(hình minh hoạ - Bà HN)
Bà Tư Nguyễn thị Nhàn năm nay đã gần 80 tuổi nhưng đi đứng vẫn khoan
thai, thân thể còn tráng kiện, trí óc minh mẫn, phản ứng bén nhạy với
lối ăn nói dịu dàng từ tốn. Bà mới từ Sài gòn bay qua Mỹ làm việc
tại thành phố New York ở góc đại lộ Fifth Avenue và 82th Street. Bà
Jacob, chủ cũ của bà đã gởi vé máy bay khứ hồi và hứa sẽ tặng ba ngàn
dollars tiền mặt để trả công cho một việc làm không khó nhọc lắm trong
vòng một tháng.
Tuổi đã lớn, đáng lẽ bà Tư Nhàn không nên bon
chen làm ăn chi nữa cho mệt, nên dành thì giờ còn lại để vui sống với
con cháu, nhất là thời buổi nầy đi đâu bằng máy bay cũng bị kiểm soát
phiền phức và khám xét gắt gao.
Thế nhưng, sau khi suy đi nghĩ lại thật chín chắn bà đã nhận lời.
Thật
ra không phải cần tiền, vì bà đã để dành khá nhiều sau 20 năm cần cù
làm việc ở Pháp và 10 năm chịu khó ở Mỹ. Bà đã mua được ba căn nhà ở Sài
Gòn nhờ những người cháu đứng tên. Ngoài ra bà mới tậu được một mẫu đất
ở vùng ngoại ô với ý định xây một căn nhà thật lớn gồm nhiều phòng để
nuôi và dạy dỗ đám thanh thiếu niên nghèo quanh vùng, điều mà bà ước
nguyện từ lâu.
Tuy nhiên ba ngàn dollars không phải là một số
tiền nhỏ mà người cỡ tuổi như bà Tư một sớm một chiều có thể kiếm được.
Lại thêm chuyện tình cảm nữa; người chủ cũ ở New York cứ gọi điện thoại
viễn liên năn nỉ hoài nên bà không nỡ từ chối. "Người mình là vậy đó!"
Bà tự nhủ, "Người Do Thái họ cũng sống nặng tình nặng nghĩa giống như
người mình!" Bà từng nhận xét.
Sau đó bà thu xếp, nhờ đứa cháu chở lên Tân Sơn Nhứt một thân một mình đi Mỹ.
Đến NewYork bà Tư được bà Jacob ra tận phi trường JFK tiếp đón niềm nở.
Gần
hai năm xa thành phố nhộn nhịp bậc nhất nhì trên thế giới, bây giờ mới
bước xuống phi cơ bà thấy quang cảnh quá đổi thay, nhất là sự hiện diện
của binh sĩ cầm súng đứng khắp nơi trong tư thế sẵn sàng nhả đạn, trông
phát khiếp!
Trước kia đi đứng tự do bây giờ lại bị hạn chế,
pass-port phải lo cầm sẵn trong tay phòng khi nhân viên an ninh phi
trường xét hỏi.
Đường vào trung tâm thành phố vẫn đông ngẹt xe cộ, phố xá chen chúc người qua lại.
Bà
Jacob có nhã ý lái xe chậm chậm trên Fith Avenue để bà Tư được ngắm lại
tòa nhà Empire State Building ở góc đường 34th, thư viện New York góc
đường 47th, Trung tâm Rockefeller góc đường 50th, Trump Tower góc đường
56th đến Plaza Hotel góc đường 57th. Bà Tư vui mắt nhìn thấy những cửa
hàng Sacks Fifth, Versace, Cartier, Gucci, Christian Dior, Louis Vitton,
Disney store, tất cả cũng đều nằm trên đường Fifth Avenue, treo đèn kết
hoa mừng Giáng sinh rất mỹ thuật.
Bà Tư nhận xét bây giờ ra vào
những nơi công cộng hay công sở đều phải đi qua những máy dò khí giới
trông giống như cái khung cửa, khi kêu lên "tít tít" thì người vừa đi
qua bị chận lại và bị soát thêm một lần nữa bằng cái dùi cui màu đen rà
lên rà xuống khắp thân thể. Chỗ bà làm việc lúc trước nhân viên ra vào
thong thả không bị hỏi han bây giờ có cảnh sát tư canh gác 24 trên 24,
phải xưng tên họ, khai báo nhiêu khê. Thấy vậy bà Tư định bụng sẽ không
thèm đi ra ngoại quốc nữa, xem chuyến đi nầy có thể là chuyến cuối cùng
và dự tính sau khi làm xong công việc ở Nữu Ước, sẽ bỏ chút thì giờ đi
thăm bạn bè rồi qua Paris lo cho xong việc bán nhà trước khi về Sài Gòn ở
luôn.
Về đến nhà bà Jacob, Bà Tư được trao nhiệm vụ là coi sóc
nhà cửa và giữ đứa con trai út tên Aron để bà chủ yên trí đáp phi cơ về
Tel Aviv lo công chuyện khẩn cấp. Công việc chỉ có thế thôi, rất tầm
thường, mà người ta phải mời một người Việt Nam cao niên từ bên kia Thái
Bình Dương đến làm chỉ vì bà ta là người được tin cậy trong gia đình
triệu phú nầy, chuyện thật khó tin mà có thật.
Thấm thoát thời
gian một tháng trôi qua rất nhanh, bà Jacob trở lại Mỹ an toàn, cám ơn
bà Tư rối rít đã làm xong việc đàng hoàng, trả tiền đầy đủ lại còn hậu
hỹ tặng thêm một món quà có giá trị. Bà Tư định từ giã Nữu Ước đi San
Francisco vào ngày hôm sau thì không dè bị kẹt lại ở thành phố nầy thêm
ba tháng nữa.
Số là vừa lo xong việc cho gia đình bà Jacob thì
gia đình bà Elazar, người hàng xóm cùng ở một tầng lầu trong cao ốc có
người chồng vừa mới bị đứt mạch máu não, bán thất bất toại. Mặc dầu mấy
ngày nay bệnh tình có phần thuyên giảm nhưng ông Elazar phải nằm một chỗ
không tự mình ăn uống hay lo vệ sinh riêng được. Bà Elazar thì bận bịu
công việc làm ăn lớn rất quan trọng vào dịp cuối năm, đang đi kiếm người
tin cẩn đến giúp nhưng chưa tìm ra. Gặp bà Tư Nhàn là chỗ quen biết với
bà Jacob, họ năn nỉ nhờ bà Tư ở lại săn sóc ông Elazar vài tháng, lương
tiền bao nhiêu cũng trả. Mới đầu bà Tư từ chối nhưng cuối cùng vì tính
hay cả nể, bà bằng lòng nhận công việc mới, lẽ tất nhiên với số lương
khá lớn. Bà Tư Nhàn không hểu hảo như thời còn son trẻ, bây giờ khôn
ngoan đáo để, biết mặc cả và biết làm eo.
Bà cảm thấy tự ái được
thỏa mãn, ở tuổi gần bát tuần mà thấy mình còn hữu ích, còn được người
ta trọng dụng nhất là ở trong cái xóm Do Thái giàu có nầy. Sau biến cố
911 họ không còn tin tưởng tuyệt đối ở các cơ quan tình báo như CIA,
FBI, ngày đêm lo sợ bị bọn khủng bố Palestine hay Al Qaeda trà trộn vào
sát hại cho nên họ phải luôn luôn đề cao cảnh giác, chỉ tin cậy ở nhũng
người quen thuộc từng cộng tác với mình.
Sau mấy năm làm việc với
họ, bà Tư nhận xét người Do Thái có một lối sống tình cảm giống như
người mình: kính trọng người già, lo chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ, trong
gia đình anh em thường quây quần, đùm bọc nhau. Họ biết người Việt không
theo Hồi giáo, có tinh thần chống cộng cao nên rất thích thuê mướn làm
việc.
*
Bà Tư tên thật là Nguyễn Thị Nhàn, sinh trưởng trong một gia đình
giàu có miệt Cái Răng thuộc tỉnh Cần Thơ. Cha bà là đại điền chủ, có
hàng ngàn mẫu ruộng, trên bộ có xe hơi, dưới nước có ghe thuyền kể cả
ca-nô chạy máy. Trong nhà có nhiều tá điền giúp việc. Ông lấy nhiều vợ
vì cần có đủ người thân tín để trông coi một tài sản to lớn và điều hành
công việc đồng áng. Mỗi bà vợ được ông giao cho một nhiệm vụ để hoàn
thành. Nhàn là con gái đầu sinh sau anh Hai và anh Ba trong số 14 đứa
con. Gia đình theo đạo công giáo gốc. Thuở nhỏ Nhàn được cho học trường
"Bà Sơ" ở Quận, đến bậc trung học thì được cha cho lên Đà Lạt cũng theo
học trường đạo do các Bà Sơ giảng dạy.
Tuy được gia đình bỏ tiền
cho ăn học nội trú trong một ngôi trường nữ danh tiếng nhất thời bấy giờ
ở vùng cao nguyên nhưng tình cảm giữa cha mẹ con cái không được đậm đà
thân thiết lắm. Ông cha lo làm giàu, ham ăn chơi lại có năm thê bảy
thiếp, đâu còn thì giờ để hỏi han và gần gũi với con nên nhiều lúc Nhàn
tủi thân và cảm thấy như mình bị bỏ rơi.
Những ngày lễ lớn thường
thường học sinh nội trú đều được cha mẹ hay thân nhân lái xe đến rước
ra ngoài chơi, riêng Nhàn thì không ai đưa đón phải thui thủi một mình
trong ngôi trường rộng lớn vắng tanh. Nhiều đêm cô bé khóc thầm bên
chiếc gối trắng tinh dầm dề nước mắt. Từ từ Nhàn dành hết tình thương
cho các bà Sơ mong lấy tình thầy trò thay thế tình gia đình. Các bà Sơ
cũng thấy Nhàn cô đơn tội nghiệp nên mở rộng vòng tay ra tiếp nhận làm
Nhàn cảm thấy an ủi phần nào và dần dần thấy thích nếp sống đạo hạnh của
các nữ tu trẻ tuổi trong bộ áo dòng trắng toát che từ cổ xuống chân với
chuỗi tràng hạt đen tuyền đeo lủng lẳng bên hông. Những lời dạy dỗ,
khuyên răn, hình ảnh "Ma Soeur" dịu hiền, đã ngự trị trong tâm hồn của
cô gái tuổi trăng tròn thơ ngây từ bao giờ không hay.
Hơn nữa
tính tình của Nhàn cũng hơi khác lạ, nàng không thích chỗ đông người
hoặc những nơi ồn ào náo nhiệt mà chỉ thích một đời sống khép kín với
một số bạn bè chọn lọc. Ở tuổi dậy thì nàng cũng không mơ mộng viễn
vông, tâm hồn trong trắng không thoáng qua một ham muốn tình dục. Tốt
nghiệp xong trung học Nhàn suy nghĩ thật nhiều, rồi đi đến một quyết
định rất quan trọng của đời mình là xin với Mẹ Bề trên được vào dòng tu.
Thế
là sinh viên Nguyễn Thị Nhàn được đặt thêm tên mới, Denise; sang Paris
bắt đầu những ngày học đạo. Sau mấy năm thử thách, cô khấn nguyện trọn
đời làm tu sĩ. Soeur Denise thuộc loại người cấp tiến, bên cạnh việc tu
tập thường tìm cách mở rộng kiến thức nên ngoài Pháp văn vốn là ngôn ngữ
chính thường dùng ở tu viện, cô học thêm Anh ngữ, nghiên cứu về tâm lý
nhi đồng cũng như cách săn sóc trẻ em. Ngoài ra Soeur cũng chú tâm đến
nhu cầu phục vụ con người nên khi rảnh rỗi học nấu ăn và tự nhận mình có
năng khiếu về môn nầy.
Trong gần hai mươi năm sống khép kín
trong tu viện, Soeur Denise không tiếp xúc với đời sống bên ngoài, rồi
đến thời kỳ chiến tranh Việt Nam bùng nổ dữ dội, những hình ảnh điêu tàn
thảm khốc ở quê nhà mỗi tối được chiếu trên truyền hình làm Soeur
Denise thức tỉnh. Cô đã khóc ròng khi nhìn thấy cảnh chết chóc thương
tâm hằng ngày xảy ra trên đất nước của mình. Cô cảm thấy mình quá vô
dụng và ích kỷ, cứ lo xem lễ, cầu nguyện, chỉ nghĩ đến bản thân trong
khi quê hương đang bị chiến tranh tàn phá cần được giúp đỡ. Cô không
biết than thở cùng ai và chỉ biết thổn thức một mình.
Ngày tháng
trôi qua, tâm thần bị dồn ép làm cô biếng ăn mất ngủ. Thân hình xanh
xao, gầy gò, nét buồn hiện rõ trên khuôn mặt khiến Mẹ Benedict nhìn
thấy.
- Này Denise, Mẹ nhận thấy mấy lúc nầy con có vẻ lo âu buồn
bã. Con có đau ốm hay có vấn đề gì trong lòng! Hãy nói rõ cho mẹ biết.
-
Kính thưa Mẹ quí mến, mẹ đoán quá đúng, con đang đau khổ cho tổ quốc
của con. Con lo cho dân tộc, cho đồng bào của con hiện đang sống trong
tình trạng chiến tranh khốn khổ vô cùng. Người miền Nam chúng con hiền
lành chất phác, chỉ biết lo làm ăn, an thân thủ phận tại sao Chúa không
giúp để nước con phải chịu cảnh chiến tranh cốt nhục tương tàn.
- Thế bây giờ con dự tính làm gì"
-
Thưa Mẹ, con đã suy nghĩ kỹ và quyết định. Xin các Mẹ cho con được phép
ra khỏi tu viện. Con phải làm bất cứ một chuyện gì để giúp dân tộc,
giúp đất nước con.
Sau một hồi suy nghĩ Bà Mẹ nhận xét:
-
Mẹ thấy con chân yếu tay mềm, ở nơi xứ lạ quê người làm sao thân gái như
con có thể thực hiện được điều con mong muốn. Mẹ lo cho con lắm vả
lại... con nên nhớ con đã khấn nguyện trọn đời. Lạy Chúa!
Nhàn cúi đầu trả lời:
-
Thưa mẹ, con nghĩ thân phận bé nhỏ của con không thể làm chuyện gì to
tát nhưng con chỉ cần kiếm một việc làm nhỏ, dành dụm được chút tiền gởi
về giúp cho cô nhi quả phụ cũng là một sự đóng góp có ý nghĩa.
Biết không thể làm gì lay chuyển được ý chí của Nhàn, Mẹ Benedict kết luận:
- Thôi được, Mẹ sẽ hợp ý với các Mẹ lớn rồi sẽ cho con biết quyết định.
Một tuần sau Soeur Denise được mời lên trình diện Hội đồng các Mẹ Bề trên.
Mẹ Nhất Madeleine nghiêm khắc hỏi:
- Denise, cóù phải con muốn bỏ dòng tu ra ngoài đời làm ăn sinh sống"
-
Dạ thưa không, con vẫn muốn giữ đời tu sĩ như con đã khấn nguyện trước
mặt Thiên Chúa nhưng con chỉ xin không ở trong tu viện và không mặc áo
dòng mà thôi. Lý do thì con đã thưa với Mẹ Benedict.
Mẹ Madeleine thở dài, nét mặt bối rối:
-
Thật là khó xử, luật lệ dòng tu chưa bao giờ xảy ra trường hợp như thế
nầy. Mẹ chỉ sợ con ra ngoài đời, ảnh hưởng của vật chất sẽ làm cho con
khó giữ được lời nguyện.
- Thưa mẹ...
Rồi như chợt như tìm ra một giải pháp thỏa đáng, Mẹ Madeleine cắt ngang lời của Denise:
-
Thôi ta thông cảm với con và không còn ngăn cản nữa, nhưng con hãy về
phòng viết một lá đơn cặn kẽ xin phép Đức Thánh Cha cho con được toại
nguyện.
Không hiểu Đức Thánh Cha trả lời như thế nào mà ba tháng
sau Soeur Denise trở thành Nguyễn Thị Nhàn mặc thường phục ra khỏi tu
viện với sự thương mến của các Mẹ Bề trên và các nữ tu cùng khóa.
Lúc
bấy giờ Nhàn có một người em khác mẹ tên Maria đang du học ở Aix en
Provence, một tỉnh thơ mộng danh tiếng thuộc miền Nam nước Pháp.
Aix
en Provence là một thành phố của nghệ thuật, nơi hằng năm có nhiều đại
nhạc hội thế giới được tổ chức và cũng là nơi an nghỉ cuối cùng của nhà
danh họa Picasso dưới chân núi Saint Victoire. Đặc biệt Aix en Provence
có hơn 100 suối nước nóng, có đại lộ Mirabeau với hai hàng cây Platanes
đầy bóng mát và nhiều quán Café lúc nào cũng đông khách.
Nhàn báo
tin cho Maria biết và xin về ở tá túc với em trong những ngày đầu tiên
ra khỏi tu viện. Các Mẹ Bề trên biết vậy nên không còn lo ngại cho Nhàn
nữa...
Maria ở trọ trong một studio nhỏ trên tầng lầu thứ ba của
một một cao ốc nằm gần trung tâm thành phố. Phòng chỉ có một giường nên
Nhàn phải mua thêm nệm, gối tối mang ra nằm tạm. Tuy ở Pháp được mấy năm
nhưng Nhàn chưa bao giờ chung đụng với đời sống bên ngoài, chuyện gì
xảy ra cũng thấy lạ đời, ví dụ như bạn bè mỗi khi gặp nhau, trai cũng
như gái nói "bonjour" rồi kề hai má hôn xã giao trông thật khó chịu.
Cảnh trai gái âu yếm lộ liễu bên đường làm xốn mắt. Gặp trường hợp như
vậy Nhàn chỉ xoay mặt và kín đáo làm dấu thánh giá xin được Chúa tha tội
và nguyện luôn luôn giữ lòng mình được trong trắng. Nàng có dịp tâm sự
nỗi niềm của mình với Maria và ngỏ ý muốn tìm việc làm.
Thật may
cho Nhàn, một buổi sáng đẹp trời không lâu sau khi đến Aix en Provence
Nhàn chợt nhìn thấy ở tầng trệt trong chung cư trên tấm bảng dành cho
tin tức có một thông báo cần tìm người săn sóc cho một bà già lớn tuổi.
Nhàn tìm đến xin việc và may mắn được nhận ngay. Gia đình người nầy
thuộc hạng khá giả trong vùng nên có phòng riêng cho nhân viên ăn ở luôn
trong nhà, lương tiền trả cũng khá. Công việc không có gì khó nhọc,
hằng ngày sáng dậy lo giúp bà già làm vệ sinh cá nhân, đọc báo cho bà
nghe rồi đưa đi dạo trong vườn. Trưa lo cho bà ăn rồi được nghỉ giải lao
hai tiếng. Xế chiều hết việc được tự do đi lại hoặc vào phòng riêng
nghỉ ngơi.
Ra sống ngoài đời nhưng Nhàn vẫn cố gắng giữ nội tâm
của người tu sĩ, tối nào cũng thức khuya đọc kinh và mỗi tuần đi nhà thờ
đều đặn ba lần.
Săn khóc người già chỉ là bước đầu của sinh kế
chứ một người đầy cương quyết và nghị lực như Nhàn không cho đó là mục
tiêu. Chữ nghĩa đầy mình, kiến thức rộng rãi nàng phải kiếm con đường
khác để tiến thân.
Thế rồi hai năm sau Nhàn tìm được việc mới
trong một công ty bảo hiểm. Làm việc siêng năng, giao thiệp rộng rãi đem
lại nhiều kết quả đáng kể cho hãng, nàng từ từ leo lên đến hàng ngũ cấp
chỉ huy, lương tiền cao hơn. Nhờ vậy Nhàn để dành được khá nhiều tiền
đủ để mua một căn nhà nhỏ ở vùng phụ cận. Cô tự đặt bàn thờ Chúa rất
trang nghiêm và luôn luôn quỳ gối đọc kinh cầu nguyện như thuở còn ở Tu
Viện.
Hai mươi năm trôi qua Bà Tư Nhàn đến tuổi được về hưu non
và được lãnh hưu bằng 2/3 tiền lương của mình lúc còn đi làm. Ở Pháp
chính quyền khuyến khích nhân viên về hưu sớm, cho hưởng nhiều quyền lợi
đặc biệt, mục đích dành chỗ trống cho lớp trẻ mới lớn lên.
Bà Tư
có nhà ở, có tiền hưu, tiền dành dụm, thường xuyên gởi về giúp bà con
bạn bè và người nghèo ở quê nhà. Bà là người nhiều kiến thức, giàu lòng
bác ái muốn làm một cái gì thật hữu ích cho quê hương. Bà mơ ngày trở về
Việt Nam, đem tiền để dành mua đất cất nhà, tạo lập một nhà nuôi trẻ,
giáo dục cho chúng thành người.
Mộng ước không có gì to lớn lắm
nhưng thực tế không dễ như mình tưởng. Sống ở ngoại quốc ai cũng phải
làm việc tất bật, muốn có nhiều tiền thường phải làm hai ba "job". Bà Tư
cũng vậy, thấy mình còn mạnh khỏe bà quyết định đi tìm việc làm thêm. Ở
Pháp việc dễ kiếm nhất và được trả tiền mặt là những dịch vụ phục vụ
cho người già, trẻ con. Bà Tư không đặt vấn đề tự ái, không nề hà khổ
cực, miễn sao có nhiều tiền để giúp tha nhân.
Nhớ lại những ngày
ra sống ngoài đời đầu tiên ở Aix en Provence không một xu dính túi, bà
may mắn kiếm được việc săn sóc cho người cao niên, có nơi ăn chốn ở,
tháng tháng lãnh lương, đời sống tu hành đơn giản nên để dành được
nhiều. Đến ngày ra làm tư chức, tuy tiền lương khá hơn nhưng chi tiêu
nhiều, lại phải đóng thuế lợi tức thành ra để dành không hơn bao nhiêu.
Bà
Tư đặt kế hoạch gây vốn. Ngoài lương hưu cố định, nếu bà chịu khó tìm
việc săn sóc người già như đã từng làm, bà sẽ có tiền và có nơi ăn chốn ở
miễn phí, căn nhà hiện đang ở sẽ đem cho thuê.
Bà quyết định rời
Aix en Provence lên Paris kiếm việc cho được nhiều tiền hơn. Loại công
việc định tìm không khó và lẽ tất nhiên với kinh nghiệm sẵn có bà đã
thành công.
Đầu năm 1990 một người bạn cũ rất thân từ NewYork điện thoại cho bà.
-
Hello chị Nhàn! Chị muốn sang làm việc ở New York không! Trang đang làm
việc với một gia đình người Do Thái, họ thích và tin cậy Trang lắm nên
người bà con của họ nhờ giới thiệu giùm một người cỡ như Trang. Trang
nghĩ đến chị, vả lại Trang ở bên nầy sống một mình buồn quá, nếu chị qua
đây làm việc có bạn bè lui tới thì đỡ khổ!
Bà Nhàn nhanh miệng trả lời:
- Lương tiền họ trả khá không em, nghe nói tụi Do Thái nó keo kiệt lắm mà!
- Không đâu chị ơi, tụi nầy giàu có lắm. Nó trả lương hậu hỹ đến độ chị không thể nào từ chối được.
- Vậy hả, cỡ bao nhiêu "
- Tùy mình và khả năng, nếu làm việc giỏi và được tin cậy thì chẳng khác nào chuột sa hũ gạo đấy.
Bà Tư thích chí hỏi tiếp:
- Thế thì bao giờ bắt đầu làm việc"
Trang trả lời ngay:
- Giờ nào cũng được, tùy chị lưa chọn. Họ đang cần người lắm. Dịp may hiếm có bỏ qua rất uổng.
Bà Tư vừa cười vừa nói:
- Được rồi, để chị suy nghĩ thêm chút nữa. Chị sẽ gọi lại cho Trang sau. Merci.
Bà
Tư thu xếp bỏ việc ở Paris vì gặp lúc người Việt tị nạn qua Pháp nhiều,
ai cũng muốn có công ăn việc làm bằng tiền mặt nên không khó tìm người
thay thế.
Đầu tháng Mười hai Bà Tư lên phi cơ bay qua New York nhận việc mới.
Trang
đi đón bà Tư trên chiếc xe BMW mới tinh. Thành phố đã lên đèn, đại lộ
Fifth Avenue màu sắc rực rỡ với những cửa hàng đồ sộ treo đèn kết hoa từ
trên cao buông xuống thật đẹp mắt. Hai người dừng lại trên góc đường số
82 với Fifth Avenue cạnh bên Metropolitan Museum of Art, đi bộ đến một
cao ốc tám tầng đèn đuốc sáng choang. Trên đường đi, Trang cho Bà Tư
biết nơi chốn và công việc phải làm là quản gia cho một gia đình ba mẹ
con người Mỹ gốc Do Thái. Bà mẹ cỡ 50 tuổi, với hai đứa con trai một đứa
lên 16 tên Ben và một đứa 6 tuổi tên Aron, ăn ở miễn phí, lương tháng
ba ngàn dollars, nếu làm việc giỏi sẽ được thưởng thêm. Mỗi ngày được
nghỉ giải lao nhiều lần, buổi tối sau giờ cơm là được tự do, cuối tuần
được nghỉ hai ngày, muốn đi đâu thì đi.
Vào cửa cao ốc hai tên Mỹ
đầu đội cát-két đứng chào, lịch sự hôn tay bà Trang. Bà Tư được giới
thiệu với chủ nhà là bà Jacob. Hai bên chào nhau lịch sự.
Bà chủ
đối xử với nhân viên rất cởi mở, đưa bà Tư đi quan sát nhà cửa trang
hoàng sang trọng đẹp mắt. Tất cả vật dụng đắt tiền đều được chùi rửa
láng bóng, không dính một hạt bụi. Nhiệm vụ của Bà Tư là lo giữ nhà, nấu
cơm tối và săn sóc Aron khi cậu đi học về. Nghe bà chủ nói cậu ấm nầy
bất trị, khiến nhiều người trước đây đến làm công không chịu nổi phải
đầu hàng. Bà Tư mỉm cười, hứa sẽ cố gắng và bắt tay ngay vào công việc
của mình còn những phần khác đã có người lo. Sáng sớm hãng Perry's
Florist cho người mang đủ thứ hoa tươi đến cắm vào bình, có người lo
quét dọn nhà cửa. Thịt cá rau cải, đồ ăn khô được Kosher Grocery đưa đến
khỏi cần đi chợ. Những dịch vụ khác đều do người Do Thái cung cấp ngay
tại chỗ. Cộng đồng của họ ở New York được tổ chức rất chặt chẽ. Người Do
Thái có chợ búa, trường học, nhà thờ, bệnh viện, thư viện riêng cho
đồng hương của họ.
Sau một tháng quan sát, bà Jacob thấy bà Tư
làm việc giỏi, hợp ý với mình nên rất bằng lòng rồi lấy tiền trả công và
khen thưởng. Bà Jacob là người Do Thái không phải là hạng người vứt
tiền qua cửa sổ. Bà vui mừng đã mướn được một người trí thức hiền từ, có
nhiều kinh nghiệm của người quản gia và ngoài ra còn có tài nấu ăn.
Những buổi cơm tối thật là thịnh soạn và ngon miệng, không thua gì đi ăn
ở tiệm Girazole trên đường 82 mà gia đình bà Jacob thường lui tới. Bà
Tư khôn khéo nghiên cứu các món ăn mà người Do Thái ưa chuộng như
Roasted fish, Fish with almonds, Chicken with tomatoes and Pilaf,
Costillas, Fried aubergine v.v... rồi dọn xen kẽ với những món ăn Pháp
là sở trường của bà hay những món ăn Việt Nam mà người ngoại quốc rất
thích như chả giò, gỏi cuốn v.v... Bà tuân thủ theo tục lệ của người Do
Thái như không nấu thịt bò với sữa, các loại thịt phải lấy hết huyết,
hột gà cũng vậy, hễ thấy có chấm đỏ trong lòng trứng là phải vứt bỏ
ngay. Xoong chảo phải dùng riêng cho từng món thịt hay rau cải.
Công
việc xong là bà Tư rút vào phòng riêng của mình, giường nệm trắng tinh,
ngồi lần tràng hạt đọc kinh cầu nguyện. Bà Jacob tôn trọng tự do cá
nhân của nhân viên, không quan tâm đến tôn giáo của người khác. Tuy biết
bà Tư theo Công giáo nhưng không bao giờ ngờ được bà Tư là một nữ tu.
Ngược lại Bà Tư biết người Do Thái không tin Chúa Giê Su nhưng bà chẳng
để ý đến vấn đề này, cho rằng hồn ai nấy giữ, đạo ai nấy theo. Những lúc
rảnh rỗi bà Tư thường ghé qua Central Park, rộng 843 mẫu nằm bên cạnh,
giữa đường 59th và 110th để đi bách bộ xem các loại kỳ hoa dị thảo, các
loại thú vật hiếm có hoặc các loài chim quý hay ngồi nghe hòa nhạc.
Về
phần cậu ấm Aron tự nhiên thấy bớt nghịch ngợm, nếp sống bắt đầu trở
vào khuôn phép. Bà Jacob rất mừng và hỏi lý do. Bà Nhàn mới cặn kẽ giải
thích là nhờ có theo học về tâm lý thiếu nhi và nghệ thuật giáo dục trẻ
con hư hỏng nên bà đã áp dụng và cải hóa được Aron. Bà Jacob tỏ ra thán
phục tài của Bà Tư. Nhờ vậy sau một thời gian ngắn được gia chủ tín
nhiệm giao thêm công việc riêng tư. Bà Tư không những trở nên người quản
gia thân tín mà bà được đối xử như người bạn thân của gia đình giàu có
nầy.
Vậy là đầu tháng tính sổ, bà Tư thấy mình có ba thứ lợi tức:
hai ở Pháp gồm tiền cho thuê nhà và tiền hưu cộng thêm tiền lương ở Mỹ,
tổng cộng hơn 5 nghìn đô.
Bà Jacob rất vui vì có người làm giỏi,
kể chuyện với hai vợ chồng người cháu ở dãy phòng bên cạnh, khen bà Tư
nấu ăn ngon. Hai người nầy làm nghề buôn bán sỉ về kim cương và mỹ phẩm
nên chỉ làm việc tại nhà qua điện thoại đặt hàng. Họ nghe như vậy liền
nhờ bà Tư lợi dụng thì giờ rảnh buổi trưa qua nhà lo cơm trưa cho họ và
đồng ý trả tiền công hậu hỹ. Bà Tư vui vẻ nhận lời ngay, do đó bà có
thêm lợi tức thứ tư.
Cả một chung cư gồm toàn họ hàng bà con giàu
có sống quây quần bên nhau nên chuyện gì vừa mới xảy ra như chuyện Bà
Tư, cả làng đều biết. Nhờ "xề xòa" vui tính và có tài nấu nướng, vào
những ngày đầu tháng hay những ngày lễ lớn như Rosh HaShanah là ngày Tết
Do Thái vào khoảng tháng 9, Yon Kippur là ngày Lễ Xá tội vào tháng 10,
HanaKah là ngày Tưởng niệm vào tháng 12, nơi nào trong cao ốc có tổ chức
tiệc tùng đông người họ đều mời bà Tư phụ trách phần ẩm thực, do đó bà
có thêm lợi tức thứ năm.
Khi thấy thức ăn ngon thừa thãi bà Tư có
nhã ý đem tặng mấy người gác cửa chung cư để gây cảm tình nên từ trên
xuống dưới, từ trong ra ngoài mọi người đều thương mến bà.
Tiền
dành dụm càng lúc càng nhiều mà không tiêu pha bao nhiêu, lại gặp người
Do thái giỏi về tài chánh họ giúp bà đầu tư, hằng năm cũng kiếm thêm lợi
nhuận.
Biết bà Tư giỏi về tâm lý, thích trẻ con và thường rảnh
rỗi buổi tối, hàng xóm có nhiều cặp vợ chồng trẻ muốn đi chơi đêm đều
nhờ bà đến giữ con giùm. Bà vui vẻ nhận lời giúp bà có thêm lợi tức thứ
bảy.
Tuy làm những dịch vụ tầm thường như nấu ăn, săn sóc người
già, con nít nhưng không phải ai cũng thành công được như bà Tư. Sở dĩ
bà được người chung quanh trọng dụng là ngoài kinh nghiệm và kiến thức,
bà còn có cái "TÂM" nơi con người thánh thiện của bà. Bà không hề có mặc
cảm tự ti nên làm việc một cách thoải mái, siêng năng, tận tụy.
Bà Tư Nguyễn Thị Nhàn vừa làm xong công việc cuối cùng ở New York,
được cám ơn và trả công xứng đáng. Bà sắp sửa trở qua Paris để bán nốt
căn nhà, thanh toán tiền bạc còn lại rồi lên đường trở về quê hương.
Ở
Sài Gòn vào tuổi tám mươi bà Tư sẽ bắt đầu một cuộc đời mới nhẹ nhàng
hơn và một sự nghiệp mới là lo cho thế hệ tương lai. Từ một dòng nữ tu
đi ra cuộc đời rồi liên tục làm việc lãnh lương hẳn bà đã thừa kinh
nghiệm, biết cách xoay xở. Dù thế nào đi nữa bà tin tưởng vào sức mạnh
của đồng dollar sẽ giúp bà vượt qua mọi khó khăn để đạt được điều mơ
ước.
Là người công giáo nhưng bà Tư cũng tin ở số mạng của mỗi
người, tuy nhiên theo bà ý chí và quyết tâm là những yếu tố không kém
phần quan trong trong sự thành công ở đời. Bạn bè, bà con ở hải ngoại
chúc bà Tư Nguyễn Thị Nhàn lên đường trở về quê hương gặp nhiều may mắn
và không quên cảm phục tấm lòng vị tha của bà.
Võ Văn Tùng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét