Qua những lần tiếp xúc với những con người gọi là “cách mạng”, chúng tôi có cái nhìn chung về họ. Ngoài việc liều mạng đánh nhau trên chiến trường, vì không có đường chọn lựa và bị lừa gạt, nếu không chết trên chiến trường hoặc đi vào Nam thì gia đình coi như đói rách vì đảng ta thắt cái bao tử không cho tham gia HTX, coi như sống ngoài rìa xã hội, còn chết thê thảm hơn, cách ăn nói của họ thật giống nhau như khuôn đúc. Phải nói là ngô nghê một cách thật tội nghiệp, có thói quen lập lại những gì nghe được qua những buổi học tập chính trị nhạt nhẽo, họ không có một tư duy mới, hay nói đúng hơn không dám nói khác đi những lời khuôn vàng thước ngọc mà Đảng đã dạy dỗ, tôi cảm tưởng rằng họ là những con vẹt biết nói
Theo tôi họ chẳng biết gì nhiều về thế giới bên ngoài, vì bị Đảng ra lệnh bưng bít tất cả mọi tin tức, biến họ thành những con cừu non, ngô nghê ngốc nghếch, đúng với ý đồ của cấp lãnh đạo Đảng CS. Vì thế họ tuyệt đối nghe theo cấp trên một cách máy móc, mà đã là con người bị người ta lường gạt, không có chủ kiến cho riêng mình, tư tưởng bị kiềm chế nên họ tuyệt đối trung thành với Đảng một cách mù quáng.
Trái lại những người Chiến sĩ VNCH, được giáo dục trong một môi trường tự do đầy sáng tạo, nên có một thái độ ứng phó bén nhậy khi gặp hoàn cảnh khó khăn như khi bị tập trung vào những trại tù Cải tạo nên lúc nào cũng lạc quan về cuộc đời. Lúc còn ở Trại Cà Tót ngày nào cũng thấy cái chết, nên anh em xem rất thường coi như hôm nay anh chết ngày mai đến tôi. Nhớ lại lúc đưa anh Đặng Văn Hai (ĐĐ118/ĐPQ sau anh xin qua làm Phân Chi Khu Trưởng ở xã Hựu An thuộc Chi Khu PLC) ra rừng chôn, nội tìm chỗ để chôn cũng cãi nhau một lúc, cuối cùng thì chúng tôi cũng chọn được một chỗ có phong cảnh hữu tình để thi hài anh Hai an giấc. Lúc này anh Nguyễn Văn Biên Trưởng Ban 5 Chi Khu Tuy Phong có đi theo chúng tôi, nhưng vì anh đã bị sốt rét nên mệt quá phải nằm lăn trên cỏ gần mộ anh Hai. Không có nhang chúng tôi đốt cây rừng tạm làm nhang, anh Đỗ Văn Cư ĐĐP/ TĐ 275/ĐP/Bình Thuận, sau khi vái anh Hai xong quay qua trước đầu anh Biên khấn:
“Nếu mày có muốn theo thằng Hai thì cứ đi, chừng nào mày chết tao chôn mày sát thằng Hai cho có bạn”.
Đúng là miệng thằng ăn mắm ăn muối. Quả nhiên ngày hôm sau chúng tôi phát hiện anh Biên chết trong đêm, trên sạp tre dùng để ngủ. Chúng tôi giữ lời hứa và chôn đúng chỗ anh nằm hôm qua, thi hài được bọc trong 7 nẹp tre. Nói chơi kiểu này lạnh mình quá.
Một hôm tên Thượng sĩ Hợi, răng hô mã tấu cán bộ trại đến chỗ nằm tìm tôi bảo đi theo hắn chặt cho trại một cây tre thật lớn không biết để làm gì, thật tình mà nói, chặt tre thì thường quá có gì phải lo, thỉnh thoảng tôi cũng có chặt Lồ ô, Le về làm sạp giường nằm có chết thằng nào đâu, nhưng mà cả trại mấy ngàn người hắn không chọn ai lại chọn tôi mới là chuyện lạ, tôi ra chỗ để dụng cụ chọn một cây rựa tốt nhất đi theo hắn. Đi ngược theo dòng suối cách Trại khoảng mười phút tôi thấy một bụi tre rất to trước mặt.
Lần này lại khác, bụi tre hắn chỉ thì có lẽ từ hồi khai thiên lập địa đến giờ chưa ai đụng tới. Cây nào cũng to đường kính ít nhất cũng trên hai tấc, chiều cao thì khỏi nói. Đường kính bụi tre hơn mười mét, gai góc chĩa ra tua tủa, chỉ xong bụi tre hắn bỏ đi về. Nhìn bui tre tôi thấy sợ quá, muốn chặt một cây tre phải giải quyết hết đám gai cứng như thép dưới gốc này cũng phải mất nửa ngày chứ không chơi đâu. Nghĩ nhanh trong đầu, cần phải cầu viện sư phụ mới được, nghĩ là làm ngay tôi lẻn ngõ khác về trại tìm thầy giáo An nhờ giúp đỡ, ông này có bà con xa với tôi, cũng Trung úy, nhà ở Hòa Đa. Sau khi nghe tôi cầu cứu, thầy An cùng tôi ra ngay bụi tre, câu đầu tiên Thầy phán:
“Mày có nghe câu, nhứt gò gái nhì chặt tre không?”
Quả thật tôi có nghe nhưng để ý làm gì cho mệt, nay nghiệm lại câu này quá đúng.
Thầy giảng cách làm thế nào để chặt được tre, thầy bảo phải làm một cái giàn cao ít nhất hai mét rồi leo lên đó chặt lấy thân nó từ hai mét trở lên mới được. Phán xong thầy cũng bỏ ra về để tôi một mình xoay sở. Còn lại một mình không biết làm sao làm cái giàn đây, tôi nghĩ ngay tại sao mình không chặt một cái cây đẽo thành cái thang rồi đứng lên đó chặt. Phải mất một giờ mới làm xong cái thang bằng một cây gỗ dài hơn ba mét, bắt lên bụi tre và đứng lên trên thang chặt được một cây vác về giao nạp, phần ăn ít ỏi buổi trưa hôm đó tan nhanh trong bao tử làm bụng đói cồn cào. Từ đó tôi học được một bài học về làm thế nào chặt tre trong rừng.
Trại Cà tót có hai con Bò được giao cho anh Lưu Đức Thắng chăn, trước đây anh là Đại Đội Trưởng ĐĐ Trinh Sát của tỉnh Bình Tuy, anh tốt nghiệp Sĩ Quan Đà Lạt, nhà ở gần nhà tôi ở Phan Rí. Hai con Bò này trước đây do một tên VC con chăn, tên này có biệt danh “Cam tích tán” vì bị bệnh Sơ gan Cổ chướng bụng phình như cái trống chầu chỉ chờ ngày chầu Diêm vương, nhưng mà nó hung hăng, thường chửi bới anh Thắng vì hai con bò không chịu để anh điều khiển. Tôi nghe nó chửi anh mà nổi máu muốn đạp cho nó một đạp “mấy thằng Sĩ Quan ngụy ăn hại, có hai con bò cũng đuổi không đi”. Một phần cặp bò của “Cách mạng” nên anh không dám đánh mạnh, vì đánh chó phải kiêng mặt chủ nên cặp Bò không sợ anh, một phần vì hồi giờ anh là công tử bột có chăn bò bao giờ đâu mà biết cách trị bò.
Tôi phải giúp anh lùa hai con bò qua sông ăn cỏ, đồng thời tôi chỉ cách anh huấn luyện và trừng trị hai con bò này vì hồi nhỏ nhà tôi làm ruộng nên có nhiều Trâu bò nên mấy tháng hè cũng có giúp gia đình chăn Trâu Bò nên tôi biết cách trị nó. Tôi buộc 2 con bò vào gốc cây và bảo anh Thắng lấy cây roi mót cứ nhè mặt nó mà quất thật mạnh. Sau khi bị đánh dằn mặt, hai con bò rất sợ anh Thắng, vì điểm yếu nhất của nó là con mắt, lần sau chỉ cần anh dơ roi lên là hai con Bò phóng chạy ào ào trước con mắt kính phục của tên Cam tích tán nhà VC.
Sắn măng nghe qua thì rất dễ, điều này chỉ đúng với các loại măng nhỏ như măng Lồ ô, măng Le, măng Giang, măng Nứa. Măng này nhỏ sắn rất lâu, vì vậy chúng tôi chỉ sắn loại măng Tre lớn cho mau đầy giỏ. Thường thì mỗi ngày toán sắn măng gồm 6 đứa chúng tôi phải giao cho nhà bếp ba giỏ măng. Hôm nay anh Bùi Loạn Thời người Chợ Lầu nhưng ở gần xóm Chàm, tôi nghĩ hồi nhỏ chắc cũng có lên rừng sắn măng, nên anh sắn măng rất giỏi, anh muốn xin theo chúng tôi để mua hàng. Mấy hôm nay có một người Nùng thường cưỡi xe Honda đem hàng hóa từ Thiện Giáo lên lén bán cho chúng tôi, chỉ có anh Thắng chăn Bò là có điều kiện để mua về chia lại cho anh em. Vụ này mà bị lộ ra chắc cả đám bị cùm cho muỗi cắn chết mất.
Hôm nay anh Thời xin tôi cho đi sắn măng vì tôi được phong làm tổ trưởng tổ này, mục đích là để tìm mua hàng gồm chao, tương, xì dầu, đường, cá khô ... Tôi phải sắp xếp để anh được đi cùng, vì toán tôi do Hợi du kích chỉ định, nên không được phép thì không đi được. Tôi và anh Thời khiêng chung một giỏ cần xé, lần này chúng tôi cố tình đi ra hướng gần đường xe Be từ Thiện Giáo lên để sắn măng, mọi ngày tôi phải sắn khoảng hai giờ mới xong, có anh Thời chỉ sắn nửa giờ là xong một giỏ cần xé to. Tôi đang bỏ măng vào giỏ thì nghe tiếng xe Honda chạy ngoài đường. Vừa ngó lại thì đã thấy anh Thời phi ào ào qua đám cỏ tranh cao tới ngực như lực sĩ nhảy rào. Tôi chỉ kịp kêu lên:
- Chờ tôi với! Thì anh đã mất hút bên kia đám cỏ tranh cao lút đầu, tôi cố lao theo anh cho kịp để mua chút hàng hóa.
Bất ngờ tôi nghe tiếng quát:
- Giơ tay lên không tao bắn bể đầu. Nhanh như chớp tôi nằm rạp xuống đám cỏ tranh và bò tháo lui chạy lom khom về rừng tre, tôi hồi hộp vái trời cho anh bình an vô sự, không thì cả tôi cũng không yên thân với tên Hợi Mã tấu.
Khoảng mười phút sau tôi thấy anh Thời mò về, tôi hỏi chuyện gì vậy thì anh kể cho tôi nghe:
Khi nghe tiếng xe Honda, anh phóng nhanh ra đường không thèm nhìn người lái xe là ai vì yên chí là người Nùng bán hàng nên giơ tay chận xe lại. Nhưng rủi cho anh không phải người Nùng bán hàng mà là một tay Thượng úy VC với cả súng ống đầy đủ, tay này chắc đi công tác lên trại tù. Tay Thượng úy này hoảng quá vì nghĩ rằng đám tàn quân tấn công mình nên rút súng định bắn anh, nhanh trí anh nói: Thưa cán bộ tôi bị con Rắn rất to nó rượt sợ quá nên chạy ra đây! Được biết anh là toán sắn măng cho trại nên hắn tha cho, từ đó anh bỏ ý tưởng theo tôi đi mua hàng, cũng còn hên tên Thượng úy không nổ súng bắn anh, mặc dù hắn ta đã rút cây K54 chĩa thẳng vào anh. Sở dĩ chúng tôi xin vào toán đào mì, sắn măng cho trại không ngoài mục đích kiếm thêm miếng ăn vì đói quá. Sau khi đào mì xong, tìm củ nào nhỏ ngon nướng ăn cho no rồi mới về. Tên Hợi răng hô có biết nhưng cũng thông cảm vì tụi tôi bắt gặp hắn đang tù ti với mụ nữ Du kích trong cái chòi vắng trong rừng, và chúng tôi cũng thông cảm với đồng chí Hợi.
Về cái lý lịch của tên Hợi này do hắn kể cũng ly kỳ không ít, chuyện này là do một lúc cao hứng hắn kể lại cho toán đào mì chúng tôi nghe. Khoảng mười bốn tuổi hắn đã tham gia vào Việt Minh, theo đoàn quân vào Nam công tác và ở luôn tại rừng này từ đó đến bây giờ, được giao quản lý kho lương thực cất giấu ở đây. Một chữ cắn làm đôi cũng không biết, còn văn minh loài người thì mù tịt, cả cuộc đời trai trẻ chôn vùi chốn rừng sâu. Nếu không có ngày 30/4/75 thì không giải phóng hắn thành kiếp người. Lần đầu tiên một cán bộ VC cưỡi xe Honda từ Phan Thiết lên công tác. Hắn theo xin ngồi đằng sau xe chạy vòng vòng trong sân ra vẻ thích thú lắm. Cũng nhờ có ngày này mà hắn ta mới vớ được một mụ du kích nạ giòng. Ước muốn của hắn là một lần được về ngắm thành phố Phan Thiết cho mở con mắt.
Khi về đến Sông Mao, thì việc đầu tiên của chúng tôi là hàng ngày bám sát hàng rào dọc đường Tự Do để nói chuyện với gia đình. Được mấy hôm đám ác ôn bắt chúng tôi lên Phi trường khiêng vĩ sắt về làm bức tường cao quá đầu ngăn chận. Mấy chị người Nùng ngoài Sông Mao thấy cảnh này tức quá nên cũng chửi bọn khốn kiếp, mấy chị nói:
- Mấy ông Sĩ Quan đẻ con so nên sợ gió cần phải che lại.
Không đủ nước tắm, nên cuối tuần VC cho chúng tôi xuống Sông Mao chỗ đập Én Chim để tắm. Lúc này bà con thân nhân lén đi theo đứng hai bên đường vẫy tay chào mừng chúng tôi, có người còn lén nhét cho gói thuốc, vài cục đường dù không quen biết.
Cái sợ nhất của tù Cải tạo là phải ngồi đồng để nghe Chính trị viên Đảng ta nhả ngọc phun châu vào lỗ tai mình, sau đó phải tìm mọi cách để nói láo chính bản thân mình qua các cuộc thảo luận và tự kiểm điểm. Chúng tôi khám phá ra rằng, trong nhà tù Cộng sản nói phét càng hay thì sự tiến bộ học tập càng được đánh giá cao. Tôi nhớ có lần cả tổ ngồi đồng thảo luận về đề tài “Đế quốc Mỹ là tên xâm lược”. Thú thật mười tám thằng trong tổ không tìm đâu ra chỗ nào Đế quốc Mỹ xâm lăng nước ta cả. Chúng tôi chỉ thấy Đế quốc Mỹ đem lại cơm no áo ấm chẳng những cho miền Nam mà còn cho tất cả các nước Mỹ có mặt như Nhật, Nam Hàn, Đài Loan ... nên phải cố gắng để phịa ra chuyện nói xấu Mỹ, bây giờ nghĩ lại còn thấy muốn cười.
Mỗi bài như vậy phải đào sâu tư tưởng phát biểu đúng trọng tâm trong thời gian một tuần lễ thì chỉ có thánh nhân mới làm được. Ấy thế mà chúng tôi cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ học tập. Tôi nhớ nhiều lần ngồi đồng câu giờ chờ Quản giáo Tùng ghé lại tổ là có niềm vui mang lại. Chỉ cần chúng tôi mở đúng tần số là Tổ chúng tôi qua đi hai giờ thảo luận một cách nhẹ nhàng vì anh ta có năng khiếu nói dài nói dai nhưng không trúng vào đâu cả, nói văng cả nước miếng một cách say sưa, trong đó có nhiều chuyện thâm cung bí sử, mặc dù lạc đề nhưng có ăn thua gì, Quản giáo nói mà.
Quản giáo thì có quyền nói sao cũng được, đâu có thằng nào dám chận ngang .Từ đề tài Đế quốc Mỹ, Quản giáo nhà ta đưa chúng tôi về với trận địa pháo và các trận dội bom kinh hồn của B52 mà đơn vị anh ta gánh chịu hồi nào trong niềm say mê của các cổ động viên là chúng tôi, những học viên. Chính các Quản giáo cũng thừa nhận rằng Mỹ chưa có lấy gì từ tài nguyên của đất nước ta, người Mỹ chỉ tốn tiền và xương máu, nhưng cuối cùng bao giờ cũng kèm theo câu, thằng Mỹ sẽ bóc lột nhân dân ta vì tư bản Mỹ là tên xấu xa nhất. Cách hay nhất để sống còn là chúng tôi chấp nhận Đế quốc Mỹ là tên xâm lược, mặc dù không ai chứng minh được.
Cũng từ những bài học thực tế đó tôi nhận ra Quân đội Cộng sản Bắc việt không thể nào chiến thắng nỗi QL/VNCH nếu người Mỹ viện trợ cho ta đúng với bản Hiệp định Paris. Dù trong hoàn cảnh nào, người Chiến sĩ VNCH vẫn không khuất phục trước Cộng sản. Qua những bài viết bích báo, ta thấy ẩn vào đó những nét châm biếm chế độ mà với trình độ quá thấp kém của một Quản giáo, trình độ lớp ba trường làng thì làm sao hiểu nổi.
Đi lao động tuy có vất vả thiệt nhưng cũng có cái thoải mái của nó. Đội chúng tôi khiêng đất tại dốc Bà Chá để đổ con đường đất. Hàng ngày phải đi trên Quốc lộ 1, nên gây sự chú ý đến những xe và hành khách qua lại trên đường. Sự thể hiện của những người trên xe đủ cho chúng tôi ấm lòng, vì biết rằng người dân miền Nam vẫn thương và càng thương yêu chúng tôi hơn. Những bao thuốc lá, những trái chuối của những bà mẹ, người chị, đứa em gái không quen biết quăng vào thùng gánh đất cho chúng tôi đủ để nói lên lòng thương yêu vô vàn đó. Có một quy luật bất thành văn giữa chúng tôi và đám Cảnh vệ cùng nhau có lợi. Gói thuốc nào lọt vào thùng là của chúng tôi, gói nào rơi trên đường là của nhà nước XHCN.
Một lần Má tôi biết được tôi hàng ngày cùng anh em khiêng đất ở đoạn đường đó. Má tôi lên Lương Sơn mua đủ loại trái cây, khi đi ngang qua bà bảo xe chạy chậm lại và xô xuống đường nhựa một đống trái cây rồi xe bỏ đi. Tôi ngó thấy bả ngồi trên xe đưa tay ngoắc tôi và chỉ vào đống trái cây, nhưng khi bị Cảnh vệ hỏi của ai thì không ai dám nhận cả, vì nếu nhận sẽ bị kiểm điểm phiền phức, không tốt trong học tập, vì quy phạm nội quy Trại.
Tất cả xe đò đi ngang qua biết là của người tốt bụng cho Tù Cải tạo nên không xe nào dám cán lên và tìm cách né qua để đi. Mấy tên Cảnh vệ bối rối vô cùng không biết ‘xử lý’ thế nào. Hỏi của gia đình người nào bỏ xuống thì tất cả lại đều lắc đầu kể cả tôi. Cuối cùng chúng tôi xin ra lấy bồi dưỡng để xe khỏi cán nát, Cảnh vệ đồng ý nhưng với điều kiện phải thanh toán ngay tại chỗ không được mang về trại. Điều này dễ quá mà, chỉ chờ có vậy chúng tôi xúm lại thanh toán vài phút là sạch sẽ.
Có một Cảnh vệ tên Dưa biết nhà tôi ở Phan Rí Cửa nên hỏi tôi có muốn nhắn gởi gì không vì cuối tuần anh ta đi Phan Rí chơi, tôi cho địa chỉ và nói gia đình tôi gởi gì cũng được. Tối hôm Chúa Nhật đó trời tối đen như mực, chừng 8 giờ tối, Cảnh vệ Dưa vào lều tôi ở kêu tôi ra ngoài bảo, gia đình anh có gởi một xoong cá nục hấp, tôi để ngoài bụi cây sát đường QL1, bảo tôi ra lấy vô. Anh ta nói, anh cứ yên trí ra lấy, phiên gác của tôi, và tôi canh chừng cho anh ra lấy. Nguy hiểm trùng trùng trước mặt, tôi lao vào đêm tối tìm ra gốc cây và bưng vào một xoong cá thật lớn, nếu mình tôi ăn phải mất nửa tháng mới hết. Nhưng không thể để cho bất kỳ ai biết ngoài anh em trong tổ vì sợ có anh em nào nổi hứng quyết chí lập công dâng lên Bác và Đảng thì vô cùng phiền phức. Tôi kêu tất cả anh em trong tổ thức dậy và thanh toán thật nhanh không để lại dấu vết nào, kể cả xương cá, thì sáng tôi thảy xuống sông cho chìm mất dạng.
Công việc xây Đập đào mương rất nặng nhọc mà thực phẩm thiếu thốn lại không được thăm nuôi nên rất đói. Chúng tôi mới xin cho người đào củ Nầng về ăn thêm, củ Nầng người Thượng, Chàm thường dùng làm thực phẩm cho Heo ăn. Muốn ăn củ này phải biết cách làm không thì trúng độc có thể chết. Vùng Đập tràn Sông Lũy này củ Nầng đâu cũng có. Một hôm nhà bếp đào Củ về cắt thành lát mỏng đem luộc chín xả nước ba lần, rồi phải đem ngâm ở dòng nước chảy một ngày đêm, lấy lên luộc lại chế biến gia vị vào mới ăn được.
Không ngờ mới đem ngâm hai giờ thì trời mưa lớn, nước sông chảy mạnh, nhà bếp sợ trôi mất nên kéo lên làm cho anh em ăn sáng. Kết quả nguyên cả Đội của tôi đi chưa tới chỗ làm thì đã ngã gục trên đường hết. Hai Đội bạn phải quay trở lại khiêng chúng tôi về trại vì trúng độc, may mà không có ai chết vì anh em sợ nên còn thăm dò không dám ăn nhiều.
Trong đời tôi đã từng đi theo mấy người lính Chàm bắt Ong lấy mật nhiều lần nên cũng có biết chút ít vào nghề này. Một hôm tổ chúng tôi đi vào rừng chặt cây làm Hội trường ở Hàm Trí, chúng tôi thấy một Tổ Ong mật tụ lại ở nhành cây rất lớn như cái thúng, con ong to như cọng đũa ăn cơm, chỉ cần vài con nó đớp thì cũng đủ bỏ mạng.
Trong Tổ có một anh bạn khó ưa tên Lê Đình Thái (anh đã chết chưa kịp đi HO) hầu hết ai cũng ghét anh ta, anh này lại có tánh tham ăn. Mới thấy tổ Ong tôi đã biết ngay tổ này mới đóng chưa có mật. Vậy mà anh Thái tình nguyện bắt Ong, chỉ xin lấy cái Tàng Ong còn mật thì chia đều. Tôi cũng muốn sẵn dịp này mượn Ong nó trừng trị anh ta cho bõ ghét nên nháy mắt với mấy anh bạn đồng ý. Vì sợ bị cắn nhiều quá có thể chết nên chúng tôi cho anh ta mượn thêm quần áo và bịt mặt chỉ chừa hai con mắt khi leo lên chặt cành lấy tổ Ong. Đúng ra thì phải đốt lửa un khói cho nó bay đi rồi mới chặt nhưng anh Thái không có biết, nên leo lên chặt. Ngay nhát rựa đầu tiên chém xuống chúng tôi đã chạy hơn trăm mét mới dám đứng lại nhìn, vậy mà anh cứ ráng chặt cho cành cây có tổ Ong bám rớt xuống. Kết quả thật bi thảm, đàn Ong bị động bay ngược lên cắn anh thê thảm. May mà đã bận thêm đồ dầy, mà đến khi chạy được đến chỗ chúng tôi anh té nằm trên đất hôn mê bất tĩnh.
Niềm ân hận dâng lên nghĩ mình sao ác quá vậy, lỡ anh ta chết thì sao. Chúng tôi khiêng anh về trại kịp thời để Y tá chích thuốc giải độc cho anh. Với hơn ba mươi vết cắn, móc Ong còn dính lại đầy trên lưng to như gai quâu quấu, anh ta không chết cũng là chuyện lạ. Việc này BCH trại có hỏi chúng tôi sao để cho anh bắt Ong thì chúng tôi đồng thanh trả lời đó là do anh tình nguyện tự ý làm. Chuyện này dù xảy ra đã lâu mà mỗi khi nghĩ lại tôi cảm thấy sao mình ác quá, chút nữa gây chết người, bạn bè có giận nhau thì nên đem nhau ra thoi vài cái là xong, chứ mượn đao giết người kiểu này thì …
Các tù nhân Nữ tại trại A30 Phú khánh cũng cần nên nhắc đến:
Tại đây có hai đội nữ hơn 400 người, đủ các loại thành phần từ Phục quốc, Chính trị, Hình sự đông nhất là tội vượt biên. Mấy cô ở tù nhưng sướng lắm, nhất là mấy cô vượt biên. Cha mẹ thường giàu có tiếp tế hàng tháng nên có cô chê cơm trại tự nấu lấy ăn. Thức ăn trại phát thì nhường lại cho mấy cô Hình sự và Chính trị không có thăm nuôi.
Khi Chúng tôi được chuyển từ Hàm Trí Bình Thuận ra đây, gia đình không biết ở đâu mà tiếp tế nên rất đói.
Hôm chạy lụt ra Thạch Thành, bị nhốt chung với đám tù Nhà Kỷ Luật, sáng ra chúng tôi bị đẩy lên Hòn Kén gần đó cho an toàn vì mưa bão còn tiếp tục, nhưng đội Cùm không được chuyển đi vì khó khăn.
Gặp lúc trời mưa bão lớn nên toàn trại phải di tản ra xã Thạch Thành, Hòn Kén, nhà bếp trại bị ngập dưới dòng nước Sông Ba nên chúng tôi phải đói khát cả ngày. Kế bên đội tôi trú đóng là hai đội nữ, mấy hôm nay từ khi mới chuyển ra đây có thấy bóng dáng mấy em, chỉ cách cái hàng rào kẽm gai nhưng nội quy trại cấm tuyệt đối “quan hệ linh tinh” nên không tiếp xúc được. Đây là dịp may hiếm có để tìm người quen, biết đâu trong đám này có đồng hương của mình. Đang khi không biết làm cách nào để dò tìm thì thấy có một cô tìm đến gặp và hỏi tôi có phải anh là anh Sơn ở Phan Rí không ? Lúc này có Lê Đình Thái ăng ten đứng cạnh nên tôi không dám lên tiếng trả lời, chỉ gật đầu. Cô ta lại nghĩ là không phải nên bỏ đi. Sau gần 20 phút không thấy cô quay lại nói thêm điều gì, tôi liền tìm cách lại gần cô ta và nói: Tôi là Sơn ở Phan Rí đây, cô có chuyện gì muốn nói? Cô ta bảo anh đứng chờ một chút và vào trong phòng nhà gần đó ôm ra một đống thức ăn gồm bánh tráng, cá khô, chuối khô … nhiều thứ lắm và nói là của cô P… Phan Rí gởi tặng các anh. “Buồn ngủ gặp được chiếu manh”, tôi ôm mớ đồ ăn về phát hết cho anh em trong đội và không dám nói là của mấy em tặng, chỉ nói ăn đi. Thú thật tôi không quen biết cô, nhưng dân Phan Rí Cửa thì chắc hầu như ai cũng nhận ra tôi. Sau này đội có dịp làm ở lò nấu đường gần chỗ đội nữ của các cô sàng sẩy gạo nên mới biết cô là vợ của thằng bạn học cùng lớp hồi còn ở Trung Học Bán Công Phan Rí Cửa, cô thì biết rất rõ về tôi, và cô bị bắt vì vượt biên ở Nha Trang nên bị tống vô đây trong khi chồng cô nhanh chân trốn được không bị bắt.
Quen được mấy cô rất có lợi, khi đội có dịp làm việc gần đội nữ là hôm đó anh em no lòng chiến sĩ. Tình người em gái hậu phương vẫn đậm đà như xưa, có lần các cô được trại phân công gánh Củ Sắn nước về từ chỗ trồng về giao cho trại khoảng cách chừng 1 Km. Qua bảy ngày vận chuyển các em đã tặng cho chúng tôi mấy tấn Củ Sắn (Củ đậu) giải lao, chuyện này xảy ra vì cứ trung bình các em gái hậu phương gánh ba gánh thì khi đi ngang qua bất cứ Đội nào thì các em tặng một gánh để giải lao...
Tổn thất quá to lớn mà trại biết được là do đã biết năng suất trước. Nhưng đã muộn quá rồi vì đã bị chúng tôi thanh toán một cách nhanh chóng không còn dấu vết, chẳng lẽ lại cùm cả đội nữ nên đành bỏ qua. Tôi còn nhớ lời cô Hoa, trước là Nữ Quân Nhân VNCH bị tù ở đây vì tội Phản động Phục quốc. Mấy anh cứ ăn cho đã đi, mấy anh làm khổ cực thì phải được hưởng thành quả của mình, bất quá nó biết được thì tụi em bị cùm vài ngày là cùng. Ôi người Nữ quân nhân can trường, tất cả nữ tù tại nhà tù này đều rất khí phách còn hơn đám nam nhi. Có lần mấy em còn dám làm bánh Bông lan có khắc chữ “Tặng mấy anh Chiến sĩ VNCH” giao cho đám trồng rau đội mang về . Chiếc bánh này được Đức và Bùi Anh Trinh trong toán trồng rau cho đội mang về, nhưng không dám phổ biến rộng rãi vì sợ ăng ten báo cáo thì tiêu đời cả đám.
Qua 6 năm tù đày, cuối cùng người lính VNCH cũng còn mạng trở lại nhà và chiến đấu cho một xã hội đói nghèo đang bao quanh toàn xã hội lúc bấy giờ. Tất cả bị bắt vào Hợp Tác Xã, một nơi không thua gì trại tù.
Chuyện mấy tiểu thơ ở tù:
Niềm vui nơi bờ sông không phải tới đó là hết, trong khi cả ba đang lui cui phát bờ phát bụi, dọn cho quang khu đất thì chợt nghe hai ba tràng cười trong trẻo bên kia bờ sông làm cho trái tim của Trung úy Trinh nó đập thùng thùng như cái trống chầu của ông Ban trưởng. Chẳng là bên kia bờ sông mấy cô thuộc đội nữ cũng mới vừa nhận đất xong. Khi Trung úy Trinh đưa mắt nhìn sang bên kia thì cảm thấy chán cho con mắt của mình quá, bởi vì nó nhòa nhòa chẳng thấy gì ráo trọi. Con mắt của Trung úy Trinh bị cận 2,5 độ nhưng đi tù không mang theo kính nên giờ đây đành nhìn nét mặt của Trung úy Đức để cố đoán xem bên kia có gì hay ho không. Nhưng Trung úy Đức cứ nhìn lom lom như cọp rình mồi mà chẳng bình luận một tiếng. Kẹt quá Trung úy Trinh bèn hỏi:
“Phải mấy cô đội nữ phải không mày?”
Trung úy Đức mắt vẫn nhìm lom lom mà miệng thì ừ ừ ra vẻ như là đã thấy rồi mà còn hỏi. Trung úy Trinh đành lặng yên chờ cho cái thằng đó nó nhìn cho đã. Lát sau nó mới quay lại, Trung úy Trinh hỏi:
“Mày thấy cái gì ở bển vậy?”
Trung úy Đức ngạc nhiên:
“Ủa! mày không thấy gì sao?”
Trung úy Trinh than thở:
“Tao bị cận thị 2 độ rưỡi”.
Trung úy Đức cười rồi đấm trung úy Trinh một phát:
“Tụi nữ nó nhận đất ngay bên kia đất của mình mới ngon lành chớ, từ nay thì mỗi ngày đều được coi văn nghệ”. Trung úy Trinh chưởi thầm trong bụng, chỉ có một mình mày coi chứ tao có thấy gì đâu mà coi!
Còn Trung úy Vụ thì già lắm rồi, lúc mới vào Sông Mao thì râu tóc đã bạc phơ, hơn Trung úy Trinh ít nhất là 20 tuổi. Trại bắt mọi người không được xưng hô chú cháu hay bác cháu, nhất là chữ Bác thì kỵ húy; mọi người phải gọi nhau bằng anh, xưng tôi nhưng Trung úy Trinh vẫn gọi là “bác Vụ”, còn anh em thì gọi là “bố Vụ”. Không hiểu duyên số làm sao mà từ ngày mới vào Sông Mao cho tới khi ra trại, qua biết bao nhiêu lần chuyển trại, đổi đội, đổi tổ; thế mà trước sau Trung úy Vụ và Trung úy Trinh lúc nào cũng ở chung một tổ, từ đầu cho tới cuối.
Vì lớn tuổi cho nên mỗi khi cuốc ruộng hay làm cỏ đậu, cỏ bắp mà có con chuột hay con ếch nào chạy ra thì Trung úy Vụ chỉ biết chống cuốc đứng nhìn chứ không cách chi vồ kịp. Do đó mỗi khi có loại cào cào to cỡ ngón tay cái bay ra thì anh em dành ưu tiên cho bố Vụ. Mỗi khi đang cuốc mà nghe hô: “Bố Vụ, bố Vụ!” thì Trung úy Vụ tự động buông cuốc, mắt đảo quanh trên trời xem con cào cào nó đang ở hướng nào; có khi con cào cào bay quá về phía sau thì bố ngữa người với tay ra phía sau như muốn bay ngược theo con cào cào làm cho anh em không thể nào quên được. Có lẽ hình ảnh ông già râu tóc bạc phơ mặc bộ đồ tù rách te tua, ngữa người dang hai tay như đang muốn bay theo con cào cào là hình ảnh đẹp nhất còn lưu lại trong ký ức tù tội của Trung úy Trinh.
Có khi trúng mánh, gặp cánh đồng nhiều chuột, có người bắt được tới hai ba con thì thường mang lại biếu bố Vụ con to nhất. Mỗi lần như vậy Trung úy Vụ sung sướng lắm, bố đi lấy rạ rồi thui lông con chuột, sau đó dùng một cái nan tre mà cạo cạo cho sạch chỗ lông mới đốt, miệng thì thổi thổi cho sạch. Cuối cùng nhìn bố Vụ tưng tiu trong tay con chuột vàng óng, y hệt như con cầy tơ vừa mới thui thì làm sao mà Trung úy Trinh có thể quên cho được.
Giờ đây cùng làm rau thì hai trung úy trẻ nhất định để cho trung úy già ngồi chơi hoặc là nhặt cỏ, gieo hạt chứ không để bố làm việc nặng, đội đâu có giao chỉ tiêu bao nhiêu tấn, bao nhiêu ký đâu mà lo. Trung úy Trinh đã thử thăm dò “lợi tức” ở bờ sông nhưng chẳng được con cá, con ốc nào. Nhưng Trung úy Trinh có nguồn “lợi tức” ở chỗ sân vận động và mấy đám ruộng gần bên sân vận động. Chả là trại có cái sân vận động để làm nơi trình diễn văn nghệ hoặc tổ chức đá banh cho nên mấy anh chăn bò của trại đem bò ra sân vận động ăn cỏ. Và dĩ nhiên sau khi những con bò đi khỏi thì còn lưu lại những đống phân dành cho Trung úy Trinh nhặt về trồng rau. Nhưng đó chỉ là cái cớ, còn mục tiêu đích thực của Trung úy Trinh là mấy cái đám ruộng bên cạnh sân vận động có mấy cái hang cua, hang ếch mà trung úy Trinh thường đảo qua thăm chừng cách 2 hay 3 ngày. Vì nó trước mặt cái chòi gác của ban chỉ huy cho nên không có tay tù nào được quyền héo lánh tới đó, ngoại trừ cái anh chăm chỉ ngày nào cũng gánh đôi quang đi hốt phân bò; dẫu cho có đôi khi anh ta đặt đôi quang xuống mà thò tay xuống ruộng lôi lên con cua, con ếch thì cũng không sao.
Có lần Trung úy Trinh vừa mới lôi một con cua trong hang ra, ngẩng nhìn lên thì bắt gặp cặp mắt tròn xoe, đen lay láy của cô ca sĩ tí hon Đan Phượng. Lúc Đan Phượng bị bắt vào trại vì tội vượt biên thì đâu mới 15, 16 tuổi, mà tác người cũng bé lắm cho nên được trong trại coi như là cô tù em út. Nhìn thấy con cua trong tay trung úy Trinh thì Đan Phượng hỏi:
“Nó không kẹp chú à?”
Trung úy Trinh nói dóc:
“Ăn thua gì, nó kẹp chú thì chú kẹp lại; nhưng mà chú to con hơn cho nên nó thua là cái chắc”.
Cô ca sĩ nhỏ cười khanh khách:
“Chú nói chuyện vui quá”.
Thế rồi cô ta lò dò đi theo xem Trung úy Trinh móc các hang khác. Tới hang gần cuối cùng thì Trung úy Trinh sờ thấy con rắn nước đang nằm trong hang cua, chắc có lẽ nó mới chén xong con cua lột trong hang. Trung úy Trinh mằn tìm cái đầu của nó rồi bóp cổ lôi ra. Đan Phượng thấy trên tay Trung úy Trinh một con rắn to tướng đang cố sức xiết quanh cánh tay thì ù té chạy ra xa. Trung úy Trinh nhìn lại con rắn thấy thuộc loại “tầm cỡ” thì thích quá, giơ tay vẫy chào cô ca sĩ rồi tới lấy quang gánh đi về!
Nhờ lần đó nghe tiếng cười của cô nhỏ mà sau này có lần nghe tiếng cười bên kia sông, Trung úy Trinh hỏi Trung úy Đức:
“Ủa bữa nay con bé Đan Phượng ra làm rau à?”
Trung úy Đức nhìn Trung úy Trinh nghi ngờ:
“Mày nói mày cận thị nhưng sao mày biết là bé Đan Phượng?”
Trung úy Trinh lại nói dóc:
“Thì tao nghe cái âm thanh của đứa bé cho nên tao đoán là Đan Phượng”.
Trung úy Đức phục quá bởi vì lỗ tai của anh ta nghe âm thanh nào cũng như âm thanh nào (thực ra thì lỗ tai của Trung úy Trinh cũng vậy chớ có khác gì đâu). Thường ngày thì anh ta phải thuyết minh cho Trung úy Trinh là hôm nay có em nào, đang làm gì. Mặc dầu không được nhìn thấy nhưng Trung úy Trinh cũng cảm thấy hạnh phúc lắm. Trung úy Trinh không biết làm thơ cho nên có đôi lúc nghĩ giá mà mình biết làm thơ thì biết đâu chẳng có những bài thơ cũng thuộc loại “để đời” chứ chẳng chơi. Cũng có đôi lúc buổi chiều đứng bên bờ sông, Trung úy Trinh liên tưởng tới mấy câu thơ của Hoài Khanh:
“Tôi đứng bên này bờ dĩ vãng, Thương về con nước ngại ngùng xuôi.
Những người con gái bên kia ấy, Không biết chiều nay có nhớ tôi?”
Ừ, rồi đây mười năm sau, hai mươi năm sau, ba mươi năm sau; những cô gái này đi về đâu và mình đi về đâu?
Rồi cuộc sống nên thơ đó có một ngày trở nên có vấn đề. Một buổi sáng kia, gần giờ kẻng giải lao, trung úy Trinh chợt thấy Trung úy Đức đang nhìn lom lom xuống khúc sông vắng, chỗ có cái chòi ngồi ăn trưa của 3 Trung úy. Trung úy Trinh bước tới nhìn theo thì thấy một cô con gái đang bơi qua sông, cô bơi chỉ một tay, còn một tay nâng một giỏ đồ đan bằng tre. Tim trung úy Trinh đập thình thịch như đang chứng kiến người nào đó vượt trại, bởi vì công an nó bất chợt nhìn thấy thì nó có quyền bắn như chơi. Sau khi bước lên bờ thì cô gái sửa lại quần áo rồi xách giỏ đồ xăm xăm đi về phía cái chòi. Không hẹn mà nên, Trung úy Trinh và Trung úy Đức cùng trườn xuống cái chòi một lúc.
Khi thấy hai trung úy xuất hiện thì cô gái vừa vắt áo vừa nói:
“Tụi em có chút đồ ăn, mang sang biếu mấy anh”.
Trời đất quỷ thần ơi, thú thật lâu nay Trung úy Trinh có đôi lúc cho phép hồn mình bay bổng về phía bên kia bờ sông để toan tính làm thơ nhưng không bao giờ tưởng tượng có cảnh này. Hai trung úy đồng loạt lắc đầu quầy quậy:
“Đâu có được, lẽ ra là chúng tôi mới phải là những người lo cho mấy cô mới phải, chớ đâu lại có chuyện mấy cô lo cho chúng tôi. Thôi cô mang về đi, chúng tôi cảm động lắm nhưng xin cám ơn mấy cô”.
Nhưng cô gái không nói gì thêm, chỉ đứng đó vắt áo, hết tà bên phải rồi sang tà bên trái. Lúc đó Trung úy Trinh mới nhìn kỹ thì thấy cô này là người Hoa, chắc là bị bắt vì tội “Người Hoa vượt biên”. Làm sao mà Trung úy Trinh có thể quên cái khuôn mặt đó cho được. Lại thêm cái bóng nắng mặt trời nó chiếu xiên xiên qua bụi cây rọi khoảng tối khoảng sáng trên khuôn mặt đó làm cho trung úy Trinh nghĩ rằng chắc phải bỏ chuyện toan tính làm thơ mà có lẽ nên chuyển sang làm họa sĩ!
Chợt Trung úy Đức hụp đầu xuống la nhỏ:
“Cán bộ tới kìa”.
Trung úy Trinh vội rùn người xuống theo phản xạ, cầm giỏ đồ nhét vào tay cô gái, tay kia đẩy nhẹ cô gái về phía trước nhưng cô trì lại chứ không chịu đi. Biết là cô ta bắt mình phải nhận, mà nhìn lên thì tay áo vàng đang dừng lại nói gì đó với Trung úy Vụ. Sợ quá Trung úy Trinh đành nhét vội giỏ xách xuống dưới gầm bàn rồi đẩy cô gái lần nữa, miệng nói:
“Thôi được rồi, thôi được rồi, cô về đi chứ không thôi cán bộ tới rồi đó”.
Lúc đó cô gái mới chịu đi như chạy xuống bờ sông rồi chuồi mình xuống nước. Lúc cô bơi sang tới nửa bên kia của dòng sông thì cán bộ Hoàng cũng vừa tới:
“Mấy anh đi làm rau hay đi coi người ta tắm đây?”
Trung úy Đức nhanh miệng:
“Đâu có đâu cán bộ, tụi tôi đang coi cô đó vớt cái thùng tưới rau”.
Cán bộ Hoàng nạt:
“Thôi đi làm đi, ở đó mà coi!”
Sau đó thì cả hai trung úy cuốc đất bên luống rau mà trong lòng cùng một ý nghĩ rằng không biết cô ta tên gì? Con cái nhà ai? “Đi đâu mà phải mang tai bất kỳ” (Câu này là của cụ Nguyễn Đình Chiểu chứ không phải của Trung úy Trinh). Giờ đây ngồi nghĩ lại Trung úy Trinh nhớ rõ ràng là hôm đó trời có đẹp hơn mọi khi, mà gió cũng dịu hơn mọi khi; rồi nhìn ai cũng có cảm giác hình như mọi người đều tốt hơn mọi khi. Tới gần kẻng nghỉ trưa thì Trung úy Đức hỏi Trung úy Trinh:
“Tính sao với cái giỏ đồ đây?”
Trung úy Trinh nói:
“Nấu một bữa chè chiều nay, rồi còn lại thì giao cho bác Vụ”. Trung úy Đức gật đầu đồng ý.
Nhưng hai trung úy chưa kịp tìm hiểu xem cô tiểu thư con cái nhà ai, tên họ là chi thì vài hôm sau Trung úy Đức sau khi nhìn vào toán làm rau phía bên kia bổng hoảng hốt la lên:
“Chết cha, bữa nay thay người làm rau, con nhỏ người Hoa không thấy nữa”.
Trung úy Trinh sửng sờ:
“Mày coi kỹ lại đi, sao có chuyện như vậy được”.
Trung úy Đức không trả lời nhưng mặt mày buồn thiu. Trưa hôm đó Trung úy Đức xâm mình lôi ra cái giỏ tre của người đẹp, quyết định bơi qua sông lấy cớ trả cái giỏ để hỏi thăm. Trung úy Trinh cản mấy cũng không được, sợ tụi công an gác trên chòi canh nó phát giác được thì nó giết chớ chẳng chơi. Canh cho Trung úy Đức bơi qua sông mà Trung úy Trinh có cảm giác như Cao Tiệm Ly tiễn Kinh Kha sang Tần.
Đến khi Trung úy Đức trở lại cho biết là cô người Hoa đã được phóng thích sáng hôm nay. Trung úy Đức có cho biết tên nhưng lâu quá rồi cho nên Trung úy Trinh không còn nhớ, hình như chữ đầu là Cẩm...; ước gì có ai cho biết giờ này cô tiểu thư phiêu bạt ở phương trời nào, sống chết ra sao thì có lẽ lúc chết Trung úy Trinh cũng cảm thấy “vui lòng nhắm mắt!”
Từ đó Trung úy Trinh thôi để tâm hồn mình bay bổng sang bên kia sông bởi vì biết chắc không đi tới đâu mà nguy hiểm quá, nguy hiểm một cách không đáng. Nhưng tay trung úy Kinh Kha thì không vậy. Đã qua được một lần thì nó ăn quen cho nên anh ta tìm cách bơi qua sông dài dài, khi thì đem về chén cà, khi thì đem về nắm ớt. Mới đầu thì Trung úy Trinh còn canh cho anh ta “sang sông” nhưng thét rồi bảo anh ta có gan thì cứ đi một mình chứ mệt quá. Vậy mà anh ta cũng đi dài dài.
Kể Chuyện Trong Tù:
Bài này của BAT và Cao H Sơn
Quà Tặng của Đội Nữ:
Chiếc Bánh Bông Lan đậm nghĩa tình:
Sau trận lụt, tới ngày Noel thì anh ta bê về một cái xoong và đem giấu dưới bụi cây, không cho ai coi có cái gì trong đó. Trung úy Trinh cũng chẳng hỏi, chắc không cháo thì chè chứ có quỷ gì. Lát sau anh ta lôi ra đem giấu chỗ khác. Rồi trước khi kẻng làm việc buồi chiều thì lại đổi chỗ giấu một lần nữa. Buồn cười quá Trung úy Trinh hỏi cái gì vậy, anh ta cười cười không nói, cũng vừa lúc kẻng làm việc. Đâu được cỡ 1 tiếng đồng hồ sau thì anh ta lại lấy cớ đi uống nước, chắc là để đổi lại một lần nữa. Lát sau anh ta trở lên, anh ta nói với Trung úy Trinh:
“Mày nghĩ coi có cách nào mang cái xoong đó vào trại không?”
Trung úy Trinh ngạc nhiên quá, mang cái xoong thì có gì đâu mà phải nghĩ cách, thường ngày chẳng mang hoài hoài đó sao; nhưng quan trọng là cái gì ở trong xoong mới là vấn đề. Trung úy Trinh hỏi kháy:
“Bộ trong xoong đựng chất nổ hả?” Trung úy Đức cười như mếu:
“Không phải chất nổ, nhưng mà nó bắt được thì còn hơn chất nổ”.
Trung úy Trinh giật mình:
“Vậy là cái gì?”
Trung úy Đức đáp:
“Để lát nữa giải lao tao đưa mày coi”.
Tới giờ giải lao Trung úy Trinh theo Trung úy Đức xuống chòi. Trung úy Đức lôi cái nồi ra, rồi giở nắp chìa ra trước mặt Trung úy Trinh. Đó là một ổ bánh bông lan, trên mặt có trang trí bông hoa bằng kem và một hàng chữ: Mến tặng các anh chiến sĩ VNCH. Trung úy Trinh tá hỏa. Nó mà bắt được thì các cô chết chứ không phải thằng Kinh Kha này chết. Bực quá Trung úy Trinh cự:
“Dẹp mày đi! Đã vậy mà lại còn đòi đem vô trại!”
Trung úy Đức phân trần:
“Mấy cô muốn cho anh em đọc chứ đâu phải cho tao với mày đọc. Nhưng mà làm sao cho anh em đọc được đây?”
Trung úy Trinh không nói không rằng bỏ đi một nước. Trung úy Đức cất cái nồi rồi chạy theo Trung úy Trinh:
“Mày thấy mấy em viết có cảm động không? Bây giờ làm sao đem vô?” Trung úy Trinh có nhiều cách đem vô nhưng trước tiên là phải tính tới chuyện đen nhất là lỡ lúc vô cổng mà bị phát hiện thì phải phi tang ngay tại chỗ. Trung úy Trinh bàn với Trung úy Đức là cắm một số que cây từ đáy nồi lên quá mặt cái bánh, xong rồi trải lên trên một lớp ni lông, xong lại phủ bên trên một lớp rau cải, rồi đậy nắp lại; hễ trật tự hay công an bắt dở ra khám thì dùng tay ấn mạnh lớp rau cải xuống rồi ngoáy một phát để phi tang trước khi thằng trật tự dở lớp rau lên xem ở dưới là cái gì.
Trung úy Đức đồng ý rồi trở lại chòi làm theo kế hoạch. Lát sau anh ta xách cái nồi đi lên:
“Tao làm xong rồi nhưng mà hồi hộp quá, tao sợ không đủ bình tỉnh lúc qua cổng, hay là mày xách đi, mày bình tỉnh hơn tao”.
Trung úy Trinh rụng rời chân tay, cái thằng ông nội này nó viện cớ nhát gan để nó dụ mình xách vô cho nó. Trung úy Trinh bèn nói:
“Nếu mày không đủ can đảm thì phi tang hàng chữ đó ngay bây giờ, rồi khi vô cổng nếu tụi nó có bắt được thì tao sẽ nhận là tao đem bột ra ngoài làm bánh để ăn Noel. Mọi chuyện để tao chịu cho”.
Trung úy Đức gắt:
“Nói như vậy thì nói làm gì. Hàng chữ đó mới là quý giá chứ còn cái bánh thì tao với mày với bố Vụ ăn hết là xong”.
Trung úy Trinh nghĩ cũng phải. Nhưng mà còn một cách khác, đó là đổi cái nồi này cho cái nồi của Trung úy đội trưởng là chắc ăn nhất. Thường ngày đi làm anh ta cũng mang theo cái nồi cỡ đó. Bây giờ thì trước khi vô cổng sẽ tráo nồi bởi vì nồi của đội trưởng không bị xét.
Cái mánh này đã từng diễn ra một lần. Số là trước đó cỡ một tháng đội đi làm ở khu Mai Liên, Trung úy “Khang mèo” có bắt được một con chó con của dân bị chạy lạc giữa đường; nhưng Trung úy Khang không nghĩ ra cách gì đem vô trại được, túng quá Trung úy Khang bàn với anh Đội Trưởng. Anh ta cười cười:
“Đâu? Cái bị của mày đâu? Đổi cho tao”.
Có vậy mà nghĩ không ra, chả là lúc vô cổng thì đồ đạc của đội trưởng không bao giờ bị khám. Lần đó con chó được đưa vào cổng an toàn! Đội trưởng gởi cho anh em trong đội nhà bếp nuôi, đặt tên nó là con Bích La, tức là nói lái lại chữ “Ba lít”, ý nói nếu ngã con cầy này ra thì giá chót cũng tiêu được 3 lít rượu đế. Giờ đây mà giở cái mánh này ra thì tốt nhất, nhưng mà cũng phải tính tới chuyện phải báo cho anh Đội trưởng nhà mình biết trước khi tráo cái nồi, để lỡ có gì thì anh ta phi tang nếu như đen đủi lắm là bị xét. Nhưng chắc gì anh ta chịu tham dự trò này, mất đầu như chơi. Vả lại sẽ không có thì giờ để thuyết phục anh ta, bởi vì chỉ gặp đội vài phút đồng hồ lúc xếp hàng trước cổng. Ngoài ra có lẽ hết 90% là bị từ chối. Vì vậy chắc có lẽ là Trung úy Trinh phải mang vào thôi chớ con nhà Đức yếu vía thật, sợ nó không đủ bình tỉnh để ngoáy một phát theo kế hoạch.
Đang còn phân vân thì như có trời xui đất khiến, cửa hông trại mở ra cho hai anh vệ sinh trại là Thiếu tá Vinh và Đại úy Nguyên đem rác ra đổ, chuyện này lâu lâu mới có một lần, bởi vì thường các anh đổ rác buổi sáng. Trung úy Đức chụp vội cái nồi rồi chạy tới cái cổng có tên trật tự đang đang đứng canh ở đó, miệng la lên: “Cho tôi hâm ké cái nồi thức ăn”. Vừa nói vừa ba chân bốn cẳng chạy vào phía bếp để đặt cái nồi vào chỗ dành riêng cho anh em hâm lại thức ăn riêng mỗi khi đi làm về. Tên trật tự cũng không nói gì vì Trung úy Đức thường làm cái mững này mỗi khi cổng sau được mở. Thế là Trung úy Đức xẹt tới chỗ bếp, gần tới bếp anh ta ngoái lại thấy tên trật tự đang theo dõi Thiếu tá Vinh và Đại úy Nguyên thì xẹt tiếp vào nhà giam cất cái nồi, rồi ba chân bốn cẳng chạy ra cổng trước khi hai anh vệ sinh trở lại. Trung úy Trinh phục cái thằng Kinh Kha này quá, nó có cái gan lớn mà cũng thông minh quyền biến quá trời. Nó phản ứng tới nỗi Trung úy Trinh có giỏi tưởng tượng cũng không tưởng tượng kịp. Ra tới luống rau thì Trung úy Đức nằm sải, gối đầu trên luống rau mà thở để lấy lại hồn vía.
Tối hôm đó có một màn các anh chiến sỹ VNCH ăn lễ Noel rất trọng thể trong trại tù A.30. Vì cái bánh nó to chỉ bằng cái xoong, mà các anh chiến sỹ ta thì đông quá cho nên mỗi người chỉ được một miếng nhỏ bằng hai ngón tay để lấy thảo! Còn hàng chữ thì chỉ có một số anh em “thân tín” mới được xem, nhưng số thân tín này hầu hết là những tay có cái gan lớn, còn những tay yếu bóng vía thì không có hân hạnh được xem.
Ở đời trong nỗi khổ cũng có cái vui, mà cái vui này nó quý hóa quá, nếu Trung úy Trinh cứ giữ nó để thưởng thức một mình thì e rằng đắc tội với mấy cô tiểu thư con nhà ai đó. Sau này nhiều anh em ngồi trên đất Mỹ nhắc lại cái bánh đêm Noel mà vẫn còn thắc mắc không biết do đâu có được cái bánh đầy ý nghĩa đó. Năm 2008 Trung úy Trinh đọc được bài viết “Tiểu thư ở tù” của tiểu thư Thanh Mai thì một trời kỷ niệm với những tên tuổi quen biết hiện về. Thuở đó cô Thanh Mai là MC của đội văn nghệ A.30. Còn cái cô tác giả của ổ bánh thì tên là P., dân Phan Rí Cửa, bị bắt vì tội “ra đi ngoài vòng trật tự”. Sở dĩ phải viết tên tắt là vì chưa được phép của cô, e rằng cô không đồng ý. Còn anh em hay chị em nào đã từng ở A.30 thì hẵn biết P. là ai.
Câu Chuyện chiếc Bánh Bông Lan:
Đoạn này do Son H Cao viết vì BAT không biết vụ này.
Sau khi hai thằng trời đánh bậm gan đem được cái bánh Bông Lan có hàng chữ Tặng Các Anh Chiến Sỹ VNCH, do em gái hậu phương tặng vô được nhà 13, thì tôi nói nhỏ với hai thằng trời đánh không sợ trời đất này phải thật cẩn thận đừng để ai biết ngoài những anh em thật tin tưởng, và sau khi cho ngắm xong thành quả phải chia nhau vô bụng ngay. Nếu việc này mà bị trại biết được thì chỉ có trời cứu bọn mình, có thể chúng sẽ lôi ra Đèo Cả bắn như em Nguyễn Đỏ cũng có.
Chiếc bánh nhỏ nướng dã chiến bằng xoong gang nhưng rất ngon, lại là quà của đồng hương đội nữ gởi tặng cho anh em mình, thành ra rất trân quý. Mỗi người một miếng nhỏ sau khi xóa hết đi hàng chữ nên chả sợ thằng ăng ten nào báo cáo lấy điểm nữa, nếu mà để Lê Đình Thái biết được vụ này thì nguy, chúng tôi mời nhau công khai. Mấy bạn không biết thì đặt câu hỏi, cái banh bông lan ngon cỡ nào mà đứa nào cũng dành ăn.
Thế mà không biết sao chuyện chiếc bánh Bông Lan tặng các anh Chiến Sỹ VNCH này lại lọt qua đội bên cạnh của anh Nguyễn Hữu Hào mới chết. Mới mờ sáng thì Thiếu úy Trần Văn Xuân mò qua gặp tôi hỏi chuyện, thì ra thằng trời đánh thánh đâm Đức nó đi khoe thành tích. Xuân nhà ta còn bàn với tôi là phải làm lại cái bánh đáp lễ.Trời Phật ơi! Làm thì được rồi nhưng làm sao gởi qua đó đây?
Xuân bàn với tôi, để Chúa Nhật không đi làm, anh ta sẽ làm một cái, tôi thì chịu trách nhiệm giao qua cho đội Nữ để cám ơn. Tôi cứ tưởng anh ta nói chơi, ai nhè đám bên đội anh ta làm thiệt. Một cái bánh Bông Lan trình bày hoa hoè thật lớn rất đẹp, bạn Xuân là Đại Đầu Bếp mà, anh ta biết làm mọi thứ bánh ngon như ở tiệm bánh.
Tôi suy nghĩ đủ cách để làm thế nào trao qua đội Nữ mà không bị khép tội “Quan hệ linh tinh”. Ngay vòng rào Đội Nữ và Đội anh Xuân có cái tôn gác, lúc nào cũng có tên bò vàng ngồi trên quan sát xuống thì làm sao chuyển qua được.
Thôi thì đành đóng vai mặt lì như người “Hà Nội” ra ngay cổng chính gặp ngay tay Chuẩn Úy Công An chịu trách nhiệm kiểm soát ở cổng xin nhờ hắn cho trật tự trại chuyển giúp, với lý do chính đáng là bấy lâu nay chị em đội Nữ thường gởi cho nhà 13 rất nhiều rau mà Đội Nữ trồng được, ăn không hết. Nay không có gì anh em tôi hùn nhau làm cái bánh gởi trả để cám ơn. Cái lý do này rất hợp lý.
Được biết năm 1990, anh Trần Văn Xuân ra lại Trại để xin tấm giấy ra trại để đi HO thì hắn ta đã lên Đại úy và làm Trại Trưởng A30 Phú Khánh.
Tên Cán bộ Đức công an Trại, nhìn tôi đăm đăm và rất ngạc nhiên vì hồi giờ làm gì có chuyện này xảy ra. Cuối cùng thì anh ta cũng đồng ý và kêu Trật Tự Bình cầm cái bánh chuyển qua đội Nữ, không có chuyện rắc rối gì xảy ra sau đó. Nói theo kiểu VC thì tôi đã hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc mà các bạn bè tin tưởng giao phó, và chỉ mình tôi mới dám làm, kể ra tôi cũng thuộc loại điếc không sợ súng đó nha.
Chuyện người tù Nguyễn Văn Đức:
Bây giờ xin kể tiếp:
Sau Noel thì hoạt động của Trung úy Đức ở phía bên kia bờ sông gần như là mỗi ngày. Mới đầu thì còn 15, 20 phút, sau thì có hôm lên tới 2,3 tiếng, bắt Trung úy Trinh phải làm thế thấy mụ nội (chứ không thì lấy đâu ra rau cho cả đội ăn?). Trung úy Trinh phàn nàn thì Trung úy Đức nói mày thông cảm, hay là để tao giới thiệu em này em kia cho mày, rồi thì mày qua một bữa, tao qua một bữa. Trung úy Trinh đế thèm vào cái món mồi nhử của thằng Kinh Kha, Trung úy Trinh nói tao chỉ cầu trời cho bữa nào mày bị tụi nó bắt được thì tao khỏe thân. Trung úy Đức cười giã lã. Không biết từ khi nào hắn đã nghĩ ra cách nhờ bố Vụ canh chừng giùm mỗi khi hắn ta “sang sông”, hễ có bóng dáng áo vàng từ xa là bố Vụ phát tín hiệu cho cái thằng mê gái đang ở bên kia sông biết mà bơi về.
Không biết nó lấy lòng bố Vụ bằng cách gì, nhưng một hôm nó đền bù cho Trung úy Trinh bằng cách hỏi Trung úy Trinh có thích thưởng thức chất men cay giữa cái đất trời tao loạn này hay không. Nghe nó hỏi như vậy thì Trung úy Trinh tủi thân muốn rớt nước mắt; hồi nào vô bar thì Trung úy Trinh chỉ uống Courvoisier chứ đâu thèm uống Martel hay Hennesy, vậy mà giờ đây trải qua hằng thế kỷ dâu bể mà đâu có biết cái mùi men nó như thế nào. Không phải Trung úy Trinh là dân chơi trong mấy cái quán bar, nhưng mà cuộc đời chinh chiến triền miên nó khiến xui ra như vậy. Chả là từ thời còn nhỏ Trung úy Trinh sống trong gia đình có cha mẹ dạy học, lại theo đạo Tin Lành cho nên mãi đến 20 tuổi Trung úy Trinh chưa biết một giọt rượu hay giọt bia. Nhưng tới khi ra trường về chỉ huy một đơn vị Biệt kích mà không biết uống rượu thì lính nó không phục, nó kêu là ông Nguyễn Thị. Thế rồi đệ tử nó dẫn ông thầy đi tập uống bia, uống rượu, đánh bạc và tập chưởi thề. Thét rồi Trung úy Trinh chưởi thề nghe cũng ngầu lắm. Cũng may là nhờ cách mạng “giải phóng” cho nên mấy cái tật xấu nó cũng chừa đi. Nói cho ngay là không chừa cũng không được vì có đâu mà chừa với không chừa.
Giờ đây nghe thằng Kinh Kha nó nhắc lại thì Trung úy Trinh ngậm ngùi nhớ lại những lần ngồi giữa trận tiền mà ngữa cố uống rượu chờ “giặc” tấn công. Thuở đó chàng trai trẻ Bùi Anh Trinh không gan lỳ bằng ai nhưng mà cũng ngầu lắm. Nhiều khi đồn bị vây cả tháng trời mà Chuẩn úy Trinh xin thả dù tiếp tế phải có kèm theo vài ba bi đông rượu gạo của tổ tiên Việt Nam mình mà ông bà đặt tên là rượu “Đế” (hình như đặt tên như vậy để trước là cúng ông Thượng Đế, sau là để cho con cháu của Thượng Đế uống vào để tạm quên đi trước mắt “giặc” nó làm dữ quá!). Đôi khi ngoài kia giặc nó bắn đì đùng mà mấy ông con Trời ngồi trong này cụng ly ngâm bài Lương Châu Từ của Vương Hàn: “Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”.
Do đó hễ nhắc tới cái vị cay cay của nước cúng ông Trời là Trung úy Trinh nhớ tới những ngày liều mạng. So với những ngày “học tập cải tạo” thì đâu có ra cái thống chế gì. Tuy nhiên giữa cái chốn đất trời ly loạn này mà rớ được tới nó thì cũng hợp tình hợp lý quá đi chớ.
Dĩ nhiên khi nghe Trung úy Đức hỏi thì Trung úy Trinh đành gật đầu chớ muốn nói cũng không nên lời. Trung úy Đức bèn hỏi tửu lượng bình thường của Trung úy Trinh là bao nhiêu? Trung úy Trinh đáp là trước đây là một lít nhưng nay thì không chắc. Nó nói nó cũng một lít nhưng nay chắc chắn là cái “đô” đã hạ xuống rồi. Thôi thì nó sẽ gởi mấy cô mua cho 1 bi đông, tức là một lít, mỗi thằng nửa lít thì cũng đủ vừa với cái đô của tù cải tạo.
Thế rồi một buổi sáng đẹp trời kia nó bơi về với cái bi đông trên tay. Đang giờ ăn trưa nó mở nắp mời mỗi người một nắp. Xong rồi đóng nắp lại hẹn cùng nhau chia sẻ vào cuối giờ, dĩ nhiên là mọi công việc làm rau phải hoàn tất sớm trước thường lệ cỡ 2 tiếng đồng hồ. Trung úy Vụ từ chối, nói rằng hai anh cứ thưởng thức đi chứ tôi thì một nắp hương hoa là đủ rồi. Đến chiều tới giờ G đã điểm thì Trung úy Vụ cầm cái cuốc giả vờ xới đất, canh cho hai đệ tử lưu linh ngồi giữa hai luống rau vừa uống rượu vừa bàn chuyện nhân tình thế thái. Đồ đoàn để đi về thì đã đặt sẵn một bên. Giờ đây nghĩ lại giá mà có ai quay phim, quay cái cảnh hai thằng tù bận hai bộ đồ vá trăm miếng ngồi xếp bằng uống rượu bên bờ sông lộng gió thì chắc là hay hết biết!
Vừa cạn bi đông thì cũng gần tới giờ về, bố Vụ từ đằng xa ra hiệu đi về, bố đi trước; hai trung úy vẫy tay ra hiệu biết rồi và ngồi nán thêm một chút bởi vì kẻng nghĩ việc xong thì vẫn còn 15 phút nữa đội mới về tới cổng. Trung úy Trinh cảm thấy quá đã, ai ngờ đâu thân tù tội mà còn có dịp ngồi bên bờ sông nhâm nhi để nghĩ tới cuộc đời dâu bể. Trung úy Trinh lót cái mũ rộng vành may bằng bao cát xuống luống rau đất khô rồi ngã lưng gối đầu lên cái mũ mà ngắm nghía trời mây. Thấy vậy Trung úy Đức cũng làm theo, hai thằng vừa ngắm trời vừa nói chuyện nhân tình thế thái. Thế rồi có lẽ vì cái bờ đất nó êm quá cho nên hai trung úy ngủ đi lúc nào không biết. Tới khi tỉnh dậy thì thấy Trung úy “Khang mèo” vừa nắm cổ áo giật giật vừa kêu:
“Dậy! dậy, đội về tới rồi”.
Trung úy Trinh cố nhớ lại mình đang ngồi ở đâu đây? Mà sao lại có cái thằng này ở chốn này?” Trong một chớp mắt Trung úy Trinh chợt hiểu hết mọi chuyện, vội choàng dậy vơ vội đồ đạc. Trung úy Khang chỉ mặt hai trung úy:
“Tụi mày uống rượu phải không?”
Nói rồi nhanh chân chạy về trước. Trung úy Đức nói vói theo:
“Đừng có nói với thằng Đội Trưởng nghe mày”.
Tới nơi đội đang xếp hàng trước cổng thì từ xa anh em đã la ó chưởi rủa lung tung. Bởi vì trước khi vào cổng thì đội trưởng phải kiểm lại quân số trước khi xin phép cán bộ cho vào cổng, nhưng đếm tới cuối thấy thiếu hai người thì Trung úy Vụ cho biết còn hai tên làm rau chưa về kịp. Trung úy Đội trưởng bèn cho Trung úy Khang đi kêu. Trong khi đó anh em phải đợi trước cổng; mà thời gian đợi trước cổng nó quý hóa vô cùng, bởi vì đội nào vào trước sẽ được đi lấy nước uống trước, được xí mấy cái bếp trước, nghĩa là mọi thứ ưu tiên khi chiều tắt nắng. Thế mà cả bao nhiêu con người phải đợi hai cái thằng mặt mẹt; mà phải hai cái thằng này có gặp sự cố gì cho cam, đã được làm rau gần cổng, khỏi phải đi xa thế mà không biết quý trọng cái sự nôn nóng của anh em.
Nhìn cái mặt hằm hằm của Trung úy đội trưởng thì biết là thằng “Khang mèo” đã mật báo cho biết chuyện hai tên giặc uống rượu rồi. Sau khi báo cáo cán bộ xong, Trung úy đội trưởng đi ngược tới cuối hàng, chờ Trung úy Trinh và Trung úy Đức đi ngang thì chụp nắm tóc đằng sau ót, vừa gặc gặc vừa nghiến răng nói nhỏ:
“Mấy ông sướng quá rồi mọc lông phải không? Mấy ông sướng quá mà”.
Buông thằng này ra anh ta lại chụp tóc thằng kia. Dĩ nhiên là anh ta làm rất lẹ và kín đáo để cho tay cán bộ ở cổng không trông thấy được. Tới gần cổng thì Trung úy đội trưởng xếp hàng đi sau chót để cho cán bộ đếm. Vừa qua khỏi cổng thì hai trung úy co giò phóng lẹ chớ không thôi thằng đội trưởng nó thấy gai mắt nó lại cho thêm một bài học nữa. Nghĩ tức cái thằng “Khang mèo” mót rác, chuyện có như vậy mà cũng đi mét cho được. Sau đó hai trung úy phải nấn ná loanh quanh ở ngoài, chờ Trung úy đội trưởng cất đồ đạc đi lãnh cơm nước thì mới lủi vào phòng. Hú vía. Đội trưởng bạn hiền chỉ hơn Trung úy Trinh và Trung úy Đức 2 tuổi. Hắn mày tao với hai trung úy thoải mái nhưng hai trung úy thường kêu hắn bằng anh xưng tôi, lâu lâu cao hứng thì cũng mày tao búa xua. Còn hễ khi nào đội trưởng gọi Trung úy Trinh bằng ông thì có nghĩa là có chuyện.
Mối Tình lãng mạn với mấy em đội nữ:
Rồi có một tối kia, ở trong phòng giam, Trung úy Đức bò qua chỗ Trung úy Trinh nói lời ỉ ôi, xin Trung úy Trinh cái thánh giá để làm quà tặng em. Chả là trong những ngày đi kiếm phân về trồng rau, Trung úy Trinh thấy mấy đội kia họ đi lấy phân hầm cầu của trực trại đổ mỗi buổi sáng, đem về ủ với tro bếp cho hoai rồi bón phân. Trung úy Trinh cũng tính làm như vậy nhưng Trung úy Vụ nói cứ kiếm cái bãi đỗ phân xa nhất, tức là từ năm ngoái năm kia thì phân chỗ đó hẵn đã hoai, không cần phải ủ vừa dơ vừa tốn thời gian. Trung úy Trinh bèn xách cuốc tới phía đầu xa nhất của bãi phân mà móc đất ở chỗ đó đem về làm phân bón. Quả nhiên rất hiệu nghiệm, rau cỏ tốt mù trời. Có một buổi nọ Trung úy Trinh ngồi bóp mấy cục phân đất cho tơi vụn ra để bón vào gốc rau thì phát hiện ra một lô Thánh giá của Công giáo, chữ Vạn của Phật giáo, hình trái tim có con mắt nằm trong tam giác của Cao Đài. Chứng tỏ là người ta đã tịch thâu những thứ này của tù nhân rồi đem thảy vào hầm cầu tiêu! Tất cả được chạm khắc tinh vi bằng những loại gỗ quý như trắc, cẩm lai, mun hay bằng mi ca kính máy bay, nhôm inox. Lại có mấy sợi dây chuyền đánh bằng những sợi dây đồng giống y như dây chuyền bằng vàng.
Trung úy Trinh xúc động lắm, cứ ngậm ngùi cho các tôn giáo, lại nghĩ nếu mà tôn giáo thiêng liêng sao không vặn cổ mấy thằng này cho chết hết cho rồi mà lại để cho chúng đọa đày thiên hạ như thế này đây. Rồi vì tiếc công chạm khắc của những nghệ nhân ẩn danh, Trung úy Trinh bèn lựa ra được 7 tác phẩm đẹp nhất, để riêng trong cái rổ tre để giờ giải lao thì đem xuống sông rửa. Trung úy Đức đi ngang thấy mấy thứ đó thì cúi xuống coi, xong rồi hỏi Trung úy Trinh là lấy mấy thứ đó làm gì, nó đâu còn linh thiêng nữa, vì đã nằm trong hầm cầu tiêu. Trung úy Trinh nói vì muốn lưu lại những tác phẩm để đời mà sẽ không tìm ở đâu có được. Còn linh thiêng thì linh thiêng ở trong lòng, cho nên lấy từ nơi đó ra thì lại càng linh thiêng.
Vậy mà bữa nay thằng ông nội này lại tới hỏi xin để tặng em thì e có ngày nó bị thánh thần vặn cổ quá, bởi vì nó đã biết không linh thiêng mà cũng chẳng còn ý nghĩa thiêng liêng. Nhưng nó đã hỏi mà mình không đưa thì còn là anh em cái nổi gì. Trung úy Trinh đứng dậy với tay lên giá lôi cái bọc có mấy tác phẩm kia đưa cho nó lựa. Không ngờ làm như vậy là thất sách bởi vì thằng ông nội không lấy một món mà lấy tới 4 món đẹp nhất. Trung úy Trinh chụp lại nhưng hắn đã nhanh chân bò ra xa, nhìn 3 món còn lại Trung úy Trinh tiếc ngẩn ngơ, Trung úy Trinh bèn bò theo qua chỗ của nó rồi chụp cổ áo của nó:
“Mày lấy một cái thôi chớ, làm gì mà lấy hết của tao vậy?”
Lúc đó hai trung úy nói nho nhỏ với nhau bởi vì anh em đang sinh hoạt ồn ào, mỗi người mỗi việc cho nên không thể nói to làm cho người ta chú ý. Trung úy Đức cười đau khổ:
“Tao có tới 4 em lận, mỗi em một cái”.
Ông cố nội ơi! Tưởng mày có một em thì tao cũng mừng cho mày, đằng này tới 4 em thì chỉ có chết thôi con ơi, đúng là thằng dại gái rồi, hóa ra công trình qua sông lâu nay mà chẳng được em nào “kết” hết. Bằng chứng hôm nay cho thấy mấy em đối xử với Trung úy Đức ngang nhau, không có em nào bứt phá lên trước!
Tuy nhiên nghĩ tới đây thì Trung úy Trinh lại cảm thấy mừng trong lòng. Chả là vì lâu nay Trung úy Trinh cứ lo ngại giùm cho mối tình của Trung úy Đức với cô bồ của nó ở trên Pleiku. Đó là một cô giáo mà thằng Kinh Kha đã thề non hẹn biển với con người ta khi nó phục vụ trong một đơn vị Thiết giáp ở Pleiku. Trung úy Trinh ngưỡng mộ mối tình này lắm vì năm nào vào dịp hè thì cô giáo cũng vào Đà Lạt gặp mẹ của Trung úy Đức, rồi mẹ và cô dâu tương lai cùng đi thăm nuôi Trung úy Đức. Nay thấy thằng Kinh Kha bơi qua sông thì Trung úy Trinh mơ hồ cảm thấy lo ngại cho “Em Pleiku má đỏ môi hồng”, cứ cầu mong sao cho thằng kia cứ đem đầu bơi qua sông để tán tỉnh chuyện trên trời dưới đất, rồi cuối cùng thì em kia được phóng thích rồi đi mất đất; hay tệ lắm là bị bắt được, bị cùm một thời gian rồi chấm dứt trò vui. Bây giờ thấy nó chưa chiếm được quả tim của em nào thì đúng là chỉ vui chơi văn nghệ cho qua những ngày đau khổ. Hy vọng rồi mọi chuyện cũng ổn cả thôi, Trung úy Trinh bò về chỗ của mình nhưng trong lòng cũng vẫn còn tiếc những tác phẩm kia lắm.
Về tới nơi nghĩ lại mấy cô mang mấy cái thứ đó trên cổ thì e rằng mấy cô sẽ bị mất phước đi chăng? Nhưng Trung úy Trinh tin rằng ông Trời ổng rất công minh, ổng sẽ không phạt các cô mà trái lại ổng sẽ ban “Ơn phước đời đời” cho mấy cô. Nghĩ tới đây lại thấy lo cho thằng Kinh Kha sẽ bị ông Trời ổng phạt bởi vì nó bố láo quá, nó làm chuyện báng bổ thánh thần quá mạng.
Giờ đây, khi ngồi kể lại chuyện này, Trung úy Trinh nghiệm lại cuộc đời của Trung úy Đức thì hình như nó bị ông Trời phạt thiệt chớ chẳng chơi, cuộc đời của nó khổ sở xấc bấc xang bang cũng chỉ vì cái tội trăng hoa lãng mạn. Nghĩ thương cho cô Pleiku má đỏ môi hồng, mối tình của cô và Trung úy Đức cuối cùng tan vỡ. Cầu mong cho ông Trời ban cho cô một người yêu khác đàng hoàng hơn cái thằng ba trợn này.
Rồi cũng có lẽ là do ông Trời ổng ra tay thật cho nên sau vụ đó thì “ta” đánh qua Campuchia, rồi Trung Quốc đánh ta; “cách mạng” lo sợ tù nhân thừa dịp nổi loạn hay trốn trại cho nên ban hành các biện pháp an ninh chặt chẻ, trong đó có biện pháp đóng cửa trại rau của đội nữ và đặt thêm trạm gác ở bờ sông. Trung úy Đức đành chấm dứt chuyện sang sông.
Hòn Kén. A30 Phú Khánh:
Trong hình chỉ là một bãi đất bỏ hoang với cây cỏ dại mọc lùm xùm, nhìn vào chắc chắn rằng chẳng ai có cảm xúc gì ngoài những người đã từng sống ở nơi này. Đó là một góc của Trại A 30 Tuy Hòa, nơi giam giữ những người chiến binh buông súng của phía miền Nam. Ngọn đồi phía xa trong hình là Hòn Kén và dưới chân Hòn Kén là cánh đồng ruộng tên Bầu Sen. Tấm hình được Cao Điền một cựu tù nhân chính trị hơn sáu năm rưỡi của Trại A 30 chụp bằng Iphone vào tháng 11/2019 trong một lần đi về Việt Nam.
Cánh đồng ngày xưa nơi những chiến binh bại trận lưng phơi trần đen đúa còi cọt giơ xương, khom minh cấy từng cây mạ xuống những đám ruộng sình lầy lội tới háng. Trên nóc trại tù lá cờ đỏ phất phơ theo chiều gió của những kẻ gọi là người thắng trận, nhưng thực chất là một cuộc xâm lược, giống như những giòng huyết bị thổ ra từ dĩ vãng và vẫn còn vấy đỏ đến tận mãi hôm nay. Cánh đồng Bầu Sen, nơi tưởng chừng như đã nằm ra ngoài trí nhớ sau 44 năm, nhưng khi nhìn cảnh vật ở số tuổi cuối chặng đời như vầy, tôi lại thấy những oan hồn của những nạn nhân lịch sử bạc số, đồng đội của tôi chịu không nổi gian khổ đã bỏ xác lại trên mảnh đất này. Thoảng trong gió như lằn roi quất nghiệt ngã lên thời gian khiến lòng tôi ngập trắng cả nỗi niềm u uất...
Cánh đồng này trước 1975 là vùng nước sình với cỏ tranh cỏ lát bao phủ. Khi bị áp giải từ Đồng Găng ra đây vào mùa hè năm 76, chúng tôi suốt ngày phải phơi nắng để cuốc lật từng miếng đất, móc từng bụm sình hôi thúi để biến nó thành ruộng trồng lúa. Lúc lội xuống nước sâm sấp đến đầu gối, có nơi đến háng, đám đĩa đói tha hồ bám vào những ống chân khẳng khiu của người tù để mà hút máu. Để đối phó với mấy con đĩa này chúng tôi phải dùng nước miếng nhổ vào lòng bàn tay để bốc nó ra vứt lên bờ. Cho dù thế vẫn không thể nào ngăn được máu tuôn ra từ nơi vết thương đĩa bám vào. Đã vậy đám công an coi tù cầm súng đứng trên bờ còn quang quác giọng sốc hông:
“Các anh là ngụy làm tay sai cho đế quốc Mỹ hút không biết bao nhiêu máu của nhân dân so với mấy con đĩa này thì nhằm nhò gì”.
Khổ dù chịu bao nhiêu cũng không sao nhưng nhục thì chịu không thấu. Thét rồi chúng tôi thí mạng cùi phó mặc tụi đĩa muốn làm gì thì làm trên đôi chân khẳng khiu vì đói ăn.
Nơi này vào năm 1976 vào một buổi chiều tháng chạp, có một chiếc xe chở tù thả xuống trại một cô gái 17 tuổi tên Vũ Thị Tố Loan với hai tay bị còng. Cô gái mặc chiếc áo màu xanh lam của hội hồng thập tự cấp phát rách bươm và được vá chằng chịt nhiều chỗ. Tù đày kham khổ vẫn không che được nét thơ ngây hồn nhiên trên khuôn mặt cô gái đó. Nhìn em, đám lính bị bắt tù cải tạo chúng tôi không tránh khỏi đau lòng. Em bị bắt về tội phản động và bị tập trung cưỡng bức nghĩa là ở tù không bản án giống như chúng tôi, những người buông súng trong giờ phút cuối cùng của cuộc chiến. Chúng tôi chỉ biết an ủi em là phản động không phải là một hành vi phạm tội. Phản là phản lại, động là hành động. Phản động là một hành động phản lại. Nếu mình phản lại cái đúng là mình sai. Còn nếu mình phản lại cái sai có nghĩa là mình đúng. Lịch sử sau này sẽ trả lời cho cả thế giới biết rằng những hành động chống lại họ hôm nay của em là đúng và chúng ta hãy tự hào khi bị kẻ xâm lược kết tội là phản động. Năm 1980 em được thả ra và tôi thì sau đó một năm. Ra với thế giới bên ngoài cũng ngột ngạt và bươn chãi kiếm sống để sinh tồn, hai anh em tôi mất tin tức về nhau từ đó đến nay.
Cô gái 17 tuổi ngày xưa giờ nếu còn sống thì đã là bà cụ 60 nhưng trong lòng tôi, em vẫn là cô bé với mái tóc dài rối tủa đôi mắt to ngơ ngác với hai tay bị còng khi bị đẩy xuống chiếc xe chở tù.
Hòn Kén, một địa danh nằm trong khu vực của Trại Cải Tạo A30 Phú Khánh, phía dưới Đập Đồng Cam chừng hơn 1 km, ở đó có một ngọn đồi, bên dưới chân đồi là một con đường mòn, kế tiếp là những dải đất trống, trước là ruộng đất trồng hoa màu, có một con mương nước từ Đập Đồng Cam chảy về tưới tiêu cho khu đồn điền Bình Sơn - Mai Liên chuyên trồng Mía của chủ đồn điền là người Pháp. Những dải đất này xưa kia khi quân đội Nam Hàn thuộc Sư Đoàn Thanh Long-Bạch Hổ lập vòng rào phòng thủ cho đồn Hòn Kén, nên còn nguyên mìn bẫy và kẽm gai... Sau 75 thì trở thành những khu đất bỏ hoang... nhưng rất nguy hiểm vì mìn bẫy vẫn còn sót lại xung quanh chưa thanh toán hết ...
Có những đàn bò vô tình lội vô kiếm ăn đi ngang qua, con nào lạc vào bãi này thì bị mìn cóc nổ què chân chỉ còn biết đem về xẻ thịt mà thôi. Người dân vùng này mỗi khi đi qua đây họ cũng rất cẩn thận chỉ đi trên lối mòn ko bao giờ dám đi xuống những vùng đất đó ...
Khi chúng tôi từ Long Hoa-Phan Thiết bị đưa ra đây năm 1978 và năm 1979 bị tống lên phân Trại Bình Sơn-Mai Liên, thì cũng có lệnh phân công đi vét con mương này. Con mương sâu thẳm có chỗ hơn 10m có rất nhiều rắn nước. Chúng tôi bắt hết coi như trúng mánh để bồi dưỡng cơ thể trong những ngày tù tội thiếu chất dinh dưỡng, chứ hồi giờ chưa từng ăn thịt rắn. Chúng tôi cứ tưởng rằng khu vực này đã dọn sạch mìn bẫy nên cứ “vô tư” đi lại lục tung cả ngọn đồi để tìm chiến lợi phẩm như bao cát, cà mèn và nhiều thứ vật dụng linh tinh khác, mà lính đã bỏ lại trên đồn này. Bao cát của Mỹ thật tốt, đã qua nhiều năm nhưng vẫn còn tốt, sợi chỉ còn bền chắc nên chúng tôi lấy về se thành sợi để đan võng, thứ bằng vải thì may áo, quần đùi bận đi lao động.
Mấy anh bạn tù địa phương kể lại nhiều giai thoại về lính Đại Hàn hoạt động tại vùng này, cụ thể là đồn này.
Du kích Việt Cộng cũng hay mò về xã Thạch Thành và vùng lân cận để kiếm ăn nhưng rất sợ lính Đại Hàn phục kích nên chúng quan sát rất kỹ bằng ống dòm, chắc chắn rằng không có lính Đại Hàn xuống đồi thì mới dám mò về. Thét rồi lính Đại Hàn không tìm ra được tên du kích VC nào để làm thuốc, nên nghĩ ra một kế, kêu bằng “Tương Kế Tựu Kế” “Dương Đông Kích Tây” để nắm thóp lũ VC này.
Cấp chỉ huy của lính Đại Hàn biết rằng họ bị theo dõi bằng ống dòm nên mỗi khi lính xuất phát xuống đồi đi phục kích thì VC đều biết, vì thế nhân buổi hoàng hôn trời mưa lâm râm, họ xuống núi với ba lô sau lưng và trùm Poncho, thật sự họ không mang ba lô mà cõng theo một lính trên lưng xuống đồi. Du kích VC quan sát thấy họ đếm biết quân số xuất đồn, còn lính Đại Hàn sau khi khuất dạng trong rừng cây họ bỏ lại những lính mang trên lưng và làm một vòng cố tình để cho du kích VC thấy là vì mưa nên họ trở về đồn đầy đủ quân số như khi xuất quân.
Thế là toán lính nằm lại bung ra phục kích và tóm gọn hết bọn du kích trong vùng, vì chúng đinh ninh là toán lính đã trở về đầy đủ, làm chúng mất sạch luôn cơ sở tại đây vì thế chúng rất hận VNCH và lính Đại Hàn. Nhiều lần đem một lực lượng chính quy áp đảo đến tấn công đồn Hòn Kén nhưng cũng chỉ đền nợ máu, vì địa thế hiểm trở của đồn này.
Một câu chuyện được anh bạn tù An Hoàng kể lại có liên quan đến Hòn Kén này nên tôi bổ xung thêm cho hoàn chỉnh. Những tháng đầu năm 1977 đội 8 đội trưởng là Charlie Nguyễn Văn Lộc, thường gọi là Sạc lai, nguyên là Thượng Sỹ Biệt Kích 81 mang tội phản động nên bị bắt vào đây. Đội này bị điều tới đó để khai hoang cuốc lật đất lên để trồng trọt. Khi chúng tôi dàn hàng ngang để cuốc thì nghe anh em địa phương cho biết khu này còn sót mìn bẫy nhiều nên cuốc phải cẩn thận, thận trọng và cuốc chậm lại....
Thật vậy vì có mấy người dân họ đi trên đường họ la:
- Mấy anh mấy chú dừng cuốc cho tụi tôi đi qua rồi hãy cuốc.
Và họ chạy qua thật nhanh ...
Bên dưới một bạn đã cuốc lên thấy một trái mìn màu xanh rêu... Anh Tâm đầu vụ vặn nắp lấy kíp nổ ra... Anh là sỹ quan VNCH nên rất rành về loại mìn cóc này... Anh nói thường loại này họ thường chôn kèm với mìn ba râu để chống tăng, đây là mìn cóc nó nhảy lên cao cả thước khi đạp phải mới nổ nên mới có tên là mìn cóc.
Chúng tôi đang chống cuốc để xem và nghe anh bạn giải thích về mìn, thì trên bờ xa Charlie theo lệnh tụi chèo, chỉ bọn quản giáo, đốc thúc cuốc nhanh lên đi... cuốc đi... Bọn tôi la lên có mìn dưới đất, nhưng bọn nó vẫn phớt tỉnh như người Hà Nội, coi mạng tù như cỏ rác.
Tôi xoay mặt qua bên kia vừa nói:
- Đ.M.. chết thì không chết mà lết!
Miệng vừa nói tay vừa cuốc, nhưng chiếc cuốc tôi vừa cuốc xuống đất, tôi bỗng thấy tối sầm mắt, trời đất như quay cuồng, tai lùng bùng không còn nghe được gì, người xoay một vòng ngã xoài xuống đất. Tôi còn nghe tiếng la nho nhỏ chung quanh, tôi không còn cảm giác gì nữa, mặt rát nóng, tai ù ù, về sau khi tỉnh lại mới biết là có thêm 4 người anh em đứng kề bên tôi bật ngữa chấn thương ngực.
Tất cả 4 người đều được đưa về nhưng không biết những anh em kia được đưa về trại bằng phương tiện gì, nhưng riêng tôi thì được khiêng bằng võng, võng này được một anh tên An người Hoa kể lại là phải giựt của mấy anh tổ hớt tóc, vì ban đầu kêu cho mượn nhưng các anh đó chưa chịu đưa vì sợ mất. Anh An đó phải cầm câu liêm đòi cắt cổ mấy ông đó ...[Nghe lời anh ấy kể lại sau này].
Trên đường khiêng về trại tôi ức quá chửi bọn VC gian ác, về tới trại còn nghe Bảy đầu rìu tức quản giáo nói:
- Không sao, xưa bọn tui trên núi cụt cả chân cũng đâu có chết, cái này của các anh gài thì chịu thôi.
Mẹ nhà nó, nghe mà trào nước mắt, ứa cả gan, ức lòng quá! Tất cả được đưa ra trạm cấp cứu ở Tuy Hoà, họ lau vết thương đo áp huyết, tôi nghe họ nói với cán bộ trại là 4 anh này bị chấn thương ngực nên để nghỉ dưỡng một thời gian thì khoẻ lại thôi, và họ ngồi tán với nhau rôm rả, tôi vẫn nằm đó có lẽ tui nằm trên bàn cao hơn. Một lúc sau có một nữ y tá đến bên tôi lấy gì đó lau trên mặt tôi và vạch mắt lau máu, nghe cô ta la lên:
- Trời anh này hư mắt rồi!
Và họ lật đật chuyển băng ca đưa tôi đi đến bệnh viện, vì tôi nghe xung quanh rất ồn ào đông người, có nguời nói:
- Trời ơi ! ông này bị mù nát mặt hết nè!
Lúc đó ruột gan tôi như lửa đốt, khi tới phòng đặt băng ca xuống nghe giọng nữ Bác Sỹ xem khám sơ qua và bảo đưa xuống phòng cấp cứu, khi đưa tới phòng, họ đỡ tôi xuống giường ngồi và bỏ đi, tôi nghe có ai đó hỏi anh ở đâu tới vậy, tôi hướng về tiếng nói trả lời:
- Tôi từ trại A30 cuốc trong bãi mìn bị thương.
Tôi nghe tiếng chắt lưỡi và nói:
- Tôi A20 đây!
Tôi hỏi anh bị gì mà nằm đây, anh ấy nói bị bao tử, cắt một phần ba rồi, anh là người trên chuyến tàu Việt Nam Thương Tín trở về, anh kêu một người dặn dò gì đó một lúc sau anh đưa vào tay tôi ly nước cam và một điếu thuốc rê đốt sẵn, thế là tôi cám ơn anh và làm một hơi hết ly nước, đúng là buồn ngủ gặp chiếu manh đã ơi là đã.
Câu chuyện hỏi han chưa tới đâu, thì giọng một cô y tá vào xem vết thương và bảo sao lại đưa anh này vào đây, đưa lên khoa mắt chứ, rồi cô hỏi tôi giờ đông quá không có người phụ khiêng tôi, cô ấy hỏi anh đi được không, tôi dìu. Tôi gật đầu, thế là tôi chào tạm biệt người anh em chưa biết tên rồi đi tiếp. Cô ấy xốc tôi đứng dậy quàng qua ôm tôi dìu đi về khoa mắt, trên đường đi, nghe nhiều tiếng xuýt xoa, chắt lưỡi, có ai đó chọc cô y tá, hỏi thử anh ấy có vợ con gì chưa, và nghe nhiều tiếng cười khúc khích... Tôi thiếp đi vì quá mệt mỏi, sáng hôm sau bác sỹ khám cho tôi biết mắt trái hư trăm phần trăm, mắt phải năm mươi, ở đây chỉ trị cho anh bớt đau nhức còn nếu không may thì đành vậy, tôi tiu nghỉu mò về phòng, và chiều đó lệnh trại đưa cán bộ xuống đưa tôi về lại trại A30 và giam vào nhà 8 như cũ, cũng vì tôi đã chửi cộng sản gian ác nên bị đưa về, hằng ngày phải xuống Bệnh Xá Trại cho chú Xuân y tá rửa vết thương và thời đó đâu thuốc men gì ngoài những viên vitamin A, mặt tôi được bôi thuốc đỏ như nhân vật hát bộ, mỗi khi đi ngang nhà nữ chị em hỏi thăm và nhận những cái lắc đầu động viên nhau, câu chuyện dài nhưng tóm lại sau 15 ngày mắt tôi tự nhiên sáng lại dù cảnh vật rất nhoà, lúc đang làm sạch vết thương thằng cán bộ Sâm vào nó nói:
Sao anh chửi cộng sản? rồi anh sẽ biết!
Tôi trả lời:
- Trong cơn đau tôi chửi chả tội gì, sao cũng được.
Lúc đó chú Xuân vỗ vỗ vô tay tôi, chú nói thôi nhịn nó đi con, thật trìu mến. Kỷ niệm này là nỗi đau, nhưng phải cám ơn trời đã độ mạng cho tôi, còn về phần này tốt xấu gì, tùy mỗi người, làm sao tôi không hận giặc cộng đây, tôi không phải là thánh nhân, còn rất nhiều đau thương ập đến với tôi ở trại này...
An Hoàng – Cao H Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét