tơ (Giáo Đường In Bóng, Trên Đường Về, Nhắn Gió Chiều), Dương Thiệu Trang 78 Tước (Vầng Trăng Sáng, Áng Mây Chiều, Ngọc Lan, Tiếng Xưa, Đêm Tàn Bến Ngự …), Lê Thương (Bản Đàn Xuân, Hòn Vọng Phu 1,2,3, Tiếng Thu, phổ thơ Lưu Trọng Lư), Văn Chung (Bóng Ai Qua Thềm), Doãn Mẫn (Biệt Ly, Gió Xa Khơi, Hương Cố Nhân), Đan Trường (Trách Người Đi),Văn Cao (Thu Cô Liêu, Buồn Tàn Thu, Thiên Thai, Trương Chi, Suối Mơ), Hoàng Qúy (Cô Láng Giềng, Chiều Quê), Nguyễn Đình Phúc (Lời Người Lãng Tử, Cô Lái Đò, phổ thơ Nguyễn Bính), Tử Phác (Tiếng Hát Quay Tơ),Lương Ngọc Châu & Tử Phác (Tiếng Hát Lênh Đênh), Phan Huỳnh Điểu (Trầu Cau), Đặng Thế Phong (Đêm Thu, Con Thuyền Không Bến, Giọt Mưa Thu), Nguyễn Văn Thương (Đêm Đông, Bướm Hoa), Hoàng Giác (Lỡ Cung Đàn, Khúc Hát Thương Binh), Trần Hoàn (Sơn Nữ Ca), Tô Hải (Nụ Cười Sơn Cước), Việt Lang (Tình quê hương), Nguyễn Mỹ Ca (Dạ Khúc), Phạm Duy (Cô Hái Mơ, phổ thơ Nguyễn Bính, Cây Đàn Bỏ Quên, Chinh Phụ Ca),Tô Vũ (Anh Đến Thăm Em Một Chiều Mưa, Tạ Từ), Nguyễn Văn Tý (Dư Âm), Nguyễn Văn Khánh (Nỗi Lòng), Hoàng Trọng (Đêm Trăng, Một Thuở Yêu Đàn, Chiều Tha Hương, Dừng Bước Giang Hồ), Nguyễn Hiền (Người Em Nhỏ, phổ thơ Thiệu Giang, Anh Cho Em Mùa Xuân, phổ thơ Kim Tuấn, Ngàn Năm Mây Bay), Thông Đạt (Ai Về Sông Tương), Tu My (Tan Tác), Anh Việt ( Bến Cũ), Lê Mộng Nguyên (Trăng Mờ Bên Suối, Quê Tôi, Bài Thơ Huế), Lê Trạch Lựu (Em Tôi), Đoàn Chuẩn &Từ Linh (Ánh Trăng Mùa Thu, Lá Thư, Tà Áo Tím, Thu Quyến Rũ, Chuyển Bến, Lá Đổ Muôn Chiều),...vv…Dòng nhạc tiền chiến với những giai điệu mang tính lãng mạn trữ tình ảnh hưởng của dòng nhạc bán cổ điển Tây Phương, nhất là nhạc Pháp do các danh ca, trong đó có danh ca: Josephine Becker, Tino Rossi với những giai điệu trữ tình Foxtrot, Valse, Tango: C’est à Capri (1934), Il Pleut Sur La Route (1935), Marinella (1936) thể điệu rộn rã vui tươi, J'attendrai (1937), Ave Maria (1938) giai điệu dìu dặt khoan thai, Ecris Moi (1945), J’ai deux Amours, Mon Pays et Paris …Thời đó có một số ít nhạc sĩ đã từng học nhạc Tây Phương nên đã đem những dòng nhạc ấy vào hòa với dòng Dân Nhạc của Việt Nam thành cổ kim hòa điệu. Tính chất nhạc Việt Nam dựa trên nền âm giai ngũ cung chỉ có 5 nốt, lấy chất liệu từ các thể điệu dân ca như Ca Dao, Hát Nói, Hát Quan Họ… trong khi nhạc Tây Phương âm giai 7 nốt lại giàu giai điệu, do đó càng về sau, hướng sáng tác ca khúc càng chịu nhiều ảnh hưởng dòng nhạc Tây Phương.

Tiếp theo Nhạc Sĩ Minh Nhật đàn và hát một số ca khúc tiền chiến của nhạc sĩ Phạm Đại. Tuy lớn tuổi nhưng chất giọng của ông vẫn truyền cảm đã lôi cuốn người nghe khiến không khí khán phòng trở nên lãng mạn của một chiều thu Paris.
BS Nguyễn Bá Linh hỏi:
“Xin Nhà nghiên cứu Phật giáo & Nhạc sĩ Minh Nhật cho biết thời gian trước năm 1945 gia đình anh sinh hoạt văn nghệ như thế nào?”
Minh Nhật:
“Trong khoảng 1930 đến 1944 tại Hà Nội là thời gian phát triển âm nhạc nghệ thuật, các bộ môn đó đều ảnh hưởng văn hóa và nếp sống Phương Tây từ những mốt quần áo cho đến những kiểu tóc đều rập khuôn những tài tử điện ảnh ca nhạc sĩ Âu Mỹ điển hình như Tino Rossi, Edith Piaf, Rina Ketty, Rosita Serrano, Charles Trenet, Victor Marthure,... đồng thời những bài ca Pháp được phổ biến khắp nơi. Thời đó hai anh trai đầu và chị lớn của Minh Nhật là Phạm Thọ, Phạm Đại và chị Kim Nga tham gia vào hoạt động âm nhạc rất sớm nên gia đình vào những buổi chiều cuối tuần thường có các nhạc sĩ, ca sĩ, văn sĩ, đến tham gia rất đông và rất vui như: Văn Cao, Thẩm Oánh, Phạm Duy, William Chấn, Nguyễn Văn Khánh, Đặng Thế Phong, Dương Thiệu Tước, Hoàng Trọng, Hoàng Giác, vv…” Trang 79 BS Nguyễn Bá Linh hỏi tiếp: “Anh có thể cho biết sinh hoạt và những sáng tác của nhạc sĩ Phạm Đại”. Nhạc sĩ Minh Nhật: «Năm 1946 Hà Nội tác chiến tất cả dân chúng phải rời bỏ Thủ Đô di tản ra các tỉnh miền Trung Du Bắc Việt, hai anh lớn và chị Kim Nga theo kháng chiến chống Pháp, từ đó vào Liên Khu 3 thành lập ban văn nghệ Trung Đoàn Thủ Đô, do đó có những sáng tác kháng chiến ra đời như bài " Năm Xưa, Quê Hương người chiến sĩ, Một năm qua, Chàng về ngày chiến thắng,..." cộng với những tác phẩm của các nhạc sĩ khác như: "Thu chiến trường, Nợ xương máu, Nhớ thương binh, Mùa đông chiến sĩ, Tiếng hát sông Lô, Uất hận, Lời người ra đi ...", nói lên hình ảnh tàn phá của quê hương trong chiến tranh, gợi lên lòng ái quốc trước sự tàn ác của thực dân, kêu gọi thanh niên tham gia kháng chiến, ca ngợi chiến thắng cũng như sự gian khổ của kháng chiến... Cuối năm 1949 nhạc sĩ Phạm Đại vào một đêm mưa gió đã đem ban văn nghệ bỏ về Thành. Sau đó anh hoạt động cho đài phát thanh Hà Nội và mở lớp dạy đàn guitar, hạ uy cầm, saxophone, ca nhạc và sáng tác cùng với các anh Lâm Tuyền, Hùng Lân ... Trong thời gian này biết bao nhiêu tuyệt phẩm đã được sáng tác qua các nhạc sĩ nổi tiếng như Dương Thiệu Tước, Nguyễn Văn Khánh, Phạm Duy, Thẩm Oánh, Hoàng Trọng, Hoàng Giác, Tô Vũ, Nguyễn Thiện Tơ, Đoàn Chuẩn, Từ Linh, Nhật Bằng, Ngọc Bích, Châu Kỳ, vv… Năm 1953 anh Phạm Đại thành lập ban văn nghệ Vì Dân cho ngành cảnh sát công an đến tháng 7 năm 1954 thì di cư vào miền Nam (Sài Gòn) tiếp tục điều hành ban văn nghệ này. Một số các nhạc sĩ do anh Phạm Đại đào tạo trong đó có Hoàng Dương, Vũ Huyến, Hoài Thanh, Trần Thiện Thanh, Nguyễn Văn Đông, Thanh Sơn, vv... Còn chị Kim Nga khi vào miền Nam hoạt động cho đài phát thanh Pháp Á, đài Quân Đội, cho các ban: Hoàng Trọng, Văn Phụng, Trần Văn Trạch, Nghiêm Phú Phi, Lê Thương... và phòng trà Văn Cảnh đến cuối năm 1956 thì chị nghỉ hát vì lập gia đình». Ca sĩ Opéra Đỗ Quyên: “Những nữ ca sĩ đi hát cùng Chị Kim Nga thuở đó là ai ?” Minh Nhật: “Chị Kim Nga thì cùng các ca sĩ Minh Đỗ, Tâm Vấn, Thanh Hằng, Thanh Hiếu... đều tham dự trình bày cho đài phát thanh Hà Nội và các ban nhạc tại các rạp hát trong những chương trình đại hội ca nhạc”. Đỗ Bình: “Cách nay gần 30 năm ở Paris tôi có dịp đệm đàn cho chị Kim Nga hát bài "Hướng Về Hà Nội" của nhạc sĩ Hoàng Dương, chị ấy rất xúc động khi hát nhạc phẩm này”. Minh Nhật: “Riêng Đỗ Bình là chị Kim Nga qúy nên bằng lòng hát vì thuần túy về văn học nghệ thuật, không thương mại, chứ anh Phạm Duy qua đã nhờ chị ấy hát nhưng chị từ chối!” BS Nguyễn Bá Linh: “Anh Minh Nhật có thể cho biết sự quan hệ giữa chị Kim Nga và nhạc sĩ Hoàng Dương?” Minh Nhật: “Riêng anh Hoàng Dương và chị Kim Nga đều là bạn học từ thuở thiếu thời -sau đó từ năm 1947 cùng tham gia vào hoạt động kháng chiến cho Trung Đoàn Văn Nghệ Thủ Đô do anh Phạm Đại phụ trách cho đến năm 1949 cùng bỏ về Thành (Hà Nội) và cùng nhau cộng tác Trang 80 cho Đài Phát Thanh cũng như những buổi trình diễn - do đó tình cảm của hai người càng gắn bó. Đến tháng 7/1954 thi đại uý Đặng Văn Quang (sau này là Trung Tướng) và anh Phạm Thọ (trung úy) bất chợt đã đem quân xa về đón gấp gia đình chúng tôi dời Hà Nội đến cảng Hải Phòng để di chuyến bằng tàu Saint Michel của Hải Quân Pháp vào Sài Gòn. Trước sự ra đi bất ngờ đó anh Hoàng Dương chỉ kịp gửi chị Kim Nga cây đàn guitar, mấy tấm hình và một số bản nhạc do anh sáng tác (đã được trình diễn nhưng chưa xuất bản) và hẹn rằng trễ nhất là đến tháng 12/1954 anh sẽ có mặt tại Sài Gòn để đoàn tụ nhưng lời hẹn ước đó đã không xảy ra (vì anh đã bị giữ lại?). Vào dịp Tết 1955 anh Lê Mộng Bảo ghé thăm anh Phạm Đại thì chị Kim Nga có đưa anh xem xấp nhạc của anh Hoàng Dương - sau đó anh chấp nhận cho Nhà Xuất Bản Tinh Hoa in ấn và phổ biến trên đài Phát Thanh Pháp Á gồm 3 bài: Hướng Về Hà Nội, Tiếc Thu và Luyến Thương”.

Đề tài thảo luận thì rộng lớn, một ngày cho hội thảo không đủ. Tất cả những người tham dự hẹn lần tới sẽ bàn tiếp. Buổi sinh hoạt chấm dứt lúc 18h00.

Paris Chiều Thu. 
Đỗ Bình

Không có nhận xét nào: