Bốn mươi mốt năm về trước, thành phố Phan Thiết sau mấy cơn mưa đầu mùa, đẫm đầy nước mắt, máu lệ và đạn pháo kích của quân Bắc Việt, thêm sự tàn phá ghê gớm của đám đặc công, quân phạm, trà trộn trong đoàn di tản từ Miền Trung về, làm cho tháng 4-1975 mùa hè hoa phượng, không còn thơm nồng trong những trang lưu bút. Khắp nơi, những trận đánh long trời lở đất đã diễn ra hằng ngày, càng lúc càng ập sát Phan Thiết cũng như Sài Gòn. <!>
Trong cơn mưa rào nước mắt tháng tư, mọi người ai củng cố dầm mưa, để níu lấy một chiếc giây diều tuổi nhỏ, đang mong manh sắp đứt, giữa cơn bão tố loạn cuồng.
Năm đó mưa đến sớm bất ngờ theo với tiếng súng nổ. Phía xa trên đỉnh Trường Sơn, lửa đạn cùng với giông chớp làm rung động đất trời. Những người lính trận Bình Thuận, đêm ngày phờ úa với chiếc ba lô và đạn súng, chạy theo cơn lốc giữa đời nhưng không biết rồi đời sẽ đi về đâu, vào những ngày tháng tư lửa loạn.
Những ngày tháng tư, Phan Thiết càng lúc càng thêm cô quạnh, vì một số lớn người thành phố, trong số này hiện diện không ít các cấp chỉ huy quân cán chính có phương tiện, đã nối tiếp di tản về Nam lánh tai ương chiến nạn. Đây là một sự thật não nùng của Ba trăm hai chục năm Bình Thuận, một nơi chốn luôn khóc tiển nhưng người đi, bọn nhà giàu sau khi vơ vét đầy bao bố tiền vàng chạy về Sài Gòn lập nghiệp ẩn tích làm sang. Lũ khoa bảng.thành đạt, những kẻ sống nghề cầm ca xướng hát, khi nổi tiếng với đời, cho dù có chôn nhao cắt rún ở dây, cũng vẫn cố chối, vì sợ mang tiếng với thiên hạ, bởi mùi nước mắm, cá mực và rơm rạ nơi thôn ổ, quê mùa. Nên những ai còn lại chắc là người nghèo, nhưng cũng ở lỳ trong nhà vì thời thế không biết đâu mà mò.
Khắp nơi, ngoài gió mưa, bom đạn, gần như chỉ còn có những người lính trận, lúc nào cũng nhạt nhòa vì lệ và giọt mưa cô đơn, lăn vèo trên hai khóe mắt. Cứ đánh nhau và tiếp tục thay phiên chôn xác đồng đội, đồng bào bạn bè, giữa những cơn mưa sau chiến trận. Thảm nhất là lúc mà cỏ xanh vừa phủ đẹp trên nấm mộ của người lính, thì tháng 5-1975 mất nước, vài ngày sau đó, người chết tử thi chưa rã, đã bị giày mồ xới mộ để trả thù. Tháng tư, những căn hầm tránh đạn của lính, ngày mưa đêm gió, nước ngập tới võng, khiến cho lính lẫn quan, cứ mở to đôi mắt để mà nghe tiếng nước, từ trời ùa vào hầm sắp ngập tới bụng mình.
Thân phận của người lính miền Nam là như vậy. Ngoài kia bom đạn của cả hai phía, ác liệt từng giây. Phải cám ơn những giọt mưa đã làm nhạt nhòa nước mắt của người lính, bao chục năm đã sống âm thầm, chịu đựng hy sinh, giữa một xã hội vong ân bạc nghĩa như chưa từng biết đến nỗi đau thương và chết chóc bao giờ.
Thật thắm thiết biết bao, khi đọc lại những lời tâm sự đầy nước mắt của Đốc sự Phạm Ngọc Cửu, một viên chức hành chánh, đã phục vụ tại Bình Thuận nhiều năm, từ Phó Quận trưởng Hải Long, Trưởng Ty Kinh Tế, Chánh Văn Phòng cho tới chức vụ cuối cùng là Phó Tỉnh Trưởng. Ông viết Chỉ có những kẻ tự cho rằng mình hoàn hảo, chỉ có những kẻ không làm một cái gì cả, để thấy khả năng mình ở đâu ? Nhưng lúc nào cũng chờ cơ hội để mà phê bình chỉ trích.. Chính những kẻ này mới ganh tị, phỉ báng và bôi xấu quê hương mình.
Ngày nay, trang sử Bình Thuận vẫn còn đó, hồn thiêng sông núi Phan Thành cũng đâu có tan biến, nên lúc nào anh linh của các cán bộ, chiến sĩ, đồng bào bị VC thảm sát oan khiên hay gục ngã khi đối mặt với giặc thù.Máu của họ đã tưới hồng thêm ruộng đồng, sông núi của quê hương. Tất cả đã trở thành những thiên hùng ca bất tử của quân dân Bình Thuận, cho dù xác thân của họ ngày nay đã tan biến theo cát bụi, vì mồ mả đã bị VC liên tiếp san bằng hay ra lệnh di dời, để lấy đất bán cho Việt kiều, xây khách sạn, sân golf và các tụ điểm du lịch.
1 - Ngày 4-4-1975: Bỏ Ngỏ Bình Thuận.
Sáng mồng một tháng 4-1975, một cuộc họp được coi là lịch sử, đã được tổ chức tại Phòng khách danh dự trong Tòa Hành Chánh tỉnh, gồm BCH. Hành chánh, Tiểu khu và bảy Quận trưởng. Đây là một buổi họp đặc biệt, mục đích để tìm cách đối phó hữu hiệu với đoàn di tản chiến thuật, từ Cao nguyên và Miền Trung, sắp tới Phan Thiết vì kể từ đêm qua tới nay, Bình Thuận vẫn không hề nhận được một chỉ thị hay câu trả lời Đã ghi nhận, chừng ấy thôi, từ BTL SĐ23BB, QĐ2,Trung tâm hành quân của Bộ TTM/QLVNCH và Phủ Thủ tướng. Thời gian này, tại địa phương, VC chỉ quấy rối lẻ tẻ nhưng không gây thiệt hại nào đáng kể. Xa hơn, tình hình chiến sự Lâm Đồng, vừa được Trung Tá Tỉnh Trưởng Vương Đăng Phong cho biết rất sôi động, nhất là tại mặt trận giáp ranh với Quận Định Quán (Long Khánh). Phía Nam, QL 1 đã bị VC bít cứng ở Rừng Lá (Bình Tuy), quân số tập trung cả Quân đoàn, với ý đồ chuẩn bị một trận tấn công khủng khiếp vào SĐ18BB tại Xuân Lộc. Ở Bình Tuy cũng đã lập một nút chặn rất hùng hậu, từ Căn cứ 10, ở Ngã ba cây số 46 chạy tới Thị xã La Gi, với mục đích giải giới Đoàn quân trên.
Như vậy Đoàn di tản chắc chằn sẽ bị khựng lại và dội ngược về Bình Thuận, chừng đó Phan Thiết sẽ hứng chịu toàn bộ sức nặng này. Để giải quyết một biến động tàn khóc, mà không một thẩm quyền nào, từ Trung Ương cho tới Quân Khu và các Tỉnh Thị đã bó tay, nên các cấp chỉ huy tại Bình Thuận, trong cuộc họp trên, đã đề nghị thật nhiều giải pháp như nhờ BTL.Không và Hải Quân, yểm trợ phương tiện, chuyển vận đoàn di tản từ Bình Thuận về Nam bằng máy bay và chiến hạm. Laị có những đề nghị có tính cách quân sự như dùng mìn, đánh sập vài chiếc cầu lớn trên QL1, hay xử dụng pháo binh làm thành hàng rào hỏa lực và cuối cùng là thiết lập một nút chặn tại Cà Ná, ranh giới giữa Quân Tuy Phong và tỉnh Ninh Thuận.
Nhưng dù có gọi cuộc di tản trên bằng một cái tên nào chăng nửa, thì đối với những người có trách nhiệm tại Bình Thuận, nó cũng được đánh giá như một cuộc tấn công vĩ đại nhất từ trước tới nay, trong lịch sử chiến tranh của Ba Trăm Hai Chục Năm Miền Biển Mặn. Trong khi đó, không một ai có đủ thẩm quyền bắt nó dừng lại, mà chỉ hy vọng giới hạn phần nào sự tàn phá của nó, để tiết kiệm bớt máu xương của đồng bào, giảm thiểu thiệt hại vật chất, giữ được tinh thần chiến đấu của quân, cán, chính trong tình huống xôi động này.
Hơn nữa các đối tượng trước mắt, tuyệt đại đa số không phải là địch, mà là một lực lượng vì hoàn cảnh phải di tản chiến thuật. Nên dù không một cấp chỉ huy nào nói ra hay chỉ thị, thì ai cũng phải hiểu rằng nó phải được che chắn an toàn, để tái phối trí, chứ không phải là đoàn quân phản loạn, thật sự chống lại quân Chính Phủ như tại Vùng I Chiến Thuật, vào những năm xáo trộn 1965-1967. Do đó, không một ai dám, kể cả Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên vào lúc đó, công khai ra lệnh tàn sát Họ. Cuối cùng cho dù có ra mặt đối phó, liệu ngăn cản đuợc hay không, trước một lực lượng đông đảo, tuy là ô hợp nhưng cũng đủ xe tăng, đại pháo, quân số và súng đạn để trả thù, tàn sát, tàn phá và cảnh nồi da xáo thịt giữa những người lính cùng chung một màu cờ sắc áo lại tái diễn, chẳng những có lợi cho giặc, mà còn trúng kế bọn Việt gian phản tặc, đám khoa bảng trí thức thân Cộng, đang thấp thỏm theo dõi tình hình từng giây phút, để mà viết bài đăng báo, làm vui đảng và bác Hồ tặc Nguyễn Tất Thành.Đó là một bài toán nát óc, một sự khó khăn nhất trong cuộc đời quân ngũ, mà Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa Tỉnh/Tiểu Khu Trưởng phải quyết định trong phiên họp lịch sử hôm đó “Bỏ Ngỏ Thành Phố Phan Thiết” suốt thời gian Đoàn Di Tản đi ngang qua.
Rồi điều không ai muốn cũng phải làm trong khi đợi chờ. Tất cả đặt trong tình trạng báo động cao nhất. Đối với các Đơn Vị đóng dọc QL1, được lệnh lùi sâu vào phía trong, để tránh tình trạng ngộ nhận, khiêu khích giữa hai phía, và phải trở lại vị trí cũ ngay, để bảo vệ cầu đường thông suốt và ngăn chận mọi sự tấn công, đóng chốt của địch.
Tại Phan Thiết,bắt đầu ngày 2-4-1975, đã có một số đồng bào và các gia đình cán bộ, công chức, quân đội., hưởng ứng theo lời kêu gọi của Chính quyền địa phương, đã tạm thời thu xếp lánh ra ngoại ô nhất là Phú Hài, Rạng, Mũi Né để tạm lánh nạn. Ty Dân Vận Chiêu Hồi, Đại Đội Chiến Tranh Chính Trị, Tỉnh Đoàn CB/XDNT cùng với Xã Châu Thành Phan Thiết, cũng đã sử dụng tất cả phương tiện truyền thanh, để trấn an và kêu gọi đồng bào bình tỉnh, trước mọi tình huống xấu, để tránh nguy hiểm, thiệt hại tài sản và sinh mệnh. có thể sẽ xảy ra.
Quận trưởng Hải Long được giao trách nhiệm, bảo vệ an ninh tỉnh lộ từ Phan Thiết tới Mũi Né, thông suốt 24/24, đồng thời bằng phương tiện sẳn có cùng phối hợp với Ty Giáo Dục và Thanh Niên, Tỉnh Đoàn CB/XDNT.. thành lập các Khu Tạm Trú tại Trường Học, Chùa, Nhà Thờ, Nhà Lều Nước Mắm.. để chuẩn bị tiếp nhận đồng bào các nơi tới tạm trú. Quận Hàm Thuận giữ an ninh tuyệt đối trên QL1, từ Phan Thiết tới cây số 25 giáp ranh với Bình Tuy. Quận Thiện Giáo hành quân, mở rộng vòng đai, hạn chế VC pháo kích về thành phố, gây thêm chết chóc và hổn loạn khi có mặt đoàn di tản. Tiểu đoàn 229ĐP của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tiến được điều động về bảo vệ TK và Tòa Hành Chánh Tỉnh.
Con đường huyết mạch, nối liền Phan Thiết với Phi trường và nhất là Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch, đã được BCH. Tiểu Khu bảo vệ chặt chẻ và cẩn mật, để sẳn sàng chuyển vận các nạn nhân đến chữa trị. Ty Y Tế và Bệnh Viện Phan Thiết trên đường Hải Thượng Lãn Ông hoạt động 24/24, đồng thời cũng lập thêm Hai Toán Y Tế cứu cấp lưu động, thường trực tại Trường Tiểu Học Đức Thắng và Nam Phan Thiết, trên Đại lộ Trần Hưng Đạo, để kịp thời cứu cấp bệnh nhân, khi không thể chuyển vận họ tới được Bệnh viện hay QYV.
Riêng Ty An Ninh QĐ, Ty Cảnh Sát QG và Phòng 2 TK sẳn sàng đối phó với Đặc Công CS, bọn này đang trà trộn trong Đoàn Di Tản, để kích động, khiêu khích, tạo hổn loạn kể cả đốt phá các cơ sở chính quyền, cây xăng, chợ búa. Riêng Xã Phan Thiết, phải theo dõi bọn trộm cướp, du đảng có tiến án, để ngăn chận kịp thời, bảo vệ sinh mạng và tài sản đồng bào. Ngoài ta Tiểu Khu phải thiết lập ngay Một BCH nhẹ, đóng trên Lầu Ông Hoàng vớí hệ thống truyền tin 24/24.
Cuối cùng Tỉnh cũng đã dự trù kế hoạch dành cho giờ thứ 25, mở lại đường bay Dân sự Phan Thiết-Sài Gòn, ký hợp đồng thuê mướn các ghe tàu đánh cá tư nhân, để sẵn sàng chuyên chở cán bộ và gia đình, kể cả đồng bào khi cần thiết. Tiền thanh toán được rút từ Ngân khoản Khai Hoang Lập Ấp, hiện đang tạm đình chỉ, vì tình hình chiến sự. Ngoài ra Phái Viên Hành Chánh Phú Quý cũng đã chuẩn bị sẳn sàng một đoàn ghe, khi cần thiết sẽ vào Phan Thiết công tác.
Năm đó mưa đến sớm bất ngờ theo với tiếng súng nổ. Phía xa trên đỉnh Trường Sơn, lửa đạn cùng với giông chớp làm rung động đất trời. Những người lính trận Bình Thuận, đêm ngày phờ úa với chiếc ba lô và đạn súng, chạy theo cơn lốc giữa đời nhưng không biết rồi đời sẽ đi về đâu, vào những ngày tháng tư lửa loạn.
Những ngày tháng tư, Phan Thiết càng lúc càng thêm cô quạnh, vì một số lớn người thành phố, trong số này hiện diện không ít các cấp chỉ huy quân cán chính có phương tiện, đã nối tiếp di tản về Nam lánh tai ương chiến nạn. Đây là một sự thật não nùng của Ba trăm hai chục năm Bình Thuận, một nơi chốn luôn khóc tiển nhưng người đi, bọn nhà giàu sau khi vơ vét đầy bao bố tiền vàng chạy về Sài Gòn lập nghiệp ẩn tích làm sang. Lũ khoa bảng.thành đạt, những kẻ sống nghề cầm ca xướng hát, khi nổi tiếng với đời, cho dù có chôn nhao cắt rún ở dây, cũng vẫn cố chối, vì sợ mang tiếng với thiên hạ, bởi mùi nước mắm, cá mực và rơm rạ nơi thôn ổ, quê mùa. Nên những ai còn lại chắc là người nghèo, nhưng cũng ở lỳ trong nhà vì thời thế không biết đâu mà mò.
Khắp nơi, ngoài gió mưa, bom đạn, gần như chỉ còn có những người lính trận, lúc nào cũng nhạt nhòa vì lệ và giọt mưa cô đơn, lăn vèo trên hai khóe mắt. Cứ đánh nhau và tiếp tục thay phiên chôn xác đồng đội, đồng bào bạn bè, giữa những cơn mưa sau chiến trận. Thảm nhất là lúc mà cỏ xanh vừa phủ đẹp trên nấm mộ của người lính, thì tháng 5-1975 mất nước, vài ngày sau đó, người chết tử thi chưa rã, đã bị giày mồ xới mộ để trả thù. Tháng tư, những căn hầm tránh đạn của lính, ngày mưa đêm gió, nước ngập tới võng, khiến cho lính lẫn quan, cứ mở to đôi mắt để mà nghe tiếng nước, từ trời ùa vào hầm sắp ngập tới bụng mình.
Thân phận của người lính miền Nam là như vậy. Ngoài kia bom đạn của cả hai phía, ác liệt từng giây. Phải cám ơn những giọt mưa đã làm nhạt nhòa nước mắt của người lính, bao chục năm đã sống âm thầm, chịu đựng hy sinh, giữa một xã hội vong ân bạc nghĩa như chưa từng biết đến nỗi đau thương và chết chóc bao giờ.
Thật thắm thiết biết bao, khi đọc lại những lời tâm sự đầy nước mắt của Đốc sự Phạm Ngọc Cửu, một viên chức hành chánh, đã phục vụ tại Bình Thuận nhiều năm, từ Phó Quận trưởng Hải Long, Trưởng Ty Kinh Tế, Chánh Văn Phòng cho tới chức vụ cuối cùng là Phó Tỉnh Trưởng. Ông viết Chỉ có những kẻ tự cho rằng mình hoàn hảo, chỉ có những kẻ không làm một cái gì cả, để thấy khả năng mình ở đâu ? Nhưng lúc nào cũng chờ cơ hội để mà phê bình chỉ trích.. Chính những kẻ này mới ganh tị, phỉ báng và bôi xấu quê hương mình.
Ngày nay, trang sử Bình Thuận vẫn còn đó, hồn thiêng sông núi Phan Thành cũng đâu có tan biến, nên lúc nào anh linh của các cán bộ, chiến sĩ, đồng bào bị VC thảm sát oan khiên hay gục ngã khi đối mặt với giặc thù.Máu của họ đã tưới hồng thêm ruộng đồng, sông núi của quê hương. Tất cả đã trở thành những thiên hùng ca bất tử của quân dân Bình Thuận, cho dù xác thân của họ ngày nay đã tan biến theo cát bụi, vì mồ mả đã bị VC liên tiếp san bằng hay ra lệnh di dời, để lấy đất bán cho Việt kiều, xây khách sạn, sân golf và các tụ điểm du lịch.
1 - Ngày 4-4-1975: Bỏ Ngỏ Bình Thuận.
Sáng mồng một tháng 4-1975, một cuộc họp được coi là lịch sử, đã được tổ chức tại Phòng khách danh dự trong Tòa Hành Chánh tỉnh, gồm BCH. Hành chánh, Tiểu khu và bảy Quận trưởng. Đây là một buổi họp đặc biệt, mục đích để tìm cách đối phó hữu hiệu với đoàn di tản chiến thuật, từ Cao nguyên và Miền Trung, sắp tới Phan Thiết vì kể từ đêm qua tới nay, Bình Thuận vẫn không hề nhận được một chỉ thị hay câu trả lời Đã ghi nhận, chừng ấy thôi, từ BTL SĐ23BB, QĐ2,Trung tâm hành quân của Bộ TTM/QLVNCH và Phủ Thủ tướng. Thời gian này, tại địa phương, VC chỉ quấy rối lẻ tẻ nhưng không gây thiệt hại nào đáng kể. Xa hơn, tình hình chiến sự Lâm Đồng, vừa được Trung Tá Tỉnh Trưởng Vương Đăng Phong cho biết rất sôi động, nhất là tại mặt trận giáp ranh với Quận Định Quán (Long Khánh). Phía Nam, QL 1 đã bị VC bít cứng ở Rừng Lá (Bình Tuy), quân số tập trung cả Quân đoàn, với ý đồ chuẩn bị một trận tấn công khủng khiếp vào SĐ18BB tại Xuân Lộc. Ở Bình Tuy cũng đã lập một nút chặn rất hùng hậu, từ Căn cứ 10, ở Ngã ba cây số 46 chạy tới Thị xã La Gi, với mục đích giải giới Đoàn quân trên.
Như vậy Đoàn di tản chắc chằn sẽ bị khựng lại và dội ngược về Bình Thuận, chừng đó Phan Thiết sẽ hứng chịu toàn bộ sức nặng này. Để giải quyết một biến động tàn khóc, mà không một thẩm quyền nào, từ Trung Ương cho tới Quân Khu và các Tỉnh Thị đã bó tay, nên các cấp chỉ huy tại Bình Thuận, trong cuộc họp trên, đã đề nghị thật nhiều giải pháp như nhờ BTL.Không và Hải Quân, yểm trợ phương tiện, chuyển vận đoàn di tản từ Bình Thuận về Nam bằng máy bay và chiến hạm. Laị có những đề nghị có tính cách quân sự như dùng mìn, đánh sập vài chiếc cầu lớn trên QL1, hay xử dụng pháo binh làm thành hàng rào hỏa lực và cuối cùng là thiết lập một nút chặn tại Cà Ná, ranh giới giữa Quân Tuy Phong và tỉnh Ninh Thuận.
Nhưng dù có gọi cuộc di tản trên bằng một cái tên nào chăng nửa, thì đối với những người có trách nhiệm tại Bình Thuận, nó cũng được đánh giá như một cuộc tấn công vĩ đại nhất từ trước tới nay, trong lịch sử chiến tranh của Ba Trăm Hai Chục Năm Miền Biển Mặn. Trong khi đó, không một ai có đủ thẩm quyền bắt nó dừng lại, mà chỉ hy vọng giới hạn phần nào sự tàn phá của nó, để tiết kiệm bớt máu xương của đồng bào, giảm thiểu thiệt hại vật chất, giữ được tinh thần chiến đấu của quân, cán, chính trong tình huống xôi động này.
Hơn nữa các đối tượng trước mắt, tuyệt đại đa số không phải là địch, mà là một lực lượng vì hoàn cảnh phải di tản chiến thuật. Nên dù không một cấp chỉ huy nào nói ra hay chỉ thị, thì ai cũng phải hiểu rằng nó phải được che chắn an toàn, để tái phối trí, chứ không phải là đoàn quân phản loạn, thật sự chống lại quân Chính Phủ như tại Vùng I Chiến Thuật, vào những năm xáo trộn 1965-1967. Do đó, không một ai dám, kể cả Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên vào lúc đó, công khai ra lệnh tàn sát Họ. Cuối cùng cho dù có ra mặt đối phó, liệu ngăn cản đuợc hay không, trước một lực lượng đông đảo, tuy là ô hợp nhưng cũng đủ xe tăng, đại pháo, quân số và súng đạn để trả thù, tàn sát, tàn phá và cảnh nồi da xáo thịt giữa những người lính cùng chung một màu cờ sắc áo lại tái diễn, chẳng những có lợi cho giặc, mà còn trúng kế bọn Việt gian phản tặc, đám khoa bảng trí thức thân Cộng, đang thấp thỏm theo dõi tình hình từng giây phút, để mà viết bài đăng báo, làm vui đảng và bác Hồ tặc Nguyễn Tất Thành.Đó là một bài toán nát óc, một sự khó khăn nhất trong cuộc đời quân ngũ, mà Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa Tỉnh/Tiểu Khu Trưởng phải quyết định trong phiên họp lịch sử hôm đó “Bỏ Ngỏ Thành Phố Phan Thiết” suốt thời gian Đoàn Di Tản đi ngang qua.
Rồi điều không ai muốn cũng phải làm trong khi đợi chờ. Tất cả đặt trong tình trạng báo động cao nhất. Đối với các Đơn Vị đóng dọc QL1, được lệnh lùi sâu vào phía trong, để tránh tình trạng ngộ nhận, khiêu khích giữa hai phía, và phải trở lại vị trí cũ ngay, để bảo vệ cầu đường thông suốt và ngăn chận mọi sự tấn công, đóng chốt của địch.
Tại Phan Thiết,bắt đầu ngày 2-4-1975, đã có một số đồng bào và các gia đình cán bộ, công chức, quân đội., hưởng ứng theo lời kêu gọi của Chính quyền địa phương, đã tạm thời thu xếp lánh ra ngoại ô nhất là Phú Hài, Rạng, Mũi Né để tạm lánh nạn. Ty Dân Vận Chiêu Hồi, Đại Đội Chiến Tranh Chính Trị, Tỉnh Đoàn CB/XDNT cùng với Xã Châu Thành Phan Thiết, cũng đã sử dụng tất cả phương tiện truyền thanh, để trấn an và kêu gọi đồng bào bình tỉnh, trước mọi tình huống xấu, để tránh nguy hiểm, thiệt hại tài sản và sinh mệnh. có thể sẽ xảy ra.
Quận trưởng Hải Long được giao trách nhiệm, bảo vệ an ninh tỉnh lộ từ Phan Thiết tới Mũi Né, thông suốt 24/24, đồng thời bằng phương tiện sẳn có cùng phối hợp với Ty Giáo Dục và Thanh Niên, Tỉnh Đoàn CB/XDNT.. thành lập các Khu Tạm Trú tại Trường Học, Chùa, Nhà Thờ, Nhà Lều Nước Mắm.. để chuẩn bị tiếp nhận đồng bào các nơi tới tạm trú. Quận Hàm Thuận giữ an ninh tuyệt đối trên QL1, từ Phan Thiết tới cây số 25 giáp ranh với Bình Tuy. Quận Thiện Giáo hành quân, mở rộng vòng đai, hạn chế VC pháo kích về thành phố, gây thêm chết chóc và hổn loạn khi có mặt đoàn di tản. Tiểu đoàn 229ĐP của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tiến được điều động về bảo vệ TK và Tòa Hành Chánh Tỉnh.
Con đường huyết mạch, nối liền Phan Thiết với Phi trường và nhất là Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch, đã được BCH. Tiểu Khu bảo vệ chặt chẻ và cẩn mật, để sẳn sàng chuyển vận các nạn nhân đến chữa trị. Ty Y Tế và Bệnh Viện Phan Thiết trên đường Hải Thượng Lãn Ông hoạt động 24/24, đồng thời cũng lập thêm Hai Toán Y Tế cứu cấp lưu động, thường trực tại Trường Tiểu Học Đức Thắng và Nam Phan Thiết, trên Đại lộ Trần Hưng Đạo, để kịp thời cứu cấp bệnh nhân, khi không thể chuyển vận họ tới được Bệnh viện hay QYV.
Riêng Ty An Ninh QĐ, Ty Cảnh Sát QG và Phòng 2 TK sẳn sàng đối phó với Đặc Công CS, bọn này đang trà trộn trong Đoàn Di Tản, để kích động, khiêu khích, tạo hổn loạn kể cả đốt phá các cơ sở chính quyền, cây xăng, chợ búa. Riêng Xã Phan Thiết, phải theo dõi bọn trộm cướp, du đảng có tiến án, để ngăn chận kịp thời, bảo vệ sinh mạng và tài sản đồng bào. Ngoài ta Tiểu Khu phải thiết lập ngay Một BCH nhẹ, đóng trên Lầu Ông Hoàng vớí hệ thống truyền tin 24/24.
Cuối cùng Tỉnh cũng đã dự trù kế hoạch dành cho giờ thứ 25, mở lại đường bay Dân sự Phan Thiết-Sài Gòn, ký hợp đồng thuê mướn các ghe tàu đánh cá tư nhân, để sẵn sàng chuyên chở cán bộ và gia đình, kể cả đồng bào khi cần thiết. Tiền thanh toán được rút từ Ngân khoản Khai Hoang Lập Ấp, hiện đang tạm đình chỉ, vì tình hình chiến sự. Ngoài ra Phái Viên Hành Chánh Phú Quý cũng đã chuẩn bị sẳn sàng một đoàn ghe, khi cần thiết sẽ vào Phan Thiết công tác.
Ngày 2-4-1975, Bộ Tư Lệnh/ Quân Đoàn II lần lượt tan hàng tại Pleiku và Nha Trang., và cuối cùng bị xóa tên, vào lúc 1giờ 45 trưa cùng ngày, qua quyết định của Bộ Tổng Tham Mưu/QLVNCH, sáp nhập phần lãnh thổ còn lại vào QĐIII. Một đêm trôi qua và cuối cùng Đoàn Di Tản cũng đã vào lãnh thổ Bình Thuận. Các Quận Tuy Phong, Hải Ninh nhờ không nằm trên QL1 nên ít bị thiệt hại vật chất. Ngược lại Quận Hòa Đa bị tàn phá nặng nề, từ Phan Rí Cửa, Phan Rí Thành,Chợ Lầu vào tới Lương Sơn nằm dưới chân núi Tà Dôn. Tiệm ăn, quán giải khát, cửa hàng tạp hóa đều bị cướp sạch.
Trước tình hình như vậy, BCH/ Tiểu Khu Bình Thuận điều động Tiểu Đoàn 229/ĐP do Th/tá Nguyễn Hữu Tiến làm Tiểu Đoàn Trưởng, lúc đó đang làm nhiệm vụ giữ an ninh cho Khu định cư Nghĩa Thuận nằm bên kia Đập Đồng Mới, thuộc xã Lương Sơn.Tiểu Đoàn rút về tăng cường cho Nam Bình Thuận. Vào ngày 1-4-75, Đại đội 4/248/ĐP do Tr/úy Nguyễn Tấn Hợi làm Đại Đội Trưởng thay thế T Đ /229/ĐP. Trong ngày này Tiểu Đoàn được tăng phái cho Chi Khu Hàm Thuận, riêng Đại Đội 4/229/ĐP do Tr/úy Cao Hoài Sơn làm Đại Đội Trưởng, phụ trách bảo vệ Nông Trường Sao Đỏ và đồng bào hồi hương từ Campuchia tại Bình Tú, thế cho đơn vị của Đại úy Huỳnh Văn Quý đã di chuyển tăng cường cho mặt trận Ba Hòn (Kim Bình, Hàm Thuận).
Ngày 3-4-1975, toàn bộ Tiểu Đoàn 229/ĐP được lệnh di chuyển về phòng thủ bảo vệ Tiểu Khu và Tòa Hành Chánh Tỉnh. Đại đội 2/229 do Đại úy Lê Viết Duyên làm Đại Đội Trưởng, phòng thủ chu vi Tòa Hành Chánh. Đại đội 3/229 do Tr/úy Nguyễn Dương Quang làm Đại Đội Trưởng trú đóng tại Vườn Hoa, Lầu nước. Đại Đội 1/229 do Tr/úy Nguyễn Văn Thứ làm Đại Đội Trưởng, đóng từ Bưu Điện qua Ngân Khố dọc theo đường Hải Thượng Lãn Ông. Đại Đội 4/229 của Trung Uý Cao Hoài Sơn, đóng dọc theo đường Nguyễn Hoàng, bảo vệ mặt sau Tiểu Khu.
Một ngày đêm trôi qua trong hồi hộp lo sợ, cuối cùng đoàn di tản cũng tới Phan Thiết theo ngã Quốc Lộ 1 từ Bắc Bình Thuận, sau khi đã tàn phá tất cả trên đường đi, gồm các thị trấn Long Hương, Phan Rí Thành,Phan Rí Cửa, Chợ Lầu, Lương Sơn.
.....Tại Phan Thiết sáng ngày 4-4-1975,trên các con đường phố tràn ngập những quân xa, có cả Thiết giáp M113 và Tank M41, M48. Xe Honda và người tràn ngập trên vỉa hè, tất cả các Chợ, Quán ăn, Tiệm tạp hóa, Cây xăng đều đóng cửa.
Một số côn đồ trà trộn theo đoàn di tản, đã lợi dụng tình thế cướp giật. Đồng thời không ít Cộng quân đã đột nhập vào thị xã Phan Thiết, gây tình trạng rối ren hầu tìm cách đánh úp ta.Thành phố bị đập phá tan hoang, các cửa tiệm, cây xăng bị cướp phá. kể cả các kho chứa gạo dự trữ cũng bị cướp đi. Ai nhìn cảnh này lòng cũng đều đau như cắt, nhưng vì lệnh không được nổ súng, để tránh gây thêm hỗn loạn, dân lành sẽ chết và đặc cộng địch sẽ lợi dụng cơ hội giết thêm dân, rồi vu vạ cho ta. Đó là lý do Đại tá Nghĩa để Phan Thiết bỏ ngỏ, tránh cảnh huynh đệ tương tàn !
Sáng ngày 4-4-75 tại Cầu Bằng Lăng ở đoạn đường vắng gần núi Tà Dôn, đoàn di tản đã bị VC phục kích. Có hai binh sĩ của Đại đội 4/229 đang công tác may mắn thoát chết.Theo lời tường thuật của hai nhân chứng thì đoàn di tản bị thương vong rất nhiều, vì VC bắn bừa bãi vào đoàn xe, trên đó đa số là Dân chạy nạn từ vùng hỏa tuyến về. May nhờ có chiến xa tiến lên tiêu diệt địch quân,yểm trợ cho đoàn di tản tiếp tục tiến vê Phan Thiết.
Cơn lốc tàn phá cuối cùng cũng đã tới, khi một số lượng lớn người và xe cộ di tản vào Phan Thiết, một số khác đi thẳng về Bình Tuy. Hỗn loạn khắp nơi, đến 10 giờ đêm thì bọn cướp đốt cháy ngôi Chợ Lồng trên đường Gia Long. ĐĐ4/229 của Tr/úy Cao Hoài Sơn đã được lệnh đến hiện trường, tìm cách giúp đỡ dân chúng chữa lửa cùng trấn áp bọn tội phạm thừa lúc hỗn loạn cướp phá. Tới hừng sáng mới dập tắt được đám cháy trong chợ thì VC bắt đầu pháo kích vào BCH / Tiểu Khu. Nhưng đạn lạc ra ngoài quanh Vườn Hoa, dọc bờ sông đường Trưng Trắc, và Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín. Có hai trái rớt vào khu dân cư ở Khu II Bình Hưng làm nhiều thường dân vô tội thương vong. Nhờ ta pháo trả kịp thời nên đã bịt kín họng súng của đích lúc đó đang đặt tại Xuân Phong, Đại Nẫm.
10 giờ, địch lại pháo vào Phan Thiết nhưng rớt vào nhà dân, làm tử thương thêm vài người. Một bọn du đảng ở Lò Heo nhặt đâu được một chiếc xe Jeep quân đội bỏ lại, cắm cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tay cầm súng AK 47, mang băng đỏ, lái xe băng qua cầu Quan chạy khắp phố như chỗ không người. Nhưng khi tới trước rạp Chiếu bóng Bình Thuận và Khách sạn Anh Đào thì đụng ngay với Đại đội 1/229/ĐP của Tr/úy Nguyễn Văn Thứ. Những tràng đạn M16 của ta đã diệt gọn không sót một tên, xác chết nằm vắt trên xe, bọn này có lẽ bị VC nằm vùng giật dây, cho rằng chính quyền đã bỏ chạy hết, nên tìm cách cướp chính quyền lập công dâng đảng.
Buổi trưa có hai hỏa tiễn 122 ly từ hướng Xuân Phong, Trinh Tường pháo vào trung tâm Phan Thiết làm thương vong thêm một số người. Chừng ấy đoàn di tản mới chịu rời thành phố nhưng lại rơi vào ổ phục kích của VC tại cây số 37 trên QL1. Số còn lại chạy thoát vào căn cứ 10 thì bị Tiểu Khu Bình Tuy giải giới hết.Tuy vậy Tiểu Đoàn 229/ĐP vẫn được lệnh tiếp tục bảo vệ Thị Xã Phan Thiết thêm hai ngày mới rút.
Ngay khi Phan Thiết được giải tỏa,Tỉnh Đoàn CB/XDNT/BT, chỉ thị cho Đoàn CB/XDNT từ Nông trường Sao Đỏ về Trường Nam Tiểu Học, để tiếp nhận hơn 10.000 đồng bào chiến nạn, từ các tỉnh Cao nguyên và Duyên Hải Miền Trung chạy về. Sau đó, số đồng bào trên, đuợc chuyển tiếp bằng GMC, tới các Trại Tạm Cư, vừa được tỉnh thiết lập, dưới rặng dừa xanh, chạy dài từ Đá Ông Địa, tới Trường Tiểu Học Rạng, thuộc Xã Thiện Khánh, Quận Hải Long. Đoàn được tăng cường thêm 10 cán bộ địa phương của Phùng Bửu Hưng, phối hợp với Ty Giáo Dục và Ty Xã Hội dựng lều trại, lập danh sách cấp phát gạo, cá thịt hộp, chăn mền, quần áo cũ, thuốc men và các phương tiện, cho những gia đình muốn về Nam.
2 - Những Ngày Cuối Cùng Của Tỉnh/Tiểu Khu Bình Thuận.
Ngày 7-4-1975, sau khi Lâm Đồng bỏ ngỏ, quân Bắc Việt từ Di Linh về tấn công Chi Khu Thiện Giáo và Trung Đội Nghĩa Quân,bảo vệ Cầu Ngựa tại Xóm Gọ,đồng thời pháo kích vào TĐ230 ĐPQ, để chận đường tiếp viện. Trận chiến thật ác liệt., VC mở nhiều đợt tấn công nhưng đều bị chận tại hàng rào phòng thủ,bởi mìn Claymore, lựu đạn và những khẩu đại liên ở các lô cốt. Trận này, có sự tham dự của hai Đại Đội thuộc TĐ230, do Đại Uý Tập và Trung Úy Sanh chỉ huy, thêm vào yểm trợ của Pháo Binh và Trực Thăng võ trang. Sáng ngày 8-4-1975, VC chém vè, bỏ lại chiến trường 72 xác chết, bên ta có 14 tử thương và nhiều binh sĩ thương nặng.
Ngày 12-4-1975, VC lại pháo 130 ly vào quận Thiện Giáo, đồng thời chiếm Xóm Động Giá, Phú Long, làm gián đọan lưu thông trên QL1. Đại Uý Huỳnh Văn Quý, được chỉ định thay thế Thiếu Tá Phan Sang, làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 249/ĐPQ. Đại Uý Nguyễn Văn Hạnh, một sĩ quan kỳ cựu thuộc Liên Đoàn 4BĐQ thuyên chuyển về Phan Thiết, được chỉ định làm Tiểu Đoàn Phó. Tiểu Đoàn được tăng cường thêm ĐĐ283/ĐPQ biệt lập của Đại Uý Nguyễn Văn Ba (Một sĩ quan thuộc binh chũng LLĐB), đã tái chiếm lại được Cầu Phú Long và thị trấn, sau những trận đụng độ ác liệt kinh hồn. Ngày 15-4-1975, VC từ khắp nơi, pháo kích dồn dập vào Chi khu Thiện Giáo. kể cả các xã trên QL1 như Long Phú, Hòa Vinh, Tuỳ Hòa đang do Tiểu Đoàn 275ĐP trách nhiệm.Do trên Tiểu Khu cho lệnh Chi Khu di tản khỏi Ma Lâm và điều động TĐ230 về phòng thủ Phan Thiết.
Ngày 16-4-1975, phòng tuyến Phan Rang vỡ, trước sự tấn công biển người của mấy sư đoàn và tăng pháo Bắc Việt. Các tướng lãnh Nguyễn Vĩnh Nghi, Phạm Ngọc Sang, Đại Tá Nguyễn Thu Lương.. cũng như hầu hết các sĩ quan trong Bộ Chỉ Huy/Tiền Phương của QĐ3, đều sa vào tay giặc tại chiến trường, ngoại trừ Tư Lệnh SĐ2BB là tướng Trần Văn Nhựt đuợc HQ đậu ngoài Vịnh Ninh Chữ cứu thoát. Cũng trong ngày, quân Bắc Việt ào ạt theo quốc lộ 1, qua Cà Ná, tiến vào lãnh thổ Bình Thuận. Giờ thứ 25 đã tới, một số quân cán chính Tuy Phong được Tàu Hải Quân vớt tại vịnh Cà Ná.
Tại Bắc Bình Thuận, Đại đội 4/ TĐ 248/ĐP là đơn vị tiền phương xa nhất của TK Bình Thuận. Đơn vị đóng bên này Cầu Đá Chẹt (Cà Ná) là ranh giới của Tiểu khu Bình Thuận và Ninh Thuận trên QL1. Vì tình hình chuyển biến quá nhanh, nên sau khi liên lạc về BCH/TĐ248 ĐP, Đại Đội 4 nhận được lệnh bỏ Cà Ná và rút toàn bộ Đại đội (-) đến đóng quân ở một ngọn đồi thấp, đối diện với sở Nước Suối Vĩnh Hảo. Đây là một vị trí phòng thủ thiên nhiên rất lý tưởng, hơn nữa nếu nguy cấp Đại đội có thể rút ra phía sau núi là bờ biển..
Lúc 10 giờ sáng ngày 16-4-75, từ trên núi Trung Uý Nguyễn Tấn Hợi, ĐĐT/ĐĐ4/248ĐP qua ống dòm, phát hiện đoàn xe địch di chuyển từ Cà Ná vào và dừng lại tại xóm Vĩnh Hảo. Lúc này mặt trận Phan Rang còn đang tiếp diễn ác liệt thì làm sao có thể phá hủy cầu Đá Chẹt được là đường duy nhất để đoàn quân tại Phan Rang lui quân. Đại Đội liên lạc về BCH/TĐ xin phi vụ để oanh kích đoàn xe địch đang dồn cục tại Vĩnh Hảo và phá hủy cầu Đá Chẹt. Lúc đó đoàn xe của CSBV chỉ cách ĐĐ4/248ĐP chừng 4-5 cây số và BCH/TĐ 10 cây số.. Cuối cùng đơn vị trên đã liên lạc được với không quân khoảng giữa trưa, chỉ rõ mục tiêu cần oanh kích cho viên Phi công là đoàn xe địch tại xóm Vĩnh Hảo, nhưng không hiểu vì lý do gì ? Hai chiếc F5 lại thả hai trái bom xuống vị trí đóng quân của ĐĐ4/248, cũng may bom lạc ra phía sau hướng về cầu Đại Hòa nên không ai bị thương vong.
Theo Trung Uý Hợi qua máy vẫn nghe họ gọi danh hiệu mình là “Bản Thế” nhưng đã không lên tiếng. Ông sợ nếu họ biết được đơn vị còn thì dám có thể ăn tiếp hai trái nữa lắm. Vì không nghe trả lời nên phi công bay về hướng “ Lê Lai-Sơn Tây” tức Lương Sơn, để thanh toán 2 trái còn lại xuống một đơn vị nào đó mà họ biết! Sau này có gặp Thiếu úy Đỗ Văn Khuyến ĐĐP/ĐĐ4/TĐ/212/ĐP đóng tại Đồn Cây Táo (hiện ở Seattle), nhờ có theo dõi tình hình trên máy, nên kịp thời rút ra khỏi đồn Cây Táo và cuối cùng quả nhiên đồn này nhận 2 quả bom còn sót lại. Đoàn xe địch khi vào đến gần Lương Sơn thì bị chặn lại tại dốc Bà Chá với bãi mìn chống chiến xa làm 7 chiếc bị phá hủy. Dấu tích còn lại sau 1975 là xác 3 chiếc Tank địch còn nằm tại bờ Sông Lũy gần dốc Bà Chá xóm Ruộng Lương Sơn. Công lao này do Đại úy Vĩnh ĐĐT/ĐĐ1/TĐ212/ĐP.
Cuối cùng toàn bộ ĐĐ4/248ĐP (-) cũng ra được tàu nhờ sự cứu vớt tận tình của Duyên Đoàn 27, nhưng thật vất vả. Gần sáng ngày 17-4-1975, Đơn vi trên được chuyển tới chiếc Dương Vận Hạm 503 đang lênh đênh ngoài vịnh Cà Ná - Cửa Xuất. Tàu đang thi hành công tác cứu vớt các đơn vị còn kẹt trên bờ. Lúc này các vị Sĩ quan Hải quân trên tàu ra dấu hiệu cho những chiếc ghe đánh cá lại gần, cho họ dầu nhờ họ đi vào bờ bốc lính ra.
Giữa lúc công tác cứu vớt các đơn vị bạn còn đang tiếp diễn, thì pháo 130 ly của CSBV từ trong bờ bắn ra, vì chiếc DVH 503 rất gần vịnh Cà Ná. Nhiều quả đạn trúng pháo tháp chỉ huy và boong tàu. Trên tàu lúc này có rất ít người nên thương vong không đáng kể. Chiếc tàu lắc lư dữ dội vì đã bị thương. Trong lúc đó, Hải pháo từ các Chiến Hạm khác bắn tới tấp vào chỗ đặt súng của địch để giải cứu cho DVH 503.. Nhờ vậy tiếng súng từ bờ biển bắn ra mới im bặt. Sau đó một chiến hạm khác cặp vào bên hông, giúp DVH 503 lấy lại thăng bằng khi được bơm nước ra và kè đi trong đêm tối. Tàu cập bến Vũng Tàu vào lúc 10 giờ sáng ngày 18-4-75. ĐĐ4/248ĐP được đưa lên những chiếc xe GMC do quân cảnh hướng dẫn, về TTHL /Vạn Kiếp khu tiếp tân.
3 giờ đêm 16 rạng ngày 17 tháng 4, đoàn xe tăng trên đã lọt vào bãi mìn chống chiến xa tại Dốc Bà Chá (Xóm Nùng) trên QL1 gần Lương Sơn, do Đại Đội 1. Tiểu Đoàn 212/Liên Đoàn 925 ĐP/Bình Thuận của Đại Uý Vĩnh. Theo tất cả các nhân chứng hiện còn sống sót tại Hoa Kỳ, có 7 chiến xa gồm T54 và PT76 bị cháy hay hư hại nặng. Sau đó VC kéo đi 4 chiếc, 3 xe cháy còn lại hiện nằm tại Lương Sơn (Bắc Bình, Bình Thuận).
Bắt đầu đêm 17-4-1975, lửa khói đã mịt mù khắp thành phố Phan Thiết. Hải Quân 07 và Hải vận hạm Ninh Giang HQ 403, được lệnh tới bờ biển Phan Thiết yểm trợ hỏa lực và chờ chuyển vận binh sĩ về Nam khi nguy ngập. Chiều ngày 18-4-1975, tăng pháo và đại quân Bắc Việt vào Phú Long, TĐ249 và Đ Đ283 ĐPQ kể cả Trung Đoàn 6/SĐ2BB (từ Long Phú rút về đóng tại Phước Thiện Xuân) đều lui quân ra hướng biển. Ác chiến đã xảy ra trên Liên Tỉnh Lộ 8 từ Tân Điền, Tân An, Trinh Tường giữa VC và các Tiểu Đoàn 202,229, Đại Đội trinh Sát 206 Tỉnh..mãi tới 8 giờ 30 tối cùng ngày, xe tăng VC, mới chỉ vào tới Cầu Trần Hưng Đạo, sau khi vượt qua các chốt chận của TĐ275 ở Phước Thiện Xuân (Đi đường vòng) lúc này trên QL1, TĐ229 còn đang giữ vững tại Cầu Sở Muối. Do đó chúng đã cố thủ tại các vị trị vừa chiếm được, mà không dám di chuyển tới các nơi khác, vì khắp Phan Thiết vẫn còn nhiều đơn vị cố thủ chờ lệnh.
Sáu giờ chiều cùng ngày, Đại Tá Nghĩa và BCH Hành Quân Nhẹ tại Lầu Ông Hoàng rời vị trí di chuyển về gần cửa Thương Chánh chờ Tàu Hải Quân vớt. Trong đoàn có một chiếc Thiết Vận Xa M-113 bên trong chở nhiều thùng bạc do Bộ Tài Chánh vừa mới cấp cho Tỉnh vào trung tuần tháng 4/1975, nên chưa kịp phát cho một số Đơn Vị ĐPQ+NQ, CB/XDNT.(lương tháng 4-1975). Chiếc xe bọc sắt này đã chìm không xa Bãi Thương Chánh, khi lội ra Chiến Hạm và phần lớn tiền bạc đều bị VC tich thu, kể cả số tiền còm của các ngư dân quanh vùng mò tìm được. Riêng chủ ghe đưa Đại Tá Nghĩa ra chiến hạm, bị tù và chết trong trại giam, hiện còn người em ruột vượt biên đang ở Bắc CA, là một nhân chứng, xác nhận. Nhờ Đại Tá Nghĩa thoát chết khi bị té xuống biển, nên Ông đã liên lạc được với Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh lúc đó là Tư Lệnh Vùng 2 Duyên Hải, mới có cuộc lui quân tại bến tàu Kim Hải.
Tại Phú Long, lúc 3 giờ chiều ngày 18-4-75, sau khi bị trận địa mìn ở Dốc Bà Chá Lương Sơn làm cháy mất 3 chiếc và hư hại nhiều chiếc khác. Đoàn Tank địch sau hơn một ngày tán loạn nên chờ bộ binh tăng viện mới tiến vào Phú Long, Trước cả binh đoàn của địch có tăng pháo yểm trợ, các đơn vị phòng thủ lúc đó gồm Tiểu Đoàn 249/ĐP + ĐĐ283 ĐP, Tiểu Đoàn 275/ĐP, ĐĐ290/ĐP của Đại Uý Nguyễn Duy Sâm, ĐĐ của Đại Uý Uý, cùng các đơn vị tăng phái của Sư Đoàn 2BB + Chi Đoàn Thiết Giáp.. lần lượt rút bỏ Phú Long di tản chiến thuật theo kế hoạch “Lui Binh”, hoặc ra Hải Long hay về Bình Tú, chờ các Chiến hạm Hải Quân của BTL/V2DH đến chở về Vũng Tàu.
Dù vậy, Tank địch chưa dám vượt qua cầu Phú Long vì sợ lại lọt vào trận địa mìn bẫy. Đại Đội 1/275 được lệnh giữ vững phía bên này cầu (thuộc xã Kim Ngọc) và tiêu diệt Tank địch. Lúc này đơn vị kiểm điểm lại chỉ còn 7 quả M72 vì đã bắn nhiều trong nửa tháng không được cung cấp thêm. Xe Tank địch thì rất nhiều như những con thiêu thân chờ đêm tối mới tràn qua cầu.
Tr/úy Nguyễn Minh Luân liên lạc với Phòng 3/TK thì được biết đã có lệnh rút lui về Bình Tú, nhưng Tiểu Đoàn rút đi mà không thông báo cho đơn vị biết. Dầu vậy anh đã ra lệnh chờ xe Tank địch tới gần 30m mới cho bắn, để chắc chắn. Nhưng Tank địch không dám qua cầu mà rẽ đường vào Phước Thiện Xuân tấn công đồn Nghĩa Quân do anh Néo làm Trung Đội Trưởng. Tại đây một chiếc Tank T54 đã bị NQ bắn hạ. Trung úy Luân gọi Hải pháo bắn chận địch để đơn vị rút quân. Đơn vị anh từ đó đã về Thanh Hải và tan hàng tại đây, tự tìm đường đi về Vũng Tàu. Riêng anh nhờ một chiếc ghe vớt anh trên thúng khi đang lênh đênh ở ngoài biển đưa vào Vũng Tàu, gặp lại Tiểu đoàn tại dây.
3 - TRUNG ĐOÀN BÌNH THUẬN TẠI MẶT TRẬN PHƯỚC TUY VÀO NHỮNG NGÀY CUỐI THÁNG 4 – 75
Theo lệnh lui binh, Tiểu đoàn 202/ĐP của Đại úy Huỳnh Văn Hoàng làm Tiểu Đoàn Trưởng, từ Đồn Tân An đã đến bến tàu Kim Hải từ khuya, phối hợp với Liên đội Bảo vệ Nông Trường Sao Đỏ, trước đây do Đại úy Huỳnh Văn Quý chỉ huy đóng tại Ba Hòn. Vừa dọn bãi vừa giữ an ninh cho Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch lúc đó do Y Sĩ Đại Uý Lê Bá Dũng XLTV/CHT, đồng thời di chuyển Thương Bệnh Binh ra bãi biển chờ tàu Hải quân vào đón. Sáng 19/4 thì Tiểu Đoàn 229ĐP của ThT Tiến, TĐ 275/ĐP của Thiếu tá Lê Văn Tư tại Kim Ngọc, Lại An, và Tiểu Đoàn 274/ĐP của Thiếu tá Trịnh Văn Bình là đơn vị đóng xa nhất tận Bầu Gia, Phú Hội, Mương Mán.. cũng đến được bãi biển Kim Hải.
Ngoài ra còn có Đại đội 948 ĐPQ của Đại úy Mai Xuân Cúc và nhiều Đại Đội khác của các Tiểu Đoàn 249/ĐP, 230/ĐP cũng về được điểm hẹn. Nói chung thì hầu hết các đơn vị tại Nam Bình Thuận gần như có mặt đầy đủ tại đây, trừ lực lượng cơ hữu của Chi Khu Hàm Thuận, trong số này có Đại đội 288/ĐPQ của Đại úy Phạm Văn Sáu theo Thiếu tá Dụng Văn Đối di tản từ chiều 18-4-75 bằng đường bộ tới Hàm Tân và bị Tiểu Khu Bình Tuy giải giới tại đây, coi như tan hàng mạnh ai nấy lo kể cả Đại bàng. Riêng Chi Khu Hải Long do Thiếu Tá Hàng Phong Cao làm Chi Khu Trưởng rời Mũi Né vào trưa ngày 18-4-1975 bằng ghe chở nước mắm và chiếc Thương thuyền Hương Giang từ Nha Trang vào bi kẹt bỏ lại. Các đơn vị tại Bắc Bình Thuận gồm 4 Chi Khu Tuy Phong, Hải Ninh, Phan lý Chàm, Hòa Đa và Liên đoàn 925/ĐP đóng tại Lương Sơn, phần lớn cũng được di tản vào Vũng Tàu bằng tàu Hải quân và ghe đánh cá tại các bến Cà Ná, Long Hương, Phan Rí Cửa, Hòn Rơm.. Riêng Chi Khu Thiện Giáo coi như tan hàng trước ngày 16-4-75.
Tại bãi biển Kim Hải tình hình mỗi lúc một thêm căng thẳng. Trời về trưa càng oi bức ngột ngạt, gió biển vẫn không đủ xoa dịu nỗi cái nóng của hơi cát bốc lên từ bốn hướng. Theo đúng kế hoạch lui quân của Bộ Tư Lệnh vùng II Duyên Hải, đầu tiên là sự xuất hiện của Duyên Đoàn 28 Phan Thiết, từ ngoài khơi vào bốc các Thương Bệnh Binh của QYV Đoàn Mạnh Hoạch. Kế tiếp là đoàn tàu Ferro Ciment và tàu há mồm ào ạt ủi bãi trong lúc thủy triều đang lên cao, lần lượt bốc hết các đơn vị tại chỗ. Trong lúc đó nhiều chiến hạm kể cả Chiến hạm Trần Khánh Dư HQ04 cũng tiến sát vào bờ, sẵn sàng nhả đạn yểm trợ cho các cánh quân bên trong, đang dồn dập ủi bãi đón người. Đại đội 4/229/ĐP do Tr/úy Cao Hoài Sơn chỉ huy là đơn vị rút sau cùng vì làm nút chặn cho đoàn người rút ra biển. Ba chiếc Hải thuyền tiến vào bờ đón đại đội 4/229/ĐP, lúc này bãi biển Kim Hải trở nên vắng lặng. Cuộc di tản Chiến thuật của Tiểu Khu Bình thuận và các đơn vị từ Phan Rang vào coi như kết thúc vào lúc 1 giờ trưa ngày 19-4-75, với sự thành công tuyệt diệu.
Trong giây phút sắp từ giả Phan Thiết yêu thương, bỏ lai sau lưng vợ con, cha mẹ, bạn bè, không biết bao giờ mới gặp lại, trái tim người lính trận bổng dưng khựng điếng như vô cảm. Trên Soái Hạm Trần Khánh Dư HQ04, hiện đang có mặt Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh và Đại tá Ngô Tấn Nghĩa, bên trong những boong tàu hơn 6000 quân được vớt từ bãi Kim Hải.
Trong lúc đoàn tàu chưa rời bãi Kim Hải, thì có tiếng còi báo động từ Soái hạm HQ04 vang lên. “Phi cơ địch xuất hiện, tất cả vào vị trí chiến đấu”. Lệnh vừa dứt, đã thấy các chiến sĩ Hải quân đang khoắc vào mình chiếc áo phao màu cam, tiến đến các ổ súng Cao Xạ Phòng Không trên tàu. Trong lúc hệ thống Ra đa trên tháp chỉ huy không ngớt di động để tìm dấu vết phi cơ địch. Các tàu chở lính được lệnh tách rời Soái Hạm và hướng về Nam. Cuối cùng giờ chót Phi cơ địch không tấn công đoàn tàu, nhưng Soái Hạm HQ04 ở lại vùng biển Phan Thiết để đoạn hậu bảo vệ đoàn tàu xuôi Nam.
Gần tối đoàn tàu qua mũi Kê Gà với tháp Hải đăng chiếu sáng cả một vùng biển. mệt mỏi và say sóng, chúng tôi thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn, tới lúc ánh mặt trời chiếu vào mặt mới thức giấc.Nhìn ra ngoài thì thấy đây là Bến Đình nhưng tàu còn bỏ neo ngoài biển chưa cặp bến vì còn chờ lệnh Quân Trấn Vũng Tàu.
Thiếu tá Nguyễn Hữu Tiến, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu đoàn 229/ĐP, được sự ủy nhiệm của Đại tá Ngô Tấn Nghĩa lên bờ trước gặp Quân cảnh Quân Trấn Vũng Tàu để bàn kế hoạch giao nạp vũ khí, quân dụng cho Quân trấn vì sợ chúng tôi làm loạn khi được lên bờ.Từng người một bị khám xét, và bị tịch thu tất cả mọi thứ kể cả bản đồ, địa bàn trước khi lên Bến Đình. Chỉ có Thiếu tá Tiến là còn giữ được một khẩu Colt 45 và một máy PRC 25 dùng để liên lạc với Đại tá Nghĩa.
Hỡi ôi ! Đánh trăm trận không chết vì đạn pháo mìn chông của VC mà nay đoàn lính trận Bình Thuận lại bị chết nhục bởi đám Quân cảnh trong giờ thứ 25 này, qua những lệnh lạc từ trên trời rơi xuống. Nhưng chúng tôi là những người lính có kỷ luật và tuyệt đối tuân lệnh cấp chỉ huy, nên không có chuyện gì xảy ra.Nhưng đây cũng là lý do làm cho một số anh em lên được bờ thì bỏ về Sài Gòn vì trong tay không còn vũ khí và quyền chỉ huy, khiến lính không ra lính quan không ra quan. Một số cảm thấy bị xúc phạm đến danh dự khi bị đám quân cảnh trấn lột thẳng tay.
Nhưng trái lại, đồng bào tại Đặc Khu Vũng Tàu đã dành hết sự ưu ái nồng nhiệt đón tiếp đoàn quân di tản từ Bình Thuận vào. Dọc theo Bãi Trước gần cầu tàu, các quày thức ăn cung cấp tự do cho mọi người. Xen lẫn trong số này có các quày của các Soeur bên Thiên Chúa Giáo và quý Ni Sư Linh Sơn Tự. Các món ăn chay vừa ngon vừa gợi nhớ, làm cho các quân nhân Phật tử cảm động muốn khóc vì nhung nhớ gia đình, không biết giờ này họ ra sao ? Nói chung đồng bào và các đoàn thể ở Vũng Tàu, chính quyền đã tiếp đón thật nồng hậu những người con trở về từ giới tuyến. Mối ân tình sâu đậm ấy là những hình ảnh nồng nàn diểm tuyệt, luôn theo tôi trong suốt cuộc hành trình không bao giờ phai lạt trong suốt cuộc đời còn lại.Đoàn Quân xa gồm mấy chục chiếc luân phiên chở chúng tôi về Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp ở Bà Rịa. Khi đi ngang qua Đặc Khu Vũng Tàu có ghé lại, để các cô Nữ Quân Nhân ủy lạo cấp phát cho mỗi người 5 gói mì tôm, của ít lòng nhiều nên chúng tôi vô cùng cảm động, nói lên được tình Huynh đệ Chi binh.Trưa 20-4-75 gần như các đơn vị di tản từ Phan Thiết vào đều có mặt tại Trung Tâm Huấn Luyện Quốc gia Vạn Kiếp Bà Ria. Tỉnh Phước Tuy, ngoại trừ một số ít bỏ ngũ trốn về Sài Gòn tìm thân nhân.
Lúc đó có khoảng 10.000 người tập trung về đây, đủ các quân binh chủng, nhưng đông nhất là Tiểu khu Bình Thuận hơn 3000 ngàn người. Trong khi đó từng đoàn xe GMC chở đầy binh sĩ Sư đoàn 18/Bộ Binh của Tướng Lê Minh Đảo vừa từ Xuân Lộc rút về được tái phối trí phòng thủ Sài Gòn Vũng Tàu, chạy ngược về hướng Long Thành trên QL15.
Cũng tại Trung tâm Vạn Kiếp, thấy có mặt Đại tá Lại Văn Khuy, Liên Đoàn Trưởng 925/ĐP (Bắc Bình Thuận) và Thiếu tá Nguyễn Quốc Quân Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu đoàn 212/ĐP. Sau khi chận đánh đoàn xe Tank địch tại dốc Bà Chá Lương Sơn, Đơn vị này rút quân theo lộ trình Lương Sơn, Sông Lũy ra Bàu Trắng trong mật khu Lê Hồng Phong để chờ tàu Hải quân đến đón. Đại úy Bá, Tiểu Đoàn Phó cùng một số binh sĩ vài chục người tách ra đi ngược về Lương Sơn tìm đường khác để đi, nhưng từ đó đến nay không nghe tin tức gì về đoàn quân này.
Sáng ngày 19-4-75 Đại Đội Trưởng Đại Đội 1/212/ĐP, Đại úy Vĩnh là người trực tiếp chỉ huy phá chiến xa địch tại dốc Bà Chá Lương Sơn, cùng một số anh em dùng ghe nhỏ ra biển đón được 3 ghe giả cào lớn vào bờ rước toàn bộ BCH/Liên Đoàn 925/ĐP và binh sĩ còn lại của Tiểu đoàn 212/ĐP vào Vũng Tàu an toàn. Lúc này, Đại tá Khuy và Thiếu Tá Quân không mặc quân phục hiện cũng có mặt tại đó nhưng Thiếu tá Nguyễn Hữu Tiến được Đại tá Ngô Tấn Nghĩa chỉ định thay thế ông trực tiếp chỉ huy binh sĩ Bình Thuận trong thời gian ông về Sài Gòn xin lương bổng và tái trang bị cho đơn vị.
Ngày 21 tháng 4-75 hầu hết các đơn vị từ Bình Thuận di tản vào được chở ngược về Đặc Khu Vũng Tàu và tập trung tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Bãi Sau. Trung Đoàn Bình Thuận được thành lập và được tái trang bị vũ khí cùng quân trang quân dụng. Gạo được tiếp tế dư thừa nên một số đơn vị tính bán bớt để mua cá thịt cho anh em ăn. Ngày 22-4-75 Đại tá Nghĩa dùng trực thăng đáp xuống căn cứ TQLC Vũng Tàu mang theo 5 triệu đồng cấp phát tạm cho anh em mua thực phâm, mỗi người nhận tạm 200đồng/ngày. Ngày25 tháng 4 lại mang đến thêm 2 triệu đồng nữa. Đích thân Th/tá Nguyễn Hữu Tién nhận tiền và Tr/úy Cao Hoài Sơn giúp cấp phát số tiền này cho các binh sĩ Trung Đoàn Bình Thuận (Th/tá Tiến đã qua đời tại Úc vì bạo bệnh sau nhiều năm sống trong Trại tù CS ngoài Bắc). Quân số Trung Đoàn Bình Thuận lúc đó khoảng 3000 người gồm Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, và Binh Sĩ các đơn vị tác chiến.
Riêng BCH/Tiểu Khu, BCH/Liên Đoàn 925, và các BCH Chi Khu, An ninh Quân Đội, các ban ngành coi như tan hàng ngày 19-4-75, ngoại trừ “ người Lính già Ngô Tấn Nghĩa, đã theo anh em đến giờ phút cuối cùng từ mọi nẻo đường”.nên đã bị kẹt lại ở Sài Gòn dù ông có đầy đủ phương tiện để ra đi trong giờ phút cuối, nhưng ông vẫn không đi khi những chiến binh của Bình Thuận còn đó.
Trong ngày 25-4-75, Đặc Khu Vũng Tàu cấp cho Trung Đoàn Bình Thuận một xe Dodge, Các Tiểu Đoàn nhận lại Máy PRC 25 và bản đồ Tỉnh Phước Tuy. Lúc này bắt đầu hỗn loạn vì VC bắt đầu áp sát Thành Phố, pháo kích bừa bãi vào dân chúng đang tập trung tại Sân vận động. Phi trường bị pháo kích liên tục làm tê liệt các chuyến bay. Tệ hại nhất là tai Sân vân động, những người không nhà lại phải bồng bế nhau tháo chạy dưới làn pháo của VC. Hơn 10.000 người tại đây hoảng loạn kêu khóc rất thương tâm. Không thấy có ai có lấy một lời lên án hành động dã man này.Lương tâm loài người đâu rồi ? Các đài BBC, VOA, PHÁP đâu không tố cáo tội ác chống nhân loại này.
Đạn bom lửa khói đã bắt đầu tiến vào đường phố, xác người cháy đen nằm trên lề đường, quân cướp giật lợi dụng hoành hành, làm cho tình hình thêm rối rắm. Tình hình trở nên nguy ngập khi Sư đoàn 18/BB được lệnh rút về Biên Hòa.Các Tiểu đoàn 274/ĐP của Th/tá Bình và 275/ĐP của Th/tá Tư chỉ huy thuộc Trung Đoàn Bình Thuận được lệnh bung ra Long Hải làm tiền đồn chận giặc, bảo vệ phía đông bắc thành phố Vũng Tàu.Các Đại đội biệt lập và Tiểu đoàn 229/ĐP trách nhiệm giữ căn cứ TQLC làm phòng tuyến chính, tiếp ứng cho các đơn vị bảo vệ Vũng Tàu. Ngày 29-4-75, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn và một số tùy viên thân cận từ Biên Hòa dùng Trực thăng đáp xuống Căn cứ TQLC, lúc đó do Trung Đoàn Bình Thuận trấn giữ. Buổi trưa cùng ngày các vị đã “di tản chiến thuật” bằng Trực thăng ra Hạm đội Mỹ đang đậu ngoài khơi Vũng Tàu. Cùng lúc VC tấn công vào Long Hải, Trước sức tấn công dữ dội của địch và không có sự yểm trợ tối thiểu nào của Đặc Khu Vũng Tàu nên hai Tiểu đoàn 274/ĐP và 275/ĐP đã lui binh về căn cứ TQLC.
Trên QL15 dẫn vào Vũng Tàu, Cầu Cỏ May do TQLC đóng giữ, bị VC tấn công dữ dội nhưng gặp sự chống trả mãnh liệt nên gây nhiều thương vong cho giặc. Tại căn cứ TQLC do Trung đoàn Bình Thuận trấn giữ, Cộng quân bắt đầu tấn công bằng lối tiền pháo hậu xung cổ điển. Trung đoàn đã đánh với giặc trận chiến cuối cùng vô cùng oanh liệt.Từng đơn vị địch như những con thiêu thân lao vào, ác liệt nhất là mặt phái tây có rừng dương liểu, và động cát. Xác địch nằm ngỗn ngang vì mìn bẫy và những lằn đạn của ta. Tới chiều gần tối biết không thể nào ngăn chặn được nữa, Trung đoàn Bình Thuận rút đi dọc theo bãi biển tiến về Bãi Trước. Chúng tôi bỏ lại tất cả chỉ mang theo đạn dược,vũ khí nhẹ và lương thực vì vũ khí nặng không còn đạn nên phá hủy trước khi rút.
Chúng tôi chiếm ngọn núi Nhỏ có tượng Chúa ngó ra biển làm vị trí phòng thủ. Đây là một căn cứ quân sự mà quân đội Nhật Hoàng đã xây dựng trước đây hồi Đệ nhị Thế chiến ( Có tài liệu nói do người Pháp xây dựng). Trong đó có hệ thống giao thông hào, hầm trú ẩn kiên cố và có giếng nước. Dân chúng xung quanh kéo đến đây lánh nạn rất đông trên vài ngàn người.
Lại một đêm dài không ngủ đi qua rất chậm như những đêm dài VN suốt 20 năm chinh chiến trên quê hương khổ đau. Tiếng súng trong thành phố vẫn tiếp diễn không ngớt, kéo dài tới cả buổi sáng ngày 30-4-75 và cuối cùng là lệnh đầu hàng của Tổng thống hai ngày Dương Văn Minh. Kết thúc vận hội của dân tộc VN Tự do, bước vào ngưỡng cửa của Thế giới đói nghèo.
Bốn mươi mốt năm qua rồi, nhưng lịch sử cận đại của nước Việt vẫn còn đó chứ không sang trang như nhiều người đã ngộ nhận lúc ban đầu. Hãy nói lên những sự thật của lịch sử để tự trọng và xứng đáng là người cầm bút, là người Lính hay ít nhất cũng là một bình dân lương thiện. Đó là cách duy nhất đền đáp lại mối ân tình đối với người chiến sĩ một đời hy sinh hạnh phúc và mạng sống của mình cho đời.
Người Lính Bình Thuận, những Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Cán bộ Cảnh sát.. một đời xứng đáng để các thế hệ sau trân quý, noi gương. Chúng ta đã không lầm lẫn khi viết bất cứ một trang sử nào nói về “ Sự hy sinh cao quý của người lính VNCH".
Sáng ngày 19-4-1975, hai Phản lực cơ A-37, được lệnh Quân Đoàn III, thả bom đánh xập các cây cầu trên sông Mường Mán nhưng thả lạc mục tiêu, làm hư xập nhiều nhà cửa của đồng bào, trong khu phố Thương Mai, quanh các đường Gia Long, Nguyễn Tri Phương và Ngô Sĩ Liên.
Tại Phan Thiết sau ngày 1-5-1975, VC đã sát hại một số lớn Quân, Cán, Chính để trả thù. Ngoài một số anh em bị hạ sát ngay khi kẹt lai, từ 19 tới 30/4/1975, đã có không biết bao nhiêu người khác đã gục ngã trước đạn súng và lòng thù hận sắt máu cũa giặc sau ngày 1-5-1975. Giờ đây,qua ba mươi tám năm trầm thống hờn hận, dù đã vật đổi sao dời nhưng những người còn sống,một thời là nạn nhân hay nhân chứng, gia đình hoặc đồng bào địa phương, làm sao có thể quên được những hình ảnh dã man tàn khốc, mà họ đã chứng kiến được, khi VC.BT đã vô lương vô nhân đạo, bắn giết những kẻ ngã ngựa sa cơ..
Đời lính là như vậy đó, cho nên đâu cần phải là sử gia, nhà văn trí thức,hay những kẻ một thời nắm quyền hành, mới ghi lại được những thảm kịch của chiến tranh. Cá nhân của người viết chỉ là một quân nhân sinh trưởng tại địa phương nhưng trong mười năm quân ngũ, đã xuôi ngược mọi nẻo đường đất nước, khắp các vùng chiến thuật và ở trong nhiều đơn vị. Và điều vinh hạnh nhất của đời người, là đã cùng với quân dân Bình Thuận, sống trọn vẹn trong 18 ngày cuối cùng của tháng tư đen 1975. Bởi vậy với tôi, tháng tư là một khoảng thời gian kỳ diệu, với những trang lịch sử đẳm máu treo lơ lửng trên đầu, luôn cho người lính già sống sót, môi cảm giác rất xa rất gần, như những người bạn cũ đã nằm xuống hôm qua, giờ chỉ biết nhớ mà không bao giờ gặp lại được.
Đó cũng là lời giải đáp thắc mắc mà tôi đã đeo đẳng suốt 38 năm qua, là đã không hề nuối tiếc cho bản thân mình.
Bây giờ như mới hôm qua, những ngày tháng tư lửa máu tại Phan Thiết, xin kính cẩn tưởng niệm những người đã mất. Bổng thấy tâm hôn như chết khựng, không phải vì men rượu, mà là nỗi xót xa khi nghĩ tới những cơ cực của miền biển mặn, như đang úa vỡ ở cuối chân trời, trong đó có mẹ, có em, có quê hương gió cát, đang quằn quại trong thiên đàng Xã Nghĩa, không biết bao giờ mới ngoi lên được, để mà làm người.
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 4-2016
Trước tình hình như vậy, BCH/ Tiểu Khu Bình Thuận điều động Tiểu Đoàn 229/ĐP do Th/tá Nguyễn Hữu Tiến làm Tiểu Đoàn Trưởng, lúc đó đang làm nhiệm vụ giữ an ninh cho Khu định cư Nghĩa Thuận nằm bên kia Đập Đồng Mới, thuộc xã Lương Sơn.Tiểu Đoàn rút về tăng cường cho Nam Bình Thuận. Vào ngày 1-4-75, Đại đội 4/248/ĐP do Tr/úy Nguyễn Tấn Hợi làm Đại Đội Trưởng thay thế T Đ /229/ĐP. Trong ngày này Tiểu Đoàn được tăng phái cho Chi Khu Hàm Thuận, riêng Đại Đội 4/229/ĐP do Tr/úy Cao Hoài Sơn làm Đại Đội Trưởng, phụ trách bảo vệ Nông Trường Sao Đỏ và đồng bào hồi hương từ Campuchia tại Bình Tú, thế cho đơn vị của Đại úy Huỳnh Văn Quý đã di chuyển tăng cường cho mặt trận Ba Hòn (Kim Bình, Hàm Thuận).
Ngày 3-4-1975, toàn bộ Tiểu Đoàn 229/ĐP được lệnh di chuyển về phòng thủ bảo vệ Tiểu Khu và Tòa Hành Chánh Tỉnh. Đại đội 2/229 do Đại úy Lê Viết Duyên làm Đại Đội Trưởng, phòng thủ chu vi Tòa Hành Chánh. Đại đội 3/229 do Tr/úy Nguyễn Dương Quang làm Đại Đội Trưởng trú đóng tại Vườn Hoa, Lầu nước. Đại Đội 1/229 do Tr/úy Nguyễn Văn Thứ làm Đại Đội Trưởng, đóng từ Bưu Điện qua Ngân Khố dọc theo đường Hải Thượng Lãn Ông. Đại Đội 4/229 của Trung Uý Cao Hoài Sơn, đóng dọc theo đường Nguyễn Hoàng, bảo vệ mặt sau Tiểu Khu.
Một ngày đêm trôi qua trong hồi hộp lo sợ, cuối cùng đoàn di tản cũng tới Phan Thiết theo ngã Quốc Lộ 1 từ Bắc Bình Thuận, sau khi đã tàn phá tất cả trên đường đi, gồm các thị trấn Long Hương, Phan Rí Thành,Phan Rí Cửa, Chợ Lầu, Lương Sơn.
.....Tại Phan Thiết sáng ngày 4-4-1975,trên các con đường phố tràn ngập những quân xa, có cả Thiết giáp M113 và Tank M41, M48. Xe Honda và người tràn ngập trên vỉa hè, tất cả các Chợ, Quán ăn, Tiệm tạp hóa, Cây xăng đều đóng cửa.
Một số côn đồ trà trộn theo đoàn di tản, đã lợi dụng tình thế cướp giật. Đồng thời không ít Cộng quân đã đột nhập vào thị xã Phan Thiết, gây tình trạng rối ren hầu tìm cách đánh úp ta.Thành phố bị đập phá tan hoang, các cửa tiệm, cây xăng bị cướp phá. kể cả các kho chứa gạo dự trữ cũng bị cướp đi. Ai nhìn cảnh này lòng cũng đều đau như cắt, nhưng vì lệnh không được nổ súng, để tránh gây thêm hỗn loạn, dân lành sẽ chết và đặc cộng địch sẽ lợi dụng cơ hội giết thêm dân, rồi vu vạ cho ta. Đó là lý do Đại tá Nghĩa để Phan Thiết bỏ ngỏ, tránh cảnh huynh đệ tương tàn !
Sáng ngày 4-4-75 tại Cầu Bằng Lăng ở đoạn đường vắng gần núi Tà Dôn, đoàn di tản đã bị VC phục kích. Có hai binh sĩ của Đại đội 4/229 đang công tác may mắn thoát chết.Theo lời tường thuật của hai nhân chứng thì đoàn di tản bị thương vong rất nhiều, vì VC bắn bừa bãi vào đoàn xe, trên đó đa số là Dân chạy nạn từ vùng hỏa tuyến về. May nhờ có chiến xa tiến lên tiêu diệt địch quân,yểm trợ cho đoàn di tản tiếp tục tiến vê Phan Thiết.
Cơn lốc tàn phá cuối cùng cũng đã tới, khi một số lượng lớn người và xe cộ di tản vào Phan Thiết, một số khác đi thẳng về Bình Tuy. Hỗn loạn khắp nơi, đến 10 giờ đêm thì bọn cướp đốt cháy ngôi Chợ Lồng trên đường Gia Long. ĐĐ4/229 của Tr/úy Cao Hoài Sơn đã được lệnh đến hiện trường, tìm cách giúp đỡ dân chúng chữa lửa cùng trấn áp bọn tội phạm thừa lúc hỗn loạn cướp phá. Tới hừng sáng mới dập tắt được đám cháy trong chợ thì VC bắt đầu pháo kích vào BCH / Tiểu Khu. Nhưng đạn lạc ra ngoài quanh Vườn Hoa, dọc bờ sông đường Trưng Trắc, và Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín. Có hai trái rớt vào khu dân cư ở Khu II Bình Hưng làm nhiều thường dân vô tội thương vong. Nhờ ta pháo trả kịp thời nên đã bịt kín họng súng của đích lúc đó đang đặt tại Xuân Phong, Đại Nẫm.
10 giờ, địch lại pháo vào Phan Thiết nhưng rớt vào nhà dân, làm tử thương thêm vài người. Một bọn du đảng ở Lò Heo nhặt đâu được một chiếc xe Jeep quân đội bỏ lại, cắm cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tay cầm súng AK 47, mang băng đỏ, lái xe băng qua cầu Quan chạy khắp phố như chỗ không người. Nhưng khi tới trước rạp Chiếu bóng Bình Thuận và Khách sạn Anh Đào thì đụng ngay với Đại đội 1/229/ĐP của Tr/úy Nguyễn Văn Thứ. Những tràng đạn M16 của ta đã diệt gọn không sót một tên, xác chết nằm vắt trên xe, bọn này có lẽ bị VC nằm vùng giật dây, cho rằng chính quyền đã bỏ chạy hết, nên tìm cách cướp chính quyền lập công dâng đảng.
Buổi trưa có hai hỏa tiễn 122 ly từ hướng Xuân Phong, Trinh Tường pháo vào trung tâm Phan Thiết làm thương vong thêm một số người. Chừng ấy đoàn di tản mới chịu rời thành phố nhưng lại rơi vào ổ phục kích của VC tại cây số 37 trên QL1. Số còn lại chạy thoát vào căn cứ 10 thì bị Tiểu Khu Bình Tuy giải giới hết.Tuy vậy Tiểu Đoàn 229/ĐP vẫn được lệnh tiếp tục bảo vệ Thị Xã Phan Thiết thêm hai ngày mới rút.
Ngay khi Phan Thiết được giải tỏa,Tỉnh Đoàn CB/XDNT/BT, chỉ thị cho Đoàn CB/XDNT từ Nông trường Sao Đỏ về Trường Nam Tiểu Học, để tiếp nhận hơn 10.000 đồng bào chiến nạn, từ các tỉnh Cao nguyên và Duyên Hải Miền Trung chạy về. Sau đó, số đồng bào trên, đuợc chuyển tiếp bằng GMC, tới các Trại Tạm Cư, vừa được tỉnh thiết lập, dưới rặng dừa xanh, chạy dài từ Đá Ông Địa, tới Trường Tiểu Học Rạng, thuộc Xã Thiện Khánh, Quận Hải Long. Đoàn được tăng cường thêm 10 cán bộ địa phương của Phùng Bửu Hưng, phối hợp với Ty Giáo Dục và Ty Xã Hội dựng lều trại, lập danh sách cấp phát gạo, cá thịt hộp, chăn mền, quần áo cũ, thuốc men và các phương tiện, cho những gia đình muốn về Nam.
2 - Những Ngày Cuối Cùng Của Tỉnh/Tiểu Khu Bình Thuận.
Ngày 7-4-1975, sau khi Lâm Đồng bỏ ngỏ, quân Bắc Việt từ Di Linh về tấn công Chi Khu Thiện Giáo và Trung Đội Nghĩa Quân,bảo vệ Cầu Ngựa tại Xóm Gọ,đồng thời pháo kích vào TĐ230 ĐPQ, để chận đường tiếp viện. Trận chiến thật ác liệt., VC mở nhiều đợt tấn công nhưng đều bị chận tại hàng rào phòng thủ,bởi mìn Claymore, lựu đạn và những khẩu đại liên ở các lô cốt. Trận này, có sự tham dự của hai Đại Đội thuộc TĐ230, do Đại Uý Tập và Trung Úy Sanh chỉ huy, thêm vào yểm trợ của Pháo Binh và Trực Thăng võ trang. Sáng ngày 8-4-1975, VC chém vè, bỏ lại chiến trường 72 xác chết, bên ta có 14 tử thương và nhiều binh sĩ thương nặng.
Ngày 12-4-1975, VC lại pháo 130 ly vào quận Thiện Giáo, đồng thời chiếm Xóm Động Giá, Phú Long, làm gián đọan lưu thông trên QL1. Đại Uý Huỳnh Văn Quý, được chỉ định thay thế Thiếu Tá Phan Sang, làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 249/ĐPQ. Đại Uý Nguyễn Văn Hạnh, một sĩ quan kỳ cựu thuộc Liên Đoàn 4BĐQ thuyên chuyển về Phan Thiết, được chỉ định làm Tiểu Đoàn Phó. Tiểu Đoàn được tăng cường thêm ĐĐ283/ĐPQ biệt lập của Đại Uý Nguyễn Văn Ba (Một sĩ quan thuộc binh chũng LLĐB), đã tái chiếm lại được Cầu Phú Long và thị trấn, sau những trận đụng độ ác liệt kinh hồn. Ngày 15-4-1975, VC từ khắp nơi, pháo kích dồn dập vào Chi khu Thiện Giáo. kể cả các xã trên QL1 như Long Phú, Hòa Vinh, Tuỳ Hòa đang do Tiểu Đoàn 275ĐP trách nhiệm.Do trên Tiểu Khu cho lệnh Chi Khu di tản khỏi Ma Lâm và điều động TĐ230 về phòng thủ Phan Thiết.
Ngày 16-4-1975, phòng tuyến Phan Rang vỡ, trước sự tấn công biển người của mấy sư đoàn và tăng pháo Bắc Việt. Các tướng lãnh Nguyễn Vĩnh Nghi, Phạm Ngọc Sang, Đại Tá Nguyễn Thu Lương.. cũng như hầu hết các sĩ quan trong Bộ Chỉ Huy/Tiền Phương của QĐ3, đều sa vào tay giặc tại chiến trường, ngoại trừ Tư Lệnh SĐ2BB là tướng Trần Văn Nhựt đuợc HQ đậu ngoài Vịnh Ninh Chữ cứu thoát. Cũng trong ngày, quân Bắc Việt ào ạt theo quốc lộ 1, qua Cà Ná, tiến vào lãnh thổ Bình Thuận. Giờ thứ 25 đã tới, một số quân cán chính Tuy Phong được Tàu Hải Quân vớt tại vịnh Cà Ná.
Tại Bắc Bình Thuận, Đại đội 4/ TĐ 248/ĐP là đơn vị tiền phương xa nhất của TK Bình Thuận. Đơn vị đóng bên này Cầu Đá Chẹt (Cà Ná) là ranh giới của Tiểu khu Bình Thuận và Ninh Thuận trên QL1. Vì tình hình chuyển biến quá nhanh, nên sau khi liên lạc về BCH/TĐ248 ĐP, Đại Đội 4 nhận được lệnh bỏ Cà Ná và rút toàn bộ Đại đội (-) đến đóng quân ở một ngọn đồi thấp, đối diện với sở Nước Suối Vĩnh Hảo. Đây là một vị trí phòng thủ thiên nhiên rất lý tưởng, hơn nữa nếu nguy cấp Đại đội có thể rút ra phía sau núi là bờ biển..
Lúc 10 giờ sáng ngày 16-4-75, từ trên núi Trung Uý Nguyễn Tấn Hợi, ĐĐT/ĐĐ4/248ĐP qua ống dòm, phát hiện đoàn xe địch di chuyển từ Cà Ná vào và dừng lại tại xóm Vĩnh Hảo. Lúc này mặt trận Phan Rang còn đang tiếp diễn ác liệt thì làm sao có thể phá hủy cầu Đá Chẹt được là đường duy nhất để đoàn quân tại Phan Rang lui quân. Đại Đội liên lạc về BCH/TĐ xin phi vụ để oanh kích đoàn xe địch đang dồn cục tại Vĩnh Hảo và phá hủy cầu Đá Chẹt. Lúc đó đoàn xe của CSBV chỉ cách ĐĐ4/248ĐP chừng 4-5 cây số và BCH/TĐ 10 cây số.. Cuối cùng đơn vị trên đã liên lạc được với không quân khoảng giữa trưa, chỉ rõ mục tiêu cần oanh kích cho viên Phi công là đoàn xe địch tại xóm Vĩnh Hảo, nhưng không hiểu vì lý do gì ? Hai chiếc F5 lại thả hai trái bom xuống vị trí đóng quân của ĐĐ4/248, cũng may bom lạc ra phía sau hướng về cầu Đại Hòa nên không ai bị thương vong.
Theo Trung Uý Hợi qua máy vẫn nghe họ gọi danh hiệu mình là “Bản Thế” nhưng đã không lên tiếng. Ông sợ nếu họ biết được đơn vị còn thì dám có thể ăn tiếp hai trái nữa lắm. Vì không nghe trả lời nên phi công bay về hướng “ Lê Lai-Sơn Tây” tức Lương Sơn, để thanh toán 2 trái còn lại xuống một đơn vị nào đó mà họ biết! Sau này có gặp Thiếu úy Đỗ Văn Khuyến ĐĐP/ĐĐ4/TĐ/212/ĐP đóng tại Đồn Cây Táo (hiện ở Seattle), nhờ có theo dõi tình hình trên máy, nên kịp thời rút ra khỏi đồn Cây Táo và cuối cùng quả nhiên đồn này nhận 2 quả bom còn sót lại. Đoàn xe địch khi vào đến gần Lương Sơn thì bị chặn lại tại dốc Bà Chá với bãi mìn chống chiến xa làm 7 chiếc bị phá hủy. Dấu tích còn lại sau 1975 là xác 3 chiếc Tank địch còn nằm tại bờ Sông Lũy gần dốc Bà Chá xóm Ruộng Lương Sơn. Công lao này do Đại úy Vĩnh ĐĐT/ĐĐ1/TĐ212/ĐP.
Cuối cùng toàn bộ ĐĐ4/248ĐP (-) cũng ra được tàu nhờ sự cứu vớt tận tình của Duyên Đoàn 27, nhưng thật vất vả. Gần sáng ngày 17-4-1975, Đơn vi trên được chuyển tới chiếc Dương Vận Hạm 503 đang lênh đênh ngoài vịnh Cà Ná - Cửa Xuất. Tàu đang thi hành công tác cứu vớt các đơn vị còn kẹt trên bờ. Lúc này các vị Sĩ quan Hải quân trên tàu ra dấu hiệu cho những chiếc ghe đánh cá lại gần, cho họ dầu nhờ họ đi vào bờ bốc lính ra.
Giữa lúc công tác cứu vớt các đơn vị bạn còn đang tiếp diễn, thì pháo 130 ly của CSBV từ trong bờ bắn ra, vì chiếc DVH 503 rất gần vịnh Cà Ná. Nhiều quả đạn trúng pháo tháp chỉ huy và boong tàu. Trên tàu lúc này có rất ít người nên thương vong không đáng kể. Chiếc tàu lắc lư dữ dội vì đã bị thương. Trong lúc đó, Hải pháo từ các Chiến Hạm khác bắn tới tấp vào chỗ đặt súng của địch để giải cứu cho DVH 503.. Nhờ vậy tiếng súng từ bờ biển bắn ra mới im bặt. Sau đó một chiến hạm khác cặp vào bên hông, giúp DVH 503 lấy lại thăng bằng khi được bơm nước ra và kè đi trong đêm tối. Tàu cập bến Vũng Tàu vào lúc 10 giờ sáng ngày 18-4-75. ĐĐ4/248ĐP được đưa lên những chiếc xe GMC do quân cảnh hướng dẫn, về TTHL /Vạn Kiếp khu tiếp tân.
3 giờ đêm 16 rạng ngày 17 tháng 4, đoàn xe tăng trên đã lọt vào bãi mìn chống chiến xa tại Dốc Bà Chá (Xóm Nùng) trên QL1 gần Lương Sơn, do Đại Đội 1. Tiểu Đoàn 212/Liên Đoàn 925 ĐP/Bình Thuận của Đại Uý Vĩnh. Theo tất cả các nhân chứng hiện còn sống sót tại Hoa Kỳ, có 7 chiến xa gồm T54 và PT76 bị cháy hay hư hại nặng. Sau đó VC kéo đi 4 chiếc, 3 xe cháy còn lại hiện nằm tại Lương Sơn (Bắc Bình, Bình Thuận).
Bắt đầu đêm 17-4-1975, lửa khói đã mịt mù khắp thành phố Phan Thiết. Hải Quân 07 và Hải vận hạm Ninh Giang HQ 403, được lệnh tới bờ biển Phan Thiết yểm trợ hỏa lực và chờ chuyển vận binh sĩ về Nam khi nguy ngập. Chiều ngày 18-4-1975, tăng pháo và đại quân Bắc Việt vào Phú Long, TĐ249 và Đ Đ283 ĐPQ kể cả Trung Đoàn 6/SĐ2BB (từ Long Phú rút về đóng tại Phước Thiện Xuân) đều lui quân ra hướng biển. Ác chiến đã xảy ra trên Liên Tỉnh Lộ 8 từ Tân Điền, Tân An, Trinh Tường giữa VC và các Tiểu Đoàn 202,229, Đại Đội trinh Sát 206 Tỉnh..mãi tới 8 giờ 30 tối cùng ngày, xe tăng VC, mới chỉ vào tới Cầu Trần Hưng Đạo, sau khi vượt qua các chốt chận của TĐ275 ở Phước Thiện Xuân (Đi đường vòng) lúc này trên QL1, TĐ229 còn đang giữ vững tại Cầu Sở Muối. Do đó chúng đã cố thủ tại các vị trị vừa chiếm được, mà không dám di chuyển tới các nơi khác, vì khắp Phan Thiết vẫn còn nhiều đơn vị cố thủ chờ lệnh.
Sáu giờ chiều cùng ngày, Đại Tá Nghĩa và BCH Hành Quân Nhẹ tại Lầu Ông Hoàng rời vị trí di chuyển về gần cửa Thương Chánh chờ Tàu Hải Quân vớt. Trong đoàn có một chiếc Thiết Vận Xa M-113 bên trong chở nhiều thùng bạc do Bộ Tài Chánh vừa mới cấp cho Tỉnh vào trung tuần tháng 4/1975, nên chưa kịp phát cho một số Đơn Vị ĐPQ+NQ, CB/XDNT.(lương tháng 4-1975). Chiếc xe bọc sắt này đã chìm không xa Bãi Thương Chánh, khi lội ra Chiến Hạm và phần lớn tiền bạc đều bị VC tich thu, kể cả số tiền còm của các ngư dân quanh vùng mò tìm được. Riêng chủ ghe đưa Đại Tá Nghĩa ra chiến hạm, bị tù và chết trong trại giam, hiện còn người em ruột vượt biên đang ở Bắc CA, là một nhân chứng, xác nhận. Nhờ Đại Tá Nghĩa thoát chết khi bị té xuống biển, nên Ông đã liên lạc được với Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh lúc đó là Tư Lệnh Vùng 2 Duyên Hải, mới có cuộc lui quân tại bến tàu Kim Hải.
Tại Phú Long, lúc 3 giờ chiều ngày 18-4-75, sau khi bị trận địa mìn ở Dốc Bà Chá Lương Sơn làm cháy mất 3 chiếc và hư hại nhiều chiếc khác. Đoàn Tank địch sau hơn một ngày tán loạn nên chờ bộ binh tăng viện mới tiến vào Phú Long, Trước cả binh đoàn của địch có tăng pháo yểm trợ, các đơn vị phòng thủ lúc đó gồm Tiểu Đoàn 249/ĐP + ĐĐ283 ĐP, Tiểu Đoàn 275/ĐP, ĐĐ290/ĐP của Đại Uý Nguyễn Duy Sâm, ĐĐ của Đại Uý Uý, cùng các đơn vị tăng phái của Sư Đoàn 2BB + Chi Đoàn Thiết Giáp.. lần lượt rút bỏ Phú Long di tản chiến thuật theo kế hoạch “Lui Binh”, hoặc ra Hải Long hay về Bình Tú, chờ các Chiến hạm Hải Quân của BTL/V2DH đến chở về Vũng Tàu.
Dù vậy, Tank địch chưa dám vượt qua cầu Phú Long vì sợ lại lọt vào trận địa mìn bẫy. Đại Đội 1/275 được lệnh giữ vững phía bên này cầu (thuộc xã Kim Ngọc) và tiêu diệt Tank địch. Lúc này đơn vị kiểm điểm lại chỉ còn 7 quả M72 vì đã bắn nhiều trong nửa tháng không được cung cấp thêm. Xe Tank địch thì rất nhiều như những con thiêu thân chờ đêm tối mới tràn qua cầu.
Tr/úy Nguyễn Minh Luân liên lạc với Phòng 3/TK thì được biết đã có lệnh rút lui về Bình Tú, nhưng Tiểu Đoàn rút đi mà không thông báo cho đơn vị biết. Dầu vậy anh đã ra lệnh chờ xe Tank địch tới gần 30m mới cho bắn, để chắc chắn. Nhưng Tank địch không dám qua cầu mà rẽ đường vào Phước Thiện Xuân tấn công đồn Nghĩa Quân do anh Néo làm Trung Đội Trưởng. Tại đây một chiếc Tank T54 đã bị NQ bắn hạ. Trung úy Luân gọi Hải pháo bắn chận địch để đơn vị rút quân. Đơn vị anh từ đó đã về Thanh Hải và tan hàng tại đây, tự tìm đường đi về Vũng Tàu. Riêng anh nhờ một chiếc ghe vớt anh trên thúng khi đang lênh đênh ở ngoài biển đưa vào Vũng Tàu, gặp lại Tiểu đoàn tại dây.
3 - TRUNG ĐOÀN BÌNH THUẬN TẠI MẶT TRẬN PHƯỚC TUY VÀO NHỮNG NGÀY CUỐI THÁNG 4 – 75
Theo lệnh lui binh, Tiểu đoàn 202/ĐP của Đại úy Huỳnh Văn Hoàng làm Tiểu Đoàn Trưởng, từ Đồn Tân An đã đến bến tàu Kim Hải từ khuya, phối hợp với Liên đội Bảo vệ Nông Trường Sao Đỏ, trước đây do Đại úy Huỳnh Văn Quý chỉ huy đóng tại Ba Hòn. Vừa dọn bãi vừa giữ an ninh cho Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch lúc đó do Y Sĩ Đại Uý Lê Bá Dũng XLTV/CHT, đồng thời di chuyển Thương Bệnh Binh ra bãi biển chờ tàu Hải quân vào đón. Sáng 19/4 thì Tiểu Đoàn 229ĐP của ThT Tiến, TĐ 275/ĐP của Thiếu tá Lê Văn Tư tại Kim Ngọc, Lại An, và Tiểu Đoàn 274/ĐP của Thiếu tá Trịnh Văn Bình là đơn vị đóng xa nhất tận Bầu Gia, Phú Hội, Mương Mán.. cũng đến được bãi biển Kim Hải.
Ngoài ra còn có Đại đội 948 ĐPQ của Đại úy Mai Xuân Cúc và nhiều Đại Đội khác của các Tiểu Đoàn 249/ĐP, 230/ĐP cũng về được điểm hẹn. Nói chung thì hầu hết các đơn vị tại Nam Bình Thuận gần như có mặt đầy đủ tại đây, trừ lực lượng cơ hữu của Chi Khu Hàm Thuận, trong số này có Đại đội 288/ĐPQ của Đại úy Phạm Văn Sáu theo Thiếu tá Dụng Văn Đối di tản từ chiều 18-4-75 bằng đường bộ tới Hàm Tân và bị Tiểu Khu Bình Tuy giải giới tại đây, coi như tan hàng mạnh ai nấy lo kể cả Đại bàng. Riêng Chi Khu Hải Long do Thiếu Tá Hàng Phong Cao làm Chi Khu Trưởng rời Mũi Né vào trưa ngày 18-4-1975 bằng ghe chở nước mắm và chiếc Thương thuyền Hương Giang từ Nha Trang vào bi kẹt bỏ lại. Các đơn vị tại Bắc Bình Thuận gồm 4 Chi Khu Tuy Phong, Hải Ninh, Phan lý Chàm, Hòa Đa và Liên đoàn 925/ĐP đóng tại Lương Sơn, phần lớn cũng được di tản vào Vũng Tàu bằng tàu Hải quân và ghe đánh cá tại các bến Cà Ná, Long Hương, Phan Rí Cửa, Hòn Rơm.. Riêng Chi Khu Thiện Giáo coi như tan hàng trước ngày 16-4-75.
Tại bãi biển Kim Hải tình hình mỗi lúc một thêm căng thẳng. Trời về trưa càng oi bức ngột ngạt, gió biển vẫn không đủ xoa dịu nỗi cái nóng của hơi cát bốc lên từ bốn hướng. Theo đúng kế hoạch lui quân của Bộ Tư Lệnh vùng II Duyên Hải, đầu tiên là sự xuất hiện của Duyên Đoàn 28 Phan Thiết, từ ngoài khơi vào bốc các Thương Bệnh Binh của QYV Đoàn Mạnh Hoạch. Kế tiếp là đoàn tàu Ferro Ciment và tàu há mồm ào ạt ủi bãi trong lúc thủy triều đang lên cao, lần lượt bốc hết các đơn vị tại chỗ. Trong lúc đó nhiều chiến hạm kể cả Chiến hạm Trần Khánh Dư HQ04 cũng tiến sát vào bờ, sẵn sàng nhả đạn yểm trợ cho các cánh quân bên trong, đang dồn dập ủi bãi đón người. Đại đội 4/229/ĐP do Tr/úy Cao Hoài Sơn chỉ huy là đơn vị rút sau cùng vì làm nút chặn cho đoàn người rút ra biển. Ba chiếc Hải thuyền tiến vào bờ đón đại đội 4/229/ĐP, lúc này bãi biển Kim Hải trở nên vắng lặng. Cuộc di tản Chiến thuật của Tiểu Khu Bình thuận và các đơn vị từ Phan Rang vào coi như kết thúc vào lúc 1 giờ trưa ngày 19-4-75, với sự thành công tuyệt diệu.
Trong giây phút sắp từ giả Phan Thiết yêu thương, bỏ lai sau lưng vợ con, cha mẹ, bạn bè, không biết bao giờ mới gặp lại, trái tim người lính trận bổng dưng khựng điếng như vô cảm. Trên Soái Hạm Trần Khánh Dư HQ04, hiện đang có mặt Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh và Đại tá Ngô Tấn Nghĩa, bên trong những boong tàu hơn 6000 quân được vớt từ bãi Kim Hải.
Trong lúc đoàn tàu chưa rời bãi Kim Hải, thì có tiếng còi báo động từ Soái hạm HQ04 vang lên. “Phi cơ địch xuất hiện, tất cả vào vị trí chiến đấu”. Lệnh vừa dứt, đã thấy các chiến sĩ Hải quân đang khoắc vào mình chiếc áo phao màu cam, tiến đến các ổ súng Cao Xạ Phòng Không trên tàu. Trong lúc hệ thống Ra đa trên tháp chỉ huy không ngớt di động để tìm dấu vết phi cơ địch. Các tàu chở lính được lệnh tách rời Soái Hạm và hướng về Nam. Cuối cùng giờ chót Phi cơ địch không tấn công đoàn tàu, nhưng Soái Hạm HQ04 ở lại vùng biển Phan Thiết để đoạn hậu bảo vệ đoàn tàu xuôi Nam.
Gần tối đoàn tàu qua mũi Kê Gà với tháp Hải đăng chiếu sáng cả một vùng biển. mệt mỏi và say sóng, chúng tôi thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn, tới lúc ánh mặt trời chiếu vào mặt mới thức giấc.Nhìn ra ngoài thì thấy đây là Bến Đình nhưng tàu còn bỏ neo ngoài biển chưa cặp bến vì còn chờ lệnh Quân Trấn Vũng Tàu.
Thiếu tá Nguyễn Hữu Tiến, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu đoàn 229/ĐP, được sự ủy nhiệm của Đại tá Ngô Tấn Nghĩa lên bờ trước gặp Quân cảnh Quân Trấn Vũng Tàu để bàn kế hoạch giao nạp vũ khí, quân dụng cho Quân trấn vì sợ chúng tôi làm loạn khi được lên bờ.Từng người một bị khám xét, và bị tịch thu tất cả mọi thứ kể cả bản đồ, địa bàn trước khi lên Bến Đình. Chỉ có Thiếu tá Tiến là còn giữ được một khẩu Colt 45 và một máy PRC 25 dùng để liên lạc với Đại tá Nghĩa.
Hỡi ôi ! Đánh trăm trận không chết vì đạn pháo mìn chông của VC mà nay đoàn lính trận Bình Thuận lại bị chết nhục bởi đám Quân cảnh trong giờ thứ 25 này, qua những lệnh lạc từ trên trời rơi xuống. Nhưng chúng tôi là những người lính có kỷ luật và tuyệt đối tuân lệnh cấp chỉ huy, nên không có chuyện gì xảy ra.Nhưng đây cũng là lý do làm cho một số anh em lên được bờ thì bỏ về Sài Gòn vì trong tay không còn vũ khí và quyền chỉ huy, khiến lính không ra lính quan không ra quan. Một số cảm thấy bị xúc phạm đến danh dự khi bị đám quân cảnh trấn lột thẳng tay.
Nhưng trái lại, đồng bào tại Đặc Khu Vũng Tàu đã dành hết sự ưu ái nồng nhiệt đón tiếp đoàn quân di tản từ Bình Thuận vào. Dọc theo Bãi Trước gần cầu tàu, các quày thức ăn cung cấp tự do cho mọi người. Xen lẫn trong số này có các quày của các Soeur bên Thiên Chúa Giáo và quý Ni Sư Linh Sơn Tự. Các món ăn chay vừa ngon vừa gợi nhớ, làm cho các quân nhân Phật tử cảm động muốn khóc vì nhung nhớ gia đình, không biết giờ này họ ra sao ? Nói chung đồng bào và các đoàn thể ở Vũng Tàu, chính quyền đã tiếp đón thật nồng hậu những người con trở về từ giới tuyến. Mối ân tình sâu đậm ấy là những hình ảnh nồng nàn diểm tuyệt, luôn theo tôi trong suốt cuộc hành trình không bao giờ phai lạt trong suốt cuộc đời còn lại.Đoàn Quân xa gồm mấy chục chiếc luân phiên chở chúng tôi về Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp ở Bà Rịa. Khi đi ngang qua Đặc Khu Vũng Tàu có ghé lại, để các cô Nữ Quân Nhân ủy lạo cấp phát cho mỗi người 5 gói mì tôm, của ít lòng nhiều nên chúng tôi vô cùng cảm động, nói lên được tình Huynh đệ Chi binh.Trưa 20-4-75 gần như các đơn vị di tản từ Phan Thiết vào đều có mặt tại Trung Tâm Huấn Luyện Quốc gia Vạn Kiếp Bà Ria. Tỉnh Phước Tuy, ngoại trừ một số ít bỏ ngũ trốn về Sài Gòn tìm thân nhân.
Lúc đó có khoảng 10.000 người tập trung về đây, đủ các quân binh chủng, nhưng đông nhất là Tiểu khu Bình Thuận hơn 3000 ngàn người. Trong khi đó từng đoàn xe GMC chở đầy binh sĩ Sư đoàn 18/Bộ Binh của Tướng Lê Minh Đảo vừa từ Xuân Lộc rút về được tái phối trí phòng thủ Sài Gòn Vũng Tàu, chạy ngược về hướng Long Thành trên QL15.
Cũng tại Trung tâm Vạn Kiếp, thấy có mặt Đại tá Lại Văn Khuy, Liên Đoàn Trưởng 925/ĐP (Bắc Bình Thuận) và Thiếu tá Nguyễn Quốc Quân Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu đoàn 212/ĐP. Sau khi chận đánh đoàn xe Tank địch tại dốc Bà Chá Lương Sơn, Đơn vị này rút quân theo lộ trình Lương Sơn, Sông Lũy ra Bàu Trắng trong mật khu Lê Hồng Phong để chờ tàu Hải quân đến đón. Đại úy Bá, Tiểu Đoàn Phó cùng một số binh sĩ vài chục người tách ra đi ngược về Lương Sơn tìm đường khác để đi, nhưng từ đó đến nay không nghe tin tức gì về đoàn quân này.
Sáng ngày 19-4-75 Đại Đội Trưởng Đại Đội 1/212/ĐP, Đại úy Vĩnh là người trực tiếp chỉ huy phá chiến xa địch tại dốc Bà Chá Lương Sơn, cùng một số anh em dùng ghe nhỏ ra biển đón được 3 ghe giả cào lớn vào bờ rước toàn bộ BCH/Liên Đoàn 925/ĐP và binh sĩ còn lại của Tiểu đoàn 212/ĐP vào Vũng Tàu an toàn. Lúc này, Đại tá Khuy và Thiếu Tá Quân không mặc quân phục hiện cũng có mặt tại đó nhưng Thiếu tá Nguyễn Hữu Tiến được Đại tá Ngô Tấn Nghĩa chỉ định thay thế ông trực tiếp chỉ huy binh sĩ Bình Thuận trong thời gian ông về Sài Gòn xin lương bổng và tái trang bị cho đơn vị.
Ngày 21 tháng 4-75 hầu hết các đơn vị từ Bình Thuận di tản vào được chở ngược về Đặc Khu Vũng Tàu và tập trung tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Bãi Sau. Trung Đoàn Bình Thuận được thành lập và được tái trang bị vũ khí cùng quân trang quân dụng. Gạo được tiếp tế dư thừa nên một số đơn vị tính bán bớt để mua cá thịt cho anh em ăn. Ngày 22-4-75 Đại tá Nghĩa dùng trực thăng đáp xuống căn cứ TQLC Vũng Tàu mang theo 5 triệu đồng cấp phát tạm cho anh em mua thực phâm, mỗi người nhận tạm 200đồng/ngày. Ngày25 tháng 4 lại mang đến thêm 2 triệu đồng nữa. Đích thân Th/tá Nguyễn Hữu Tién nhận tiền và Tr/úy Cao Hoài Sơn giúp cấp phát số tiền này cho các binh sĩ Trung Đoàn Bình Thuận (Th/tá Tiến đã qua đời tại Úc vì bạo bệnh sau nhiều năm sống trong Trại tù CS ngoài Bắc). Quân số Trung Đoàn Bình Thuận lúc đó khoảng 3000 người gồm Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, và Binh Sĩ các đơn vị tác chiến.
Riêng BCH/Tiểu Khu, BCH/Liên Đoàn 925, và các BCH Chi Khu, An ninh Quân Đội, các ban ngành coi như tan hàng ngày 19-4-75, ngoại trừ “ người Lính già Ngô Tấn Nghĩa, đã theo anh em đến giờ phút cuối cùng từ mọi nẻo đường”.nên đã bị kẹt lại ở Sài Gòn dù ông có đầy đủ phương tiện để ra đi trong giờ phút cuối, nhưng ông vẫn không đi khi những chiến binh của Bình Thuận còn đó.
Trong ngày 25-4-75, Đặc Khu Vũng Tàu cấp cho Trung Đoàn Bình Thuận một xe Dodge, Các Tiểu Đoàn nhận lại Máy PRC 25 và bản đồ Tỉnh Phước Tuy. Lúc này bắt đầu hỗn loạn vì VC bắt đầu áp sát Thành Phố, pháo kích bừa bãi vào dân chúng đang tập trung tại Sân vận động. Phi trường bị pháo kích liên tục làm tê liệt các chuyến bay. Tệ hại nhất là tai Sân vân động, những người không nhà lại phải bồng bế nhau tháo chạy dưới làn pháo của VC. Hơn 10.000 người tại đây hoảng loạn kêu khóc rất thương tâm. Không thấy có ai có lấy một lời lên án hành động dã man này.Lương tâm loài người đâu rồi ? Các đài BBC, VOA, PHÁP đâu không tố cáo tội ác chống nhân loại này.
Đạn bom lửa khói đã bắt đầu tiến vào đường phố, xác người cháy đen nằm trên lề đường, quân cướp giật lợi dụng hoành hành, làm cho tình hình thêm rối rắm. Tình hình trở nên nguy ngập khi Sư đoàn 18/BB được lệnh rút về Biên Hòa.Các Tiểu đoàn 274/ĐP của Th/tá Bình và 275/ĐP của Th/tá Tư chỉ huy thuộc Trung Đoàn Bình Thuận được lệnh bung ra Long Hải làm tiền đồn chận giặc, bảo vệ phía đông bắc thành phố Vũng Tàu.Các Đại đội biệt lập và Tiểu đoàn 229/ĐP trách nhiệm giữ căn cứ TQLC làm phòng tuyến chính, tiếp ứng cho các đơn vị bảo vệ Vũng Tàu. Ngày 29-4-75, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn và một số tùy viên thân cận từ Biên Hòa dùng Trực thăng đáp xuống Căn cứ TQLC, lúc đó do Trung Đoàn Bình Thuận trấn giữ. Buổi trưa cùng ngày các vị đã “di tản chiến thuật” bằng Trực thăng ra Hạm đội Mỹ đang đậu ngoài khơi Vũng Tàu. Cùng lúc VC tấn công vào Long Hải, Trước sức tấn công dữ dội của địch và không có sự yểm trợ tối thiểu nào của Đặc Khu Vũng Tàu nên hai Tiểu đoàn 274/ĐP và 275/ĐP đã lui binh về căn cứ TQLC.
Trên QL15 dẫn vào Vũng Tàu, Cầu Cỏ May do TQLC đóng giữ, bị VC tấn công dữ dội nhưng gặp sự chống trả mãnh liệt nên gây nhiều thương vong cho giặc. Tại căn cứ TQLC do Trung đoàn Bình Thuận trấn giữ, Cộng quân bắt đầu tấn công bằng lối tiền pháo hậu xung cổ điển. Trung đoàn đã đánh với giặc trận chiến cuối cùng vô cùng oanh liệt.Từng đơn vị địch như những con thiêu thân lao vào, ác liệt nhất là mặt phái tây có rừng dương liểu, và động cát. Xác địch nằm ngỗn ngang vì mìn bẫy và những lằn đạn của ta. Tới chiều gần tối biết không thể nào ngăn chặn được nữa, Trung đoàn Bình Thuận rút đi dọc theo bãi biển tiến về Bãi Trước. Chúng tôi bỏ lại tất cả chỉ mang theo đạn dược,vũ khí nhẹ và lương thực vì vũ khí nặng không còn đạn nên phá hủy trước khi rút.
Chúng tôi chiếm ngọn núi Nhỏ có tượng Chúa ngó ra biển làm vị trí phòng thủ. Đây là một căn cứ quân sự mà quân đội Nhật Hoàng đã xây dựng trước đây hồi Đệ nhị Thế chiến ( Có tài liệu nói do người Pháp xây dựng). Trong đó có hệ thống giao thông hào, hầm trú ẩn kiên cố và có giếng nước. Dân chúng xung quanh kéo đến đây lánh nạn rất đông trên vài ngàn người.
Lại một đêm dài không ngủ đi qua rất chậm như những đêm dài VN suốt 20 năm chinh chiến trên quê hương khổ đau. Tiếng súng trong thành phố vẫn tiếp diễn không ngớt, kéo dài tới cả buổi sáng ngày 30-4-75 và cuối cùng là lệnh đầu hàng của Tổng thống hai ngày Dương Văn Minh. Kết thúc vận hội của dân tộc VN Tự do, bước vào ngưỡng cửa của Thế giới đói nghèo.
Bốn mươi mốt năm qua rồi, nhưng lịch sử cận đại của nước Việt vẫn còn đó chứ không sang trang như nhiều người đã ngộ nhận lúc ban đầu. Hãy nói lên những sự thật của lịch sử để tự trọng và xứng đáng là người cầm bút, là người Lính hay ít nhất cũng là một bình dân lương thiện. Đó là cách duy nhất đền đáp lại mối ân tình đối với người chiến sĩ một đời hy sinh hạnh phúc và mạng sống của mình cho đời.
Người Lính Bình Thuận, những Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Cán bộ Cảnh sát.. một đời xứng đáng để các thế hệ sau trân quý, noi gương. Chúng ta đã không lầm lẫn khi viết bất cứ một trang sử nào nói về “ Sự hy sinh cao quý của người lính VNCH".
Sáng ngày 19-4-1975, hai Phản lực cơ A-37, được lệnh Quân Đoàn III, thả bom đánh xập các cây cầu trên sông Mường Mán nhưng thả lạc mục tiêu, làm hư xập nhiều nhà cửa của đồng bào, trong khu phố Thương Mai, quanh các đường Gia Long, Nguyễn Tri Phương và Ngô Sĩ Liên.
Tại Phan Thiết sau ngày 1-5-1975, VC đã sát hại một số lớn Quân, Cán, Chính để trả thù. Ngoài một số anh em bị hạ sát ngay khi kẹt lai, từ 19 tới 30/4/1975, đã có không biết bao nhiêu người khác đã gục ngã trước đạn súng và lòng thù hận sắt máu cũa giặc sau ngày 1-5-1975. Giờ đây,qua ba mươi tám năm trầm thống hờn hận, dù đã vật đổi sao dời nhưng những người còn sống,một thời là nạn nhân hay nhân chứng, gia đình hoặc đồng bào địa phương, làm sao có thể quên được những hình ảnh dã man tàn khốc, mà họ đã chứng kiến được, khi VC.BT đã vô lương vô nhân đạo, bắn giết những kẻ ngã ngựa sa cơ..
Đời lính là như vậy đó, cho nên đâu cần phải là sử gia, nhà văn trí thức,hay những kẻ một thời nắm quyền hành, mới ghi lại được những thảm kịch của chiến tranh. Cá nhân của người viết chỉ là một quân nhân sinh trưởng tại địa phương nhưng trong mười năm quân ngũ, đã xuôi ngược mọi nẻo đường đất nước, khắp các vùng chiến thuật và ở trong nhiều đơn vị. Và điều vinh hạnh nhất của đời người, là đã cùng với quân dân Bình Thuận, sống trọn vẹn trong 18 ngày cuối cùng của tháng tư đen 1975. Bởi vậy với tôi, tháng tư là một khoảng thời gian kỳ diệu, với những trang lịch sử đẳm máu treo lơ lửng trên đầu, luôn cho người lính già sống sót, môi cảm giác rất xa rất gần, như những người bạn cũ đã nằm xuống hôm qua, giờ chỉ biết nhớ mà không bao giờ gặp lại được.
Đó cũng là lời giải đáp thắc mắc mà tôi đã đeo đẳng suốt 38 năm qua, là đã không hề nuối tiếc cho bản thân mình.
Bây giờ như mới hôm qua, những ngày tháng tư lửa máu tại Phan Thiết, xin kính cẩn tưởng niệm những người đã mất. Bổng thấy tâm hôn như chết khựng, không phải vì men rượu, mà là nỗi xót xa khi nghĩ tới những cơ cực của miền biển mặn, như đang úa vỡ ở cuối chân trời, trong đó có mẹ, có em, có quê hương gió cát, đang quằn quại trong thiên đàng Xã Nghĩa, không biết bao giờ mới ngoi lên được, để mà làm người.
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 4-2016
Mường Giang [Hồ Đinh]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét