1. Bài thơ NGUYÊN NHẬT :
Lê Cảnh Tuân 黎景詢 (?-1416?) tên chữ là Tử Mưu, hiệu là Tỉnh Trai, người làng Mộ Trạch, huyện Đường An (nguyên trước ở làng Lão Lạt phủ Thanh Hoá). Không rõ ông sinh năm nào. Lê Cảnh Tuân đỗ Thái học sinh vào năm Canh thìn (1400), dưới triều Hồ. Ông là danh sĩ dưới triều Hồ. Hiện chỉ còn lưu lại 12 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục. Dưới đây là bài Ngũ Ngôn tuyệt cú của ông làm khi Tết đến mà không dám về quê.
元日 Nguyên Nhật
旅館客仍在, Lữ quán khách nhưng tại,
去年春復來。 Khứ niên xuân phục lai.
歸期何日是? Quy kỳ hà nhật thị ?
老盡故園梅。 Lão tận cố viên mai!
黎景詢 Lê Cảnh Tuân
* Chú thích:
- Nguyên Nhật 元日 : là Ngày đầu, ta phải hiểu là Ngày Đầu Của Một Năm, như chữ Nguyên Đán Là TẾT NGUYÊN ĐÁN của ta đó.
- Nhưng 仍 : là Vẫn, Vẫn Cứ...
- Phục 復 : là Lại, là Trở lại.
- Quy Kỳ 歸期 : Cái kỳ hạn trở về, là Ngày Về.
- Lão Tận 老盡 : là Già đến tận cùng, là Già khú, già chát, già khằng!
* Nghĩa Bài Thơ:
NGÀY ĐẦU NĂM
Người khách tha hương vẫn còn ở nơi quán trọ nầy, nhưng mùa xuân của năm rồi, năm nay lại trở lại. Biết ngày nào mới là ngày về đây? Chắc cành mai già ở quê nhà đã già cỗi hết rồi!
Não nùng thay tâm trạng của người lìa quê xa xứ trong những ngày xuân đến Tết về. Câu "去年春復來 Khứ niên xuân phục lai" Mùa xuân năm trước lại trở về đây, cho ta thấy ít nhất Lê Cảnh Tuân cũng đã hai năm không được về quê ăn Tết rồi. Cội mai già còn cằn cỗi huống hồ chi là các đấng sanh thành ở quê nhà chắc cũng không tránh khỏi buồn thương sầu não mà càng héo tàn lụm cụm!
4. Diễn Nôm:
NGUYÊN NHẬT
Khách còn nơi quán trọ,
Xuân năm trước lại sang.
Biết ngày nao trở lại ?
Cội mai đã cỗi tàn !
Lục bát:
Trọ nơi lữ quán khách còn
Mùa xuân năm trước lon ton lại về
Ngày nao mới được hồi quê?
Cội mai vườn cũ xuân về khẳng khiu!
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
2. Bài thơ SƠ XUÂN :
Nguyễn Tử Thành 阮子成 hiệu là Tùng Hiên, đời Trần. Quê quán, năm sinh, năm mất cùng sự nghiệp của ông đều chưa rõ, chỉ còn 11 bài thơ chép trong Toàn Việt Thi Lục 全越詩錄.Dưới đây là một trong những bài thơ tiêu biểu của ông.
初春 SƠ XUÂN
臘梅開盡雪飄零, Lạp mai khai tận, tuyết phiêu linh,
老大情懷節物驚。 Lão đại tình hoài tiết vật kinh.
傍水人家楊柳嫩, Bàng thủy nhân gia dương liễu nộn,
寒天客院半陰晴。 Hàn thiên khách viện bán âm tình .
遊蜂摘蜜穿花去, Du phong trích mật xuyên hoa khứ,
野蝶偷香帶粉經。 Dã diệp thâu hương đới phấn kinh.
檢點名園供勝賞, Kiểm điểm danh viên cung thắng thưởng,
春花一樣百般生。 Xuân hoa nhất dạng bách ban sinh.
阮子成 Nguyễn Tử Thành
* Chú thích :
- SƠ XUÂN 初春 : Buổi ban sơ của mùa xuân; là ĐẦU XUÂN.
- Lạp Mai 臘梅 : LẠP là Tháng Chạp; Nên LẠP MAI là Loại mai nở vào tháng 12 âm lịch.
- Tiết Vật 節物 : Thời tiết và cảnh vật.
- Bàng Thủy 傍水 : Ở cạnh bờ nước; ở gần sông hồ.
- Bán Âm Tình 半陰晴 : là Nửa râm nửa nắng.
- Trích Mật 摘蜜 : là Hái mật, chỉ ong hút mật.
- Thâu Hương 偷香 : là Trộm hương, ở đây chỉ bướm hút phấn thơm của hoa.
- Danh Viên 名園 : là Những vườn hoa nổi tiếng.
* Nghĩa bài thơ :
ĐẦU XUÂN
Lạp mai trong tháng chạp đã nở cả rồi, tuyết chỉ còn rơi rải rác. Tâm tình của người già thấy thời tiết cảnh vật thay đổi mà phát kinh. Nhà ai bên bến nước dương liễu mới trổ xanh non, Trời còn lạnh nên phòng khách nửa râm nửa nắng. Những con ong bay lượn hút mật rồi bay xuyên qua những cánh hoa, và những con bướm hoang trộm hương hoa mang phấn bay đi. Kiểm điểm lại những vườn hoa nổi tiếng mà người ta thường tán thưởng thì thấy rằng : Hoa xuân nở ra trăm vẻ đều đẹp như nhau mà thôi. (Chớ không phải vườn nổi tiếng thì hoa nở mới đẹp, còn vườn bình thường thì hoa nở không đẹp !).
* Diễn Nôm :
ĐẦU XUÂN
Tuyết rơi mai nở báo xuân sang,
Cảnh vật đổi thay luống ngỡ ngàng.
Bến nước nhà ai xanh liễu mới,
Trời râm phòng khách nắng hoe vàng.
Ong vui hái mật đùa bay lượn,
Bướm hút nhuỵ hoa vội tách ngang.
Điểm hết vườn xuân bao thắng cảnh,
Hoa xuân trăm vẻ đẹp mơ màng.
Lục bát :
Tuyết rơi mai nở hết rồi,
Tuổi già thấy cảnh đổi dời mà kinh.
Nhà ai bến nước liễu xinh,
Nửa râm nửa nắng sân đình đìu hiu.
Ong bay hút mật dập dìu,
Bướm hoang lén trộm thật nhiều phấn hoa.
Vườn xuân nổi tiếng gần xa,
Hoa xuân trăm vẻ mặn mà như nhau.
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
3. Bài thơ XUÂN NHẬT HIỂU KHỞI :
Nguyễn Văn Siêu 阮文超 (1798-1872) tên khác là Định 定, tự Tốn Ban 遜班, hiệu Phương Đình 方亭 và Thọ Xương cư sĩ 壽昌居士, thuỵ Chí Đạo 志道, người làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông. Đỗ phó bảng năm 1838 đời vua Minh Mệnh. Ông là người cùng thời với Cao Bá Quát, hai người nổi tiếng có tài văn thơ mà dân gian hay truyền tụng là “thần Siêu thánh Quát”. Nguyễn Văn Siêu làm quan đến chức án sát, có sang sứ Trung Hoa. Sau đây là bài thơ tiêu biểu của ông trong ngày xuân.
春日曉起 XUÂN NHẬT HIỂU KHỞI
宿火明書牖, Túc hỏa minh thư dũ,
曉鍾聞佛臺。 Hiểu chung văn Phật đài.
主人催被起, Chủ nhân thôi bị khởi,
小子報花開。 Tiểu tử báo hoa khai.
夜氣融孤竹, Dạ khí dung cô trúc,
晴光弄小梅。 Tình quang lộng tiểu mai.
流鶯囀不已, Lưu oanh chuyển bất dĩ,
應有故人來。 Ưng hữu cố nhân lai !
阮文超 Nguyễn Văn Siêu
* Chú Thích :
- Túc Hỏa 宿火: Đèn hoặc nến ban đêm để thắp sáng.
- Thư Dũ 書牖 : Cửa sổ bên bàn học.
- Hiểu Chung 曉鍾 : Chuông chùa công phu buổi sáng.
- Thôi Bị Khởi 催被起 : Đẩy cái mền ra ngồi dậy, ý chỉ thức giấc.
- Tiểu Tử 小子 : Ở đây không có nghĩa là CON NHỎ mà là Tiểu Đồng, Thư Đồng để đối với chữ CHỦ NHÂN ở trên.
- Dung 融 : là Hòa, Tan, lẫn vào.
- Tình Quang 晴光 : là Ánh Nắng sáng.
- Chuyển 囀 : Có bộ KHẨU 口 là Cái miệng bên trái, là (tiếng hót) Uyển Chuyển, véo von, líu lo.
- Ưng Hữu 應有 : Chắc có, Có thể có.
* Nghĩa Bài Thơ :
SÁNG XUÂN THỨC GIẤC
Đèn đêm còn chiếu sáng song cửa sổ, đã nghe tiếng chuông công phu buổi sáng ở Phật đài rồi. Chủ nhân vừa tung chăn thức giấc thì tiểu đồng đã báo cho biết là hoa sáng cũng đã nở rồi. (Mở cửa ra thì thấy) Hơi đêm còn như đang tan vào bụi trúc cô đơn trước ngõ và ánh nắng ban mai le lói như đang ghẹo cành mai nhỏ trước sân, tiếng chim oanh bay lượn không ngừng hót líu lo, như báo trước chắc là có bạn cũ đến chơi.
* Diễn Nôm :
XUÂN NHẬT HIỂU KHỞI
Đèn đêm còn soi song cửa,
Đã nghe chuông sớm ngân nga.
Chủ nhân tung chăn thức giấc,
Tiểu đồng báo sáng nở hoa.
Hơi đêm tan vào tre lạnh,
Nắng sớm ghẹo cội mai già.
Tiếng oanh líu lo không ngớt,
Chắc là bạn đến thăm ta !
Lục bát :
Đèn còn hắt sáng cửa song,
Phật đài đã vẳng chuông ngân đầu ngày.
Chủ nhân thức giấc vươn vai,
Thư đồng đã báo nở vài cành hoa.
Hơi đêm nhành trúc la đà,
Vài tia nắng sớm ghẹo hoa mai vàng.
Chim oanh ríu rít rộn ràng,
Chắc là có bạn thuận đàng ghé chơi !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
4. Bài thơ SƠ XUÂN của THÁI THUẬN :
Thái Thuận 蔡順 (1440-?) tự Nghĩa Hoà, hiệu Lục Khê, biệt hiệu Lữ Đường, sinh 1440. Đậu tiến sĩ 1475 (niên hiệu Hồng Đức thứ 6). Làm quan ở nội các viện triều Lê Thánh Tông hơn 20 năm, sau được bổ làm tham chính ở Hải Dương, sau nữa được đặc cách giữ chức phó nguyên suý hội Tao Đàn. Tác phẩm còn lại: Lữ Đường Thi di cảo do con trai là Thái Khác và học trò là Đỗ Chính Mô sưu tầm, biên soạn.
初春 SƠ XUÂN
三冬過了一春歸, Tam đông qúa liễu nhất xuân qui,
乍暖東風放放吹。 Sạ noãn đông phong phóng phóng xuy.
冰雪凍痕鋪水面, Băng tuyết đống ngân phô thủy diện,
乾坤生意上林枝。 Càn khôn sanh ý thượng lâm chi.
柳還舊綠鶯猶靜, Liễu hoàn cựu lục oanh do tĩnh,
桃試新紅蝶未知。 Đào thí tân hồng điệp vị tri.
日暮鄉關迴首望, Nhật mộ hương quan hồi thủ vọng,
草心遊子不塍悲。 Thảo tâm du tử bất thăng bi !
蔡順 Thái Thuận
* CHÚ THÍCH :
- SƠ XUÂN 初春 : Mới bắt đầu mùa xuân, là Chớm Xuân, là Đầu Xuân.
- TAM ĐÔNG 三冬 : Chỉ 3 tháng của mùa đông.
- SẠ NOÃN 乍暖 : SẠ 乍 là Bất chợt, Bỗng nhiên. SẠ NOÃN là Chợt ấm lên.
- NGÂN 痕 : là Vết sẹo, là Dấu vết.
- SANH Ý 生意 : là Cái ý sống, cái ý sinh tồn. Sau dùng rộng ra chỉ Sự làm ăn buôn bán của con người để kiếm sống.
- THẢO TÂM 草心 : Nỗi lòng của tấc cỏ.
* NGHĨA BÀI THƠ :
CHỚM XUÂN
Mùa xuân vừa mới trở về sau ba tháng của mùa đông đã qua đi rồi. Trời chợt ấm lại nên gió xuân từ hướng đông đã hay hẩy thổi đến. Dấu ấn của băng tuyết còn sót lại bày ra trên mặt nước, và ý sống của đất trời đã nẩy mầm trên các cành ngọn của cây rừng. Liễu thì vẫn xanh tốt như xưa, và đào thì đã trổ màu hồng mới nhưng bướm vẫn còn chưa hay biết. Trời chiều quay đầu trông ngóng về phía quê xa, tấc lòng của người con du tử không tránh khỏi nỗi xót xa !
Bài thơ Sơ Xuân của Thái Thuận đọc lên nghe như có âm vang hơi hám của thuở Thịnh Đường, ngay từ câu đầu tiên :
三冬過了一春歸 Tam đông qúa liễu nhất xuân quy.
Từ "Tam đông" làm ta nhớ đến từ "Tam xuân" trong 2 câu trong bài "Du Tử Ngâm" của Mạnh Giao đời Đường là :
誰言寸草心, Thuỳ ngôn thốn thảo tâm,
報得三春暉. Báo đắc Tam Xuân huy.
mà cụ Nguyễn Du đã thoát dịch rất hay là :
"Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân"
Ta thấy từ "Thảo Tâm Du Tử" : Tấc lòng của người con du tử, lại được Thái Thuận sử dung ở câu cuối :
草心遊子不塍悲。 Thảo tâm du tử bất thăng bi ! (Tấm lòng như tấc cỏ của người con du tử không tránh khỏi buồn thương ray rức )...
và nhất là câu:
日暮鄉關迴首望, Nhật mộ hương quan hồi thủ vọng,
lại làm cho ta nhớ đến 2 câu thơ cuối của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu là:
日暮鄉關何處是? Nhật mộ hương quan hà xứ thị
煙波江上使人愁。 Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
... mà Tản Đà đã dịch rất hay là :
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai !
* DIỄN NÔM :
CHỚM XUÂN
Ba tháng đông qua xuân lại thay,
Gió xuân hây hẩy ấm lòng ai.
Dấu tàn băng tuyết in dòng nước,
Chồi mới đất trời biếc ngọn cây.
Liễu đã xanh om oanh vắng tiếng,
Đào đà đỏ nụ bướm chưa hay.
Quay nhìn quê cũ khi chiều xuống,
Du tử bồi hồi mắt lệ cay !
Lục bát :
Đông qua nay lại chớm xuân,
Khí trời chợt ấm gió đông lào xào.
Nước trôi băng tuyết dạo nào,
Rừng cây nẩy lộc chồi cao xanh cành.
Liễu buồn oanh hãy vắng tanh,
Đào buồn vắng bướm cành xanh ửng hồng.
Trời chiều quê cũ vời trông,
Bồi hồi du tử chạnh lòng xót xa !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
5. Bài thơ XUÂN ĐÁN của CHU VĂN AN :
春旦 XUÂN ĐÁN
寂寞山家鎮日閒, Tịch mịch sơn gia trấn nhựt nhàn,
竹扉斜擁護輕寒。 Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn.
碧迷草色天如醉, Bích mê thảo sắc thiên như túy
紅濕花梢露未乾。 Hồngthấp hoa tiêu lộ vị can.
身與孤雲長戀岫, Thân dữ cô vân trừơng luyến tụ
心同古井不生瀾。 Tâm đồng cổ tỉnh bất sanh lan.
柏薰半冷茶煙歇, Bách huân bán lãnh trà yên yết,
溪鳥一聲春夢殘。 Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn.
朱文安 Chu Văn An
* Chú thích :
- Trấn Nhật 鎮日 : là Suốt cả ngày.
- Tà Ủng 斜擁 : TÀ là Nghiêng , là Xiên; ỦNG là Ôm; nên TÀ ỦNG là Ôm Nghiêng, chỉ cánh cửa tre (trúc phi) xiêu vẹo nghiêng nghiêng ôm lấy cửa rào.
- Bích Mê 碧迷 : là Xanh biêng biếc; BÍCH MÊ THẢO SẮC 碧迷草色 là màu cỏ xanh biêng biếc.
- Hồng Thấp Hoa Tiêu 紅濕花梢 : là Đỏ ướt cả đầu cành hoa, vì Sương Chưa Khô : LỘ VỊ CAN 露未乾.
- Tụ 岫 : Những cái hang trên đỉnh núi, thường có hơi bốc lên thành mây.
- Lan 瀾 : là những gợn sóng nhỏ; BẤT SANH LAN 不生瀾 Không còn gợn sóng.
- Bách Huân 柏薰 : Cây Bách cây thông dùng để đốt lửa hong cho ấm.
- Trà Yên 茶煙 : YÊN là Khói mà cũng có nghĩa là Thuốc hút nữa (thuốc Lào chẳng hạn); nên TRÀ YÊN là Trà và thuốc hút.
- Yết 歇 : là Nghỉ, là thôi, ở đây có nghĩa là Hết, là Cạn.
* Dịch Nghĩa :
Sáng Ngày Xuân
Suốt ngày nhàn hạ rảnh rổi với ngôi nhà quạnh quẽ vắng lặng ở trên núi nầy. Chiếc cửa tre xiêu vẹo ôm ấp lấy căn nhà che chắn bớt cái cơn lạnh nhè nhẹ đang lan tỏa. Nhìn xuống xa xa bãi cỏ non xanh biếc, bầu trời cũng xanh biếc như ngất ngây say. Những đóa hoa hồng lên trên cành rực rỡ với các giọt sương còn lóng lánh chưa khô. Tấm thân ta như đám mây đơn lẻ kia cứ mãi quyến luyến không nở rời đỉnh núi, và lòng ta thì đã khô cằn như chiếc giếng xưa kia đã không còn dậy sóng nữa. Những nhánh tùng bách cháy tàn nửa vời lạnh lẽo, trà thuốc cũng đã cạn rồi. Những con chim bên khe vổ cánh bay tiếng kêu oang oác làm chợt tỉnh giấc, mộng xuân cũng tàn lụi theo luôn.
* DIỄN NÔM :
XUÂN ĐÁN
Nhà tịch mịch núi cao nghe vắng vẻ,
Cửa phên tre nghiêng ngã lạnh lan tràn.
Trời như say thảm cỏ biếc mênh mang,
Hoa đỏ thắm đầu cành sương chưa ráo.
Thân nầy tựa như mây còn luyến núi,
Lòng thì như giếng cạn sóng đà an.
Lửa tắt trà khô thuốc hết đêm tàn,
Chim oang oác giật mình tan giấc mộng !
Lục bát :
Nhà cao vắng vẻ an nhàn,
Cửa tre xiêu vẹo lạnh tràn gió đông.
Trời xanh đồng cỏ mênh mông,
Ngậm sương mấy đóa hoa hồng nở xinh.
Thân như mây nổi linh đinh,
Lòng như giếng cạn không sinh sóng hời.
Đêm tàn lửa tắt trà vơi,
Chim kêu tỉnh giấc một trời xuân mơ !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Chúc mọi người đều có được một cái Tết BÌNH AN, NHƯ Ý !
Hẹn bài viết tới !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét