Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 21 tháng 8, 2021

Người dân A phú hản ( Afghanistan ) vẫn còn may mắn hơn người dân Việt Nam Cộng Hòa khi bị chánh quyền thuộc Đảng Cộng Hòa Mỹ vứt bỏ của 46 Năm trước - WL


Cuộc triệt thoái của Quân Đoàn II , với Liên Tỉnh Lộ 7 là mồ chôn Quân và Dân VNCH của các tỉnh cao nguyên Pleiku , Komtum , Ban Mê Thuộc v...v Ngày 17 Tháng 03 Năm 1975 và kết thúc VNCH rơi vào tay Cộng Sản Ngày 30 Tháng 04 Năm 1975 .và GOP không la làng , chưởi rũa những tên Tổng Thống và GOP đã từng " trói tay " và " bức tử " Việt Nam Cộng Hòa vậy . Đúng là lũ " khốn nạn " .WL 1. Lệnh Triệt Thoái - Tại sao phải bỏ Pleiku & Kontum? - Tài liệu của CIA Ngày 16-8-1974, Tư lệnh quân đội HK tại VN John Murray họp buổi họp chót với Tướng Cao Văn Viên và một số tướng lãnh của Bộ TTM.
<!>
John Murray khuyên Tướng Viên nên liệu cơm gắp mắm, tùy theo mức viện trợ quân sự của Mỹ, gấp rút lên kế hoạch sẵn sàng bỏ Vùng 1, Vùng 2, và cả Vùng 3 để về cố thủ Vùng 4. Sau bổi họp này thì John Murray giải ngũ, trở về Hoa Kỳ ( Frank Snepp, Decent Interval, 1977, trang 95 )..

- Tài liệu của Cơ quan Vện trợ Quân sự Hoa Kỳ (DAO, hậu thân của MACV)
Nếu mức viện trợ là 750 triệu thì khả năng tác chiến của quân VNCH: Không. Khả năng kiểm soát vùng sôi động của quân VNCH: Không. Khả năng tấn công của quân VNCH: Không. Nếu mức viện trợ quân sự là 600 triệu thì quân VNCH chỉ còn khả năng tác chiến tại Vùng 4 và Sài Gòn nếu bỏ hẵn các vùng khác.
(Nguyễn Tiến Hưng, Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập, 1986, phụ lục C trang 753, xem ảnh đính kèm cuối bài viết).

- Tài liệu của Tướng Cao Văn Viên
Ngày 11-3-1975 Tướng Thiệu mời các Tướng Khiêm, Viên, Quang ăn sáng tại dinh Độc Lập và sau đó trình bày ý định muốn cắt bỏ bớt lãnh thổ cho vừa với mức viện trợ quân sự của HK vào năm 1975 :

“Quyết định của Tổng thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng. Hình như Tổng thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ ông chỉ thổ lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng…”

“… Tổng thống Thiệu phác họa sơ : …Một vài phần đất quan trọng đang bị Cọng sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi giá… …Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại… …” (Cao Văn Viên, The Final Collapse, 1983, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong, trang 129-131).

“…VNCH không còn hy vọng nào. Một thực tế gần như hiển nhiên là HK không muốn cuộc chiến tiếp tục, và biểu quyết viện trợ để VNCH đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra. Đối với HK, cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc” (trang 132).

Những lời cáo buộc tồi bại
Những đoạn tài liệu trích dẫn trên đây đã giải thích rõ vì sao Tổng thống Thiệu phải quyết định bỏ Kontum-Pleiku. Cả ba tài liệu này đều được đưa ra công chúng trước năm 1986. Nhưng vì thời đó các phương tiện truyền thông của người Việt tị nạn do Mỹ tài trợ muốn hướng sự oán hận mất nước vào cá nhân Tổng thống Thiệu ( Để quên đi tội bỏ rơi của Mỹ ), cho nên tất cả sách báo đều giả lơ như không biết vì sao Nguyễn Văn Thiệu lại quyết định bỏ Cao Nguyên. Thậm chí Đại tá CIA Lê Khắc Lý còn tuyên truyền rằng Tổng thống Thiệu bỏ cao nguyên để “tháu cáy” Mỹ.

Trích bài viết “Tổng thống Thiệu và cuộc triệt thoái cao nguyên năm 1975” của tác giả Trọng Đạt :

“Cách đây khoảng nửa năm, trong một lần tiếp xúc Đại tá Lê Khắc Lý có nói ông nghi ngờ TT Thiệu rút bỏ Cao nguyên để tháu cáy Mỹ nhưng thất bại và ông có gợi ý tôi viết về chủ đề này ….Đại Tá Lý nói … ông đã học nguyên tắc chiến thuật (tactical) căn bản ngoài chiến trường là luôn luôn chiếm giữ “high ground” (vùng Cao) để chế ngự các vùng đất chung quanh”.

“Nhưng khi giảng, “thầy” cũng có nói nguyên tắc này cũng áp dụng cho “chiến lược” (strategy) nữa. Trong trường hợp Quân đoàn 2 của ta hồi 1975, ông nghĩ là đúng với nguyên tắc này. Ông cho rằng quyết định bỏ cao nguyên là sai lầm. Rồi từ vùng đất thấp là vùng duyên hải sẽ đánh ngược lên để gọi là “tái chiếm Ban Mê Thuột” là chuyện quá khó nếu không nói là “không tưởng”.

“Tóm lại TT Thiệu đã sai lầm về chiến thuật chiến lược khi ban lệnh lui binh xuống đồng bằng duyên hải để từ đó lên tái chiếm Ban Mê Thuột”.

Chỉ có những người ngoài quân đội mới bị mắc bịp, chứ bất cứ ai đã từng qua trường Hạ sĩ quan hay trường Sĩ quan đều biết rằng đây là một nguyên tắc sơ đẵng của chiến thuật ( Không phải là chiến lược ). Bất cứ một người Hạ sĩ quan tiểu đội trưởng nào cũng phải biết chọn địa thế đóng quân cho tiểu đội là vùng đất cao khống chế địa thế xung quanh. Đặt một khẩu đại liên hay trung liên cho tiểu đội cũng phải tôn trọng nguyên tắc này. Và xưa nay người ta lập đồn bót đều lập trên cao chứ không ai lựa dưới trũng.

Trong khi đó Đại tá Lý lại nói cho các nhà báo rằng Tổng thống Thiệu bỏ trên cao chạy xuống thấp ( triệt thoái cao nguyên ) rồi từ dưới thấp đánh lên cao ( tái chiếm BMT ) là một sai lầm chiến lược… (!)

Có lẽ các ông tướng dạy môn chiến lược cho Lê Khắc Lý tại trường Cao Đẵng Quốc Phòng cũng phải phì cười. Bởi vì đối với chiến lược thì giữ địa bàn trên cao sẽ thất thế hơn nếu bị triệt tiếp tế ( Bị bao vây cô lập ). Tình thế của Quân đoàn II vào tháng 3 năm 1975 đã trở thành bất lợi khi quân CSVN đã triệt hết mọi đường tiếp tế cho Cao Nguyên.

Một thí dụ điển hình là tháng 1 năm 1954 quân Pháp trấn giữ Cao Nguyên Pleiku với 4 Liên đoàn Bộ Binh là Binh đoàn 100 Lê Dương (mới từ chiến trường Triều Tiên về Việt Nam), Liên đoàn 11 Nam Việt, Liên đoàn 41 Sơn Cước, và Liên đoàn 42 Sơn Cước. Trong khi đó Bình Định và Phú Yên thuộc quyền kiểm soát của Việt Minh từ năm 1945 cho nên tuyến tiếp tế cho Pleiku phải từ Lào qua. Còn Quốc lộ 14 đã bị quân Việt Minh chặn tại Dak Nong.

Tháng 6 năm 1956, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, quân của Sư đoàn 325 CSVN đánh Lào chặn đường tiếp tế cho Pleiku. Tướng Navard cho lệnh rút Binh đoàn 100 từ An Khê, ( giữa Bình Định và Pleiku ) về giữ Pleiku. Ngày 24-6-1954 trên đường về Peiku Binh đoàn 100 Lê Dương bị phục kích tại đèo Mang Yang và bị đánh tan. Đồng thời quân CSVN từ Bình Định tiến lên An Khê tấn công Liên đoàn 11. Liên đoàn 11 Nam Việt cũng bị đánh tan.

Rõ ràng quân Pháp ở trên cao nhưng hoàn toàn thất thế vì bị triệt tiếp tế. Trong trường hợp Tướng Thiệu rút 1 Sư đoàn Bộ binh, 7 Liên đoàn BĐQ ( Tương đương 2 sư đoàn ), 2 trung đoàn tăng và 1 trung đoàn pháo từ Pleiku, Kontum để tái chiếm Ban Mê Thuột cũng là nằm trong tính toán là quân VNCH đông hơn, vũ khí mạnh hơn sẽ áp đảo được quân CSVN. Bằng chứng năm 1972 chỉ cần Sư đoàn 23 BB đủ đánh tan 3 sư đoàn Bắc Việt tại Kontum.

Lê Khắc Lý có bằng Cao Đẵng Quốc Phòng mà cả đời chẳng bao giờ viết một bài phê bình về chiến thuật, chiến lược…! Lại đi “mớm” chiến thuật chiến lược cho các nhà báo để súi họ viết về chiến thuật chiến lược của Tướng Thiệu trong khi Tướng Thiệu được phóng viên chiến trường nổi tiếng thế giới là Oriana Fallaci đánh giá là 1 trong 10 tướng tài giỏi nhất thế giới.

Tại sao không cho Mỹ biết?
Tài liệu của CIA : “Lý cho Nicol biết ngày mai 14/3 tướng Phạm Văn Phú sẽ họp với tổng thống Thiệu tại Cam Ranh. Buổi họp được giữ kín và máy bay của tướng Phú sẽ đi Qui Nhơn trước để đánh lạc hướng. Lý hứa với Nicol có tin gì sau khi Phú đi họp về Lý sẽ cho hay” ( CIA và Các Ông Tướng, Bản dịch của Trần Bình Nam ).

Đại tá Lý là một điệp viên của CIA, được Tướng Cao Văn Viên đưa vào làm tham mưu trưởng của Tướng Phú. Lần này Tổng thống Thiệu muốn đánh lạc hướng theo dõi của CIA nhưng không ngờ mật thám của CIA đứng ngay sau lưng Tướng Phú.

Tài liệu của Thiếu tá Phạm Huấn, Tùy viên báo chí của Tướng Phạm Văn Phú : “Để bảo mật cho chuyến đi của ông Thiệu, nên đã không có một chuẩn bị nào tiếp đón ông và phái đoàn. Ngay cả một cái thang cao dùng cho loại máy bay lớn DC.6, DC.4 cũng không có.

Chiếc “biệt thự bay” tiến vào chỗ đậu. Một chiếc xe jeep được lái tới sát bên. Ông Thiệu và các tướng Khiêm, Viên, Quang lần lượt… “tụt” bằng đít khỏi chiếc DC.6 rồi bước lên mui xe !” ( Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên, trang 80 ).

Để giấu ai mà các nhà lãnh đạo VNCH phải khổ sở như vậy? Chắc chắn không phải để che mắt báo chí hay CSVN, bởi vì che mắt báo chí hay CSVN thì không cần giấu CIA. Nhưng đằng này giấu cả CIA thì có nghĩa là không cho Mỹ biết.

Vấn đề còn lại là tại sao không cho Mỹ biết? Câu trả lời là nếu Mỹ biết thì những người Miền Núi ở Tây Nguyên sẽ biết, và họ sẽ không để yên cho quân đội VNCH bỏ rơi họ.

Ngày nay lịch sử còn lại lời chứng của Tướng Phạm Duy Tất: Chuẩn tướng Tư lệnh phó Quân đoàn 2 Trần Văn Cẩm hỏi: “Còn các tỉnh trưởng, lực lượng địa phương và dân chúng có tổ chức cho họ rút không?”. Phú trả lời: “Theo lệnh ông Thiệu, bỏ lực lượng này lại, không được thông báo cho các tỉnh trưởng, cứ để họ tiếp tục chống giữ. Khi chúng ta rút xong, ai biết thì biết. Địa phương quân toàn là người Thượng thì trả chúng về với Cao Nguyên” ( Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, Việt Nam thư quán ).

Dĩ nhiên khi Tổng thống Thiệu ra lệnh bỏ người Thượng lại Cao Nguyên thì ông và các tướng Khiêm, Viên, Quang, Phú đều biết rằng lực lượng địa phương là 45 ngàn cựu Biệt kích Mỹ (CIDG, Dân Sự Chiến Đấu). Sau khi quân Mỹ rút đi thì 45 ngàn quân này trở thành Địa phương quân và Biệt động quân Biên phòng. Danh tính 4 liên đoàn Biệt động quân Biên phòng của Quân khu II xuất thân từ Biệt kích Mỹ là Liên đoàn 21, Liên đoàn 22, Liên đoàn 24, và Liên đoàn 25 BĐQ.

Người Mỹ và lực lượng chiến đấu người Miền Núi có quan hệ với nhau như thế nào mà Tướng Thiệu không muốn cho người Mỹ biết ? Tài liệu của Nguyễn Tiến Hưng ( sau nhiều cuộc phỏng vấn cựu Tổng thống Thiệu ) cho biết :

“…năm 1960 khi CIA ( Cơ Quan Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ ) và Lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ gởi người lên Cao Nguyên tổ chức và võ trang dân Thượng chống CS Bắc Việt. Người Mỹ cung cấp dược phẩm, súng đạn, thực phẩm, và xử sự như giới trung gian giữa người Việt và người Thượng…” ( Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập trang 444 ).

“Để bảo vệ an ninh cho cuộc rút lui này, ông Thiệu ra lệnh bảo mật tối đa, để các lực lượng địa phương, phần lớn là dân Thượng, không biết trước về vụ này….Ngay sau khi 200 chiếc xe vận tải đầu tiên rời khỏi Pleiku đã được tung ra khắp tỉnh. Đám người Thượng thấy mình bị bỏ rơi bèn quay mũi súng về đoàn quân đang tháo lui…” ( trang 449 ).

Vậy thì đã rõ, nguyên nhân của việc tạm giấu người Mỹ là vì người Mỹ có trách nhiệm với các dân tộc Miền Núi cho nên họ sẽ không chấp nhận chuyện bỏ rơi người Miền Núi, chắc chắn họ sẽ thông báo cho các lực lượng cựu Biệt kích Mỹ biết để họ tự lo cho dân tộc của họ. Dĩ nhiên một khi các lực lượng vũ trang của người Miền Núi tự lo thì chỉ còn có cách là bắt giữ các sĩ quan và công chức người Kinh làm con tin, để làm áp lực buộc chính phủ Sài Gòn không được bỏ rơi họ.

Cái chết của nhà báo Paul Leandri
Tại Sài Gòn, một nhà báo nổi tiếng của Pháp là Paul Leandri đã nhanh chóng loan tin tàn sát cấp chỉ huy người Kinh ra toàn thế giới cho nên ông ta bị bắt ngay và bị bắn chết trong một đồn cảnh sát. Cơ quan CIA ( Frank Snepp ) loan tin rằng ông ta bị bắn do chạy ra một chiếc xe toan trốn khỏi nơi bị giam. Tuy nhiên không ai tin rằng một nhà báo gạo cội lại ngu xuẩn đến như vậy. Chính tin tức mà ông muốn loan đã hại ông ta :

Sở dĩ Leandri bị giết bởi vì trong khi mà 3 Liên đoàn Biệt Động Quân gốc Biệt kích Mỹ thanh toán các cấp chỉ huy người Kinh thì cùng lúc đó, tại Sài Gòn, cơ quan CIA đang cho thì hành kế hoạch di tản người Mỹ ra khỏi Việt Nam.

Nhưng tin tức của Paul Leandri nếu được lan truyền sẽ tạo thành một làn sóng tâm lý, rủ nhau thanh toán người Mỹ một khi các quân nhân Việt Nam thấy người Mỹ bỏ chạy. Nhất là các quân nhân thuộc Lực Lượng Đặc biệt Việt Nam; họ sẽ suy ra ai đã lập ra Lực lượng Biệt kích Mỹ mà rốt cuộc thì đồng đội của họ phải nhận lãnh mọi sự trả thù của các quân nhân người Thượng. Và nay tới phiên người Mỹ rút chạy thì họ cũng sẽ bị thanh toán. Đó là ngón đòn dành cho kẻ phản bội.

Theo biên bản xét nghiệm tử thi của bệnh viện Grall thì Leandri bị bắn bằng một phát đạn kê sát mang tai bắn lên. Và theo một bài tùy bút của giáo sư Nguyễn Ngọc Bích thì Leandri bị Đại tá cảnh sát Phạm Kim Qui bắn chết rồi bắt Việt Tấn Xã phải loan tin theo như báo cáo của đồn cảnh sát.

Cũng theo sách của Frank Snepp thì giám đốc CIA tại Sài Gòn là Polgar đã được Đại sứ Pháp gọi đến Tòa đại sứ Pháp vào giữa khuya hôm đó để “nói chuyện phải quấy”. Điều này chứng tỏ CIA là người chịu trách nhiệm về cái chết của Leandri chứ không phải là Đại tá Phạm Kim Qui. Ông Qui chỉ là người thừa hành.


2. Kế Hoạch Triệt Thoái

Năm 1975, ngày 14-3, Tướng Thiệu cùng Tướng Khiêm, Tướng Viên và Tướng Quang đi cùng một chuyến máy bay, bay đi Đà Lạt để đánh lạc hướng theo dõi của CIA rồi mới đáp xuống Cam Ranh. Trong khi đó Tướng Phú cũng đánh lạc hướng theo dõi bằng cách bay từ Pleiku xuống Quy Nhơn rồi mới bay vào Cam Ranh.

Từ 11 giờ 30 sáng đến 1 giờ trưa, 5 ông Tướng họp mật trong một dinh thự bỏ trống giữa Căn cứ quân sự Cam Ranh. Kết quả của cuộc họp là Tướng Phú nhận được lệnh rút quân chủ lực và toàn bộ vũ khí hạng nặng ra khỏi Cao nguyên Pleiku-Kontum.

Nội dung cuộc họp
Có 6 quyển sách nổi tiếng đã tường thuật chi tiết cuộc họp tại Cam Ranh :

(1) – Năm 1976, sách Đại Thắng Mùa Xuân của Tướng CSVN Văn Tiến Dũng :
Thiệu lại nói: “Rút bằng đường số 19 được không?”. Viên trả lời: “Trong lịch sử chiến tranh Đông Dương, chưa có lực lượng nào rút theo đường số 19 mà không bị tiêu diệt”. Thiệu hỏi thêm: “Thế thì đường số 14 ra sao?”. Viên đáp: “Đường số 14 lại càng không thể đi được”. Mọi người dự họp thấy chỉ còn con đường số 7, từ lâu không dùng đến, tuy xấu nhưng tạo được yếu tố bất ngờ”.

Đây là Tướng Dũng “biên kịch” theo lời khai của Tướng VNCH Phạm Duy Tất ở trong nhà tù chứ Tướng Tất không có mặt trong cuộc họp Cam Ranh cho nên ông không thể nghe “Thiệu hỏi, Phú đáp” như thế nào.

(2) – Năm 1978, sách “Decent Interval”của Frank Snepp:
“Thiệu chuyển sang vấn đề đặc biệt quan trọng là dùng đường nào để rút lui? Trong khi Đường 19 đi duyên hải , và Đường 14 đi Vùng 3 đều bị chận. Thiệu hỏi Phú chọn đường nào? Tới đây Tướng Viên chen vào, nhấn mạnh rằng cả hai đường đều không an toàn đối với lực lượng của Tướng Phú. Chỉ còn con đường 7.B, một con đường hư cũ, chạy về miền duyên hải ngang qua tỉnh Phú Bổn” ( Decent Interval, trang 193 ).

“Dầu sao đi nữa, ý kiến của Tướng Viên cũng đã đưa tới quyết định sau cùng là chọn con đường 7.B để làm lộ trình triệt thoái quân CNVH ra khỏi Cao Nguyên mà không cần biết con đường đó có còn sử dụng được hay không”. ( trang 194).

Frank Snepp biên soạn lại theo sách “Đại Thắng Mùa Xuân” của Văn Tiến Dũng. Đặc biệt Snepp gán cho Cao Văn Viên là tác giả của việc chọn LTL.7. Có thể Snepp dựa theo tiết lộ của Polgar, trưởng chi nhánh CIA tại SG. Tài liệu của Snepp cho biết Polgar đã vào dinh Độc Lập ngay ngày hôm sau để hỏi thăm tướng Đặng Văn Quang về nội dung cuộc họp.

(3) – Năm 1983 , sách The Final Collapse của Tướng VNCH Cao Văn Viên :
“Sau đó Tổng thống Thiệu hỏi Tướng Phú tái phối trí ra sao, và dùng đường nào để đem quân trở lại Ban Mê Thuột… … Tướng Phú dự định sử dụng Liên Tỉnh Lộ 7.B…”.

Và đến năm 2003, khi tác phẩm The Finl Collapse được dịch ra tiếng Việt, Tướng Viên ghi chú thêm rằng : “Frank Snepp trong tác phẩm Decent Interval, viết tác giả là người chọn con đường 7B để triệt thoái là hoàn toàn đoán mò”.

(4) – Năm 1986, sách The Palace File của Nguyễn Tiến Hưng:
“Vì Bắc Việt đã phong tỏa các trục lộ chính, Phú đề nghị sử dụng con đường liên tỉnh số 7B để rút khỏi Pleiku như một yếu tố bất ngờ”. Ông Hưng viết lên điều này sau 24 cuộc nói chuyện và phỏng vấn Tướng Thiệu, coi như đây là tiết lộ của Tướng Thiệu, và là lời chứng xác thực nhất.

(5) – Năm 1991, sách Vietnam War của Trung tướng tình báo Hoa Kỳ Phillip B. Davidson:
“Thiệu ra lệnh cho Tướng Phú : 1. Rút quân chủ lực tại Kontum và Pleiku về Duyên hải để tổ chức tái chiếm Ban Mê Thuột. 2. Bỏ rơi lực lượng ĐPQ và dân sự của Kontum, Pleiku. 3. Giữ bí mật và thực hiện càng sớm càng tốt. 4. Sử dụng LTL.7 để rút lui” ( trang 777 ). Davidson dựa theo nguyên mẫu trong sách “Đại Thắng Mùa Xuân” của Văn Tiến Dũng.

(6) – Năm 1993, sách Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975 của Phạm Huấn:
"Tướng Thiệu quay nhìn Tướng Phú đổi giọng thân mật : “Thế nào Phú, “toi” có ý kiến gì không?”. Tướng Phú : “Để giữ được yếu tố bất ngờ, tôi xin đề nghị chọn Đường số 7 để rút quân…”

Giọng văn “Thiệu nói, Phú đáp” cho thấy Phạm huấn biên soạn theo sách “Đại Thắng Mùa Xuân” của Văn Tiến Dũng. Còn chi tiết Tướng Phú đề nghị chọn LTL.7 là viết theo sách Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập của Nguyễn Tiến Hưng. Phạm Huấn thú nhận đoạn này một phần do tướng Phú “tiết lộ”, còn lại do ông tự nghĩ ra, và ông đã viết về đoạn này tới ba lần, lần đầu tháng 2 năm 1987, lần hai tháng 4 năm 1987 và lần ba năm 1993; và mỗi lần mỗi khác.


Quyết định rút bằng Liên Tỉnh Lộ 7 là một quyết định thông minh
Sau này mọi sách vở đều cho rằng quyết định đi bằng Liên tỉnh lộ 7 là đi vào “tử lộ”, cho nên người ta vin vào sách của Frank Snepp mà đổ cho Tướng Viên đã có ý phá hoại khi quyết định chọn Tỉnh Lộ 7. Nếu không cố ý phá hoại thì là ông ta quá dốt.
Tuy nhiên so lại với sách của Tướng CSVN Văn Tiến Dũng và sách của Tướng CSVN Đặng Vũ Hiệp thì phía CSVN hoàn toàn không ngờ đến việc quân VNCH di tản bằng LTL.7. Họ chỉ biết được tin di tản vào lúc 9 giờ tối ngày 16-3-1975, khi mà đoàn di tản đã đi được 1 ngày trời, lúc đó con đường 7.B sáng rực ánh đèn như một giòng sông ánh sáng lấp lánh giữa núi rừng Cao Nguyên.

Lúc đó Tướng Dũng mới vội vàng chỉ thị cho 1 tiểu đoàn của Sư đoàn 320 CSVN đang nằm sẵn tại Phú Bổn ngay tức khắc tấn công đoàn di tản nhưng tiểu đoàn này phải đợi tới 2 ngày sau mới dám tấn công quấy rối, còn đại quân 2 trung đoàn của Sư đoàn 320 CSVN phải tới 4 ngày sau mới đuổi kịp đoàn di tản nhưng chỉ vào tiếp thu những nơi mà đoàn di tản đã đi qua.

Ngoài ra Frank Snepp cũng cho rằng Tướng Cao Văn Viên đã đưa ra đề nghị rút bằng LTL.7 mà không biết con đường đó còn sử dụng được hay không, bởi vì đoạn đường từ Phú Túc đi Củng Sơn ( 45 cây số ) đã bị bỏ hoang từ năm 1964.

Tuy nhiên điều này không phải là vấn nạn đối với công binh VNCH, họ dư sức ủi đường, bắt cầu kịp với đà tiến quân, và thực tế cho thấy họ đã hoàn thành 3 cây cầu đúng như dự liệu : Gia cố cầu Ea Nu trong 2 ngày, bắt cầu Lơ Bắc vượt sông Ba ( qua tả ngạn ) trong 2 ngày và bắt cầu phao vượt lại sông Ba tại Củng Sơn (qua hữu ngạn) trong 1 ngày. Và thực tế cũng cho thấy quân VNCH di chuyển từ Phú Túc đi Củng Sơn không gặp một trở ngại nào cả

Riêng đối với Tướng Phú thì ông đã có kinh nghiệm trong việc sử dụng Quốc lộ 9 trong cuộc hành quân Nam Lào năm 1971. Năm đó Sư đoàn 1 BB của ông tiến quân đúng như kế hoạch mặc dù Quốc lộ 9 và Đường số 914 từ A Shao đi Tchepone đã bị bỏ hoang từ năm 1954.

Kế hoạch rút quân khỏi Pleiku & Kontum
Năm 1975, ngày 14-3, lúc 5 giờ chiều, Tướng Phú họp với Bộ tham mưu Quân đoàn gồm Tướng Trần Văn Cẩm, Tư lệnh phó Quân đoàn 2; Tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân; Đại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng BĐQ tại Quân khu 2. Đại tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng Quân đoàn II và Quân khu 2.

Nội dung buổi họp được ghi lại trong tài liệu The Final Collapse của Tướng Cao Văn Viên:

(1) Tướng Phú và Bộ chỉ huy tiền phương Quân đoàn II sẽ về Nha Trang để theo dõi và yểm trợ (chỉ huy tổng quát) cuộc hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột. Ban tham mưu của Tướng Phú là BTL/Quân khu 2 tại Nha Trang.

(2) Tướng Lê Trung Tường cùng đi với Tướng Phú nhưng đáp xuống Phước An để chỉ huy lực lượng tái chiếm Ban Mê Thuột (chỉ huy trực tiếp ). Ban tham mưu của Tướng Tường là BTL/ Sư đoàn 23 BB.

(3) Tướng Trần Văn Cẩm theo dõi và yểm trợ (chỉ huy tổng quát) cuộc hành quân triệt thoái trên Liên Tỉnh Lộ 7. Ban tham mưu của Tướng Cẩm là BTL/Quân đoàn II tại Pleiku do Lê Khắc Lý là Tham mưu trưởng.

(4) Tướng Phạm Duy Tất được chỉ định làm Tư lệnh đoàn quân triệt thoái từ Kontum-Pleiku về Tuy Hòa theo LTL.7 ( chỉ huy trực tiếp ). Tức là di chuyển bộ cùng với đoàn quân triệt thoái. Ban tham mưu của tướng Tất là “Bộ chỉ huy BĐQ/ Quân khu 2” do Trung tá Lộc làm Tham mưu trưởng, Thiếu tá Khôi là Trưởng ban hành quân.

(5) Đội hình di chuyển là Liên đoàn 20 Công binh sẽ đi trước để sửa đường khi cần thiết, đi kèm là lực lượng thiết giáp.

(6) Lực lượng an ninh dọc theo đường do Địa phương quân, Nghĩa quân phụ trách.

(7) Lực lượng đi sau cùng là 2 Liên đoàn BĐQ cùng với 1 tiểu đoàn Thiết kỵ. ( Tức là Liên đoàn 7 và Liên đoàn 4 BĐQ. Không thấy nói gì về 3 Liên đoàn BĐQ còn lại; trong thực tế 3 Liên đoàn còn lại bị bỏ rơi bởi vì họ toàn là người Miền Núi, họ sẽ không chịu di tản ).

(8) Ngày 19-3 là ngày cuối cùng di chuyển khỏi Pleiku.
Cũng theo tài liệu của Tướng Cao Văn Viên thì Quân đoàn 2 đã lên kế hoạch chia đoàn quân thành 4 nhóm di chuyển trong 4 ngày :

Ngày 16-3: đoàn xe 200 chiếc của quân cụ, đạn dược, nhiên liệu và Pháo Binh.

Ngày 17-3: đoàn xe 250 chiếc của Pháo Binh còn lại, Công Binh, Quân Y.

Ngày 18-3: Bộ tham mưu Quân đoàn, quân cảnh, hậu trạm của Sư đoàn 23 BB và hậu trạm Sư đoàn 22 BB. ( Tướng Viên không nói rõ là BTM/QĐ sẽ đi bằng xe hay bằng máy bay. Tuy nhiên theo binh thư binh pháp thì BTM của Đại tá Lý bắt buộc phải di chuyển bằng máy bay, tránh xa khu vực chiến trận, chứ không thể tham gia chiến trường ).
Ngày 19-3: lực lượng Thiết Kỵ và 2 Liên đoàn BĐQ (Liên đoàn 7 và Liên đoàn 4 là hai liên đoàn Tổng Trừ Bị của BTTM, không ghi về 3 Liên đoàn BĐQ còn lại).


3. Ngày Đầu

Kế hoạch triệt thoái bị tiết lộ ra ngoài dân chúng
Ngày 15-3, tại Pleiku
– Buổi sáng, Liên đoàn 23 BĐQ từ Kontum lên đường về Pleiku để sẳn sàng hành quân vào sáng ngày mai. Binh sĩ chưa biết đi đâu nhưng các sĩ quan đã nhận được bản đồ vùng LTL 7 và được biết khu vực hành quân là Phú Bổn.

– Buổi sáng, Tiểu đoàn 34 của Liên đoàn 6 BĐQ và Lữ đoàn 2 Kỵ binh từ Trung Nghĩa, Quốc lộ 19 được lệnh lên đường ngược về Pleiku để sẵn sàng hành quân vào sáng ngày mai. Các sĩ quan nhận bản đồ LTL 7.

– Buổi sáng, Pháo đội B của Tiểu đoàn 103 Pháo binh 175 ly tại Kontum nhận được lệnh đưa súng về Pleiku để chuẩn bị hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột. Nhưng về đến Pleiku thì nhận được bản đồ vùng LTL 7.

– Tại Pleiku, tin Quân đoàn 2 rút khỏi Pleiku được nhanh chóng loan đi. Tài liệu của CIA:
“Ngày mai Stephens trở lại với hy vọng có tin sốt dẽo… … Đến bộ tư lệnh Stephens thấy đồ đạc vương vãi như đang dọn nhà. Nửa giờ sau Stephens tìm được Lý. Lý kéo Stephens ra một chỗ vắng và sau khi căn dặn tuyệt đối giữ kín, Lý cho Stephens biết TT. Thiệu ra lệnh Tướng Phú bỏ Pleiku và Kontum.

Stephens vội vàng thông báo tin sơ khởi cho cố vấn tỉnh Darlac Earl Thieme, rồi đi tìm gặp Phú để xác nhận. … Tướng Phú nói với Stephens ông cho dời bộ chỉ huy Quân Đoàn về Nha Trang cho an toàn chứ không có ý bỏ Pleiku và Kontum. ( CIA và các ông tướng, bản dịch của Trần Bình Nam)."

Tại Sài Gòn, Phó của Đại sứ Martin là Lehman đến dinh Độc Lập để thăm dò chuyện ở Cam Ranh nhưng Tổng thống Thiệu không nói gì (Đại sứ Martin đi Mỹ).

Cũng trong buổi sáng, Trưởng chi nhánh CIA tại Sài Gòn là Polgar vào dinh Độc Lập gặp Tướng Đặng Văn Quang, Cố vấn an ninh quốc gia. Nhưng Quang cũng không cho biết có gì mới lạ. (Tướng Quang là cọng tác viên của CIA từ năm 1967 nhưng ông luôn luôn che giấu những tin tức bất lợi cho quốc gia. Trái lại ông thường chuyển cho CIA những thông tin theo yêu cầu của Tổng Thống Thiệu).

– Buổi trưa, Earl Thieme, Trưởng cơ quan USAID Pleiku cùng với 3 nhân viên CIA tổ chức di tản tất cả những người HK đang làm việc tại Cao Nguyên. Đồng thời cũng loan báo cho tất cả các cơ quan, đơn vị có liên quan tới Mỹ và nhân viên sở Mỹ được biết.

Tài liệu của Frank Snepp:
“Trong lúc vội vã lo tự cứu mình, họ đã phạm một lỗi lầm nghiêm trọng có thể làm hại đến các nhân viên điệp báo… …. Họ đã quên bảo vệ một điệp viên kỳ cựu nằm trong bộ tham mưu của Tướng Phú…” ( Decent Intervaul, trang 200. Sau này tài liệu CIA and The Generals xác nhận điệp viên kỳ cựu này là Đại tá Lê Khắc Lý ).

– Lúc 4 giờ 30 chiều, chuyến bay cuối cùng của Hoa Kỳ rời Pleiku, trong ngày họ đã chuyển được hơn 450 người về Nha Trang.

* Chú giải: Có như vậy mới thấy hệ thống gián điệp siêu đẳng của CIA. Phải nhờ Đại tá Lý CIA mới biết được tin Pleiku di tản. Ngoài Đại tá Lý CIA không còn bất cứ một nhân viên điệp báo thứ hai nào khác nằm trong quân đội VNCH tại Pleiku hay trong dân chúng Pleiku. Cả tỉnh Pleiku, quân cũng như dân rùng rùng rủ nhau cuốn gói đồ đạc, đến nỗi khi Stephens bước vào BTL Quân đoàn thì nơi này đã như cái nhà hoang mà Stephens vẫn chưa biết chuyện gì xảy ra.

Chẳng có một người nào trong số 60 ngàn dân và 40 ngàn lính tại Pleiku báo cho CIA tại Sài Gòn hay Nha Trang biết tin, chứng tỏ hệ thống làm việc của CIA là con số không.

Đại Tá Tham Mưu Trưởng bỏ trốn, kế hoạch bị hỏng ngay từ ngày đầu

Ngày 16-3, tại Pleiku
– Lúc 6 giờ sáng, đoàn xe 200 chiếc của Công binh, Quân cụ, Pháo binh bắt đầu lên đường di chuyển về thị trấn Cheo Reo, thủ phủ của tỉnh Phú Bổn, trên Liên tỉnh lộ 7. Dẫn đầu đoàn xe là Liên đoàn 23 BĐQ.

– Sáng sớm, tại Nha Trang, Trưởng cơ quan CIA tại Pleiku Earl Thieme xin một máy bay trực thăng trở lại Pleiku với ý định bốc thêm những nhân viên USAID Việt Nam và gia đình của họ. Tại cơ quan USAID có hơn 200 người đang chờ Thieme. Ông đưa họ ra phi trường và xin máy bay từ Nha Trang.

– Buổi sáng, theo tường trình của Chỉ huy Trưởng Liên đoàn 231 Yểm Trợ viết cho BTTM: "Tôi hoàn toàn không biết gì về lệnh triệt thoái. Lúc thấy một đơn vị pháo binh kế bên thu dọn quân dụng, tập họp binh lính, thân nhân, đưa nhau lên xe chuẩn bị đi, khi hỏi thì được cho biết : “Có lệnh di chuyển, chúng tôi rời Pleiku, ông cũng thu xếp nhanh lên”. Tôi trở lại đơn vị, vội vàng lấy theo một số quân dụng còn tốt, chất lên xe và đi theo đơn vị Pháo Binh."(Tài liệu của Cao Văn Viên, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong trang 152 ).

Nghĩa là Tham mưu Trưởng Lê Khắc Lý không có chuyển lệnh triệt thoái của Tướng Phú cho bất cứ một đơn vị nào; mặc dầu ông ta là người duy nhất biết được tại Pleiku, Kontum có bao nhiêu đơn vị, mỗi đơn vị có bao nhiêu người và bao nhiêu xe, bao nhiêu súng. Và cũng chỉ có Bộ tham mưu của ông mới biết được phải liên lạc với đơn vị nào trên tần sồ vô tuyến nào.

– Khoảng 10 giờ sáng: “…một máy bay vận tải C.46 của HK đáp xuống phi trường nhưng không phải để bốc đoàn người của Thieme mà để bốc một sĩ quan cao cấp VNCH, người này là điệp viên kỳ cựu của CIA đã bị bỏ quên ngày hôm qua”.. Thieme phải chờ một máy bay khác. ( Decent Interval, trang 203. Sau này CIA xác nhận đó là Đại tá Lê Khắc Lý ).

– Lúc 12 giờ trưa, sau khi biết tin Đại tá Lê Khắc Lý biến mất, hằng trăm sĩ quan và nhân viên trong BTL/ Quân đoàn hè nhau bỏ nhiệm sở về nhà ôm vợ con di tản. Theo hồi ký của Đại tá Phạm Bá Hoa thì các thiết bị truyền tin vô tuyến của BTL/QĐ mãi đến 3 giờ 15 chiều ngày 20-3-1975 mới ngưng hoạt động, không phải vì có ai đó tắt máy mà do vì máy phát điện đã chạy hết nhiên liệu. Điều này chứng tỏ các sĩ quan trong Bộ tham mưu đã hoảng hốt bỏ chạy mà không kịp tắt các thiết bị quân sự chứ đừng nói là phá hủy trước khi chạy.

Trong khi đó Tướng Trần Văn Cẩm ở lại Pleiku mà không có Ban tham mưu hành quân, không còn Trung tâm hành quân. Ông không tìm thấy Đại tá Lý ở đâu nữa. Tuy nhiên dầu sao Tướng Cẩm vẫn còn nắm trong tay Bộ chỉ huy BĐQ của Tướng Tất và BCH hành quân của Tiểu khu Pleiku. Hai cơ quan này vẫn ở lại Pleiku để di chuyển vào ngày 19-3 theo như kế hoạch.

Sau này tại Hoa Kỳ, Đại Tá Lê Khắc Lý xác nhận với báo chí rằng cuộc hành quân triệt thoái không có lệnh hành quân, tất cả chỉ là điều động theo khẩu lệnh (Tướng Phú ra lệnh miệng trực tiếp cho Tướng Cẩm, Tướng Sang, Tướng Tất và Đại Tá Lý. Tiếp sau đó là Lý ra lệnh miệng trực tiếp cho từng đơn vị của Quân đoàn II, Quân khu 2).

Nhưng một khi Lý đã trốn khỏi Pleiku thì không còn ai ra lệnh cho nên toàn bộ kế hoạch hành quân triệt thoái chỉ còn là con số không bởi vì toàn bộ kế hoạch nằm trong đầu của Lý chứ không còn ghi trong một bộ nhớ nào khác. Các sĩ quan tham mưu còn lại nếu muốn thay Lý làm tham mưu cho Tướng Cẩm cũng không biết đường đâu mà tham mưu.

Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất đã kể lại: “Vừa bước ra (sau khi nhận lệnh của Tướng Phú) tôi gặp Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham mưu Trường Quân đoàn, ông Lý vừa đi vừa nói: 'Tôi không có thì giờ để làm lệnh hành quân”.

Tướng Tất tâm sự: “Quân đoàn, Quân khu có nhiều đơn vị, cơ quan trực thuộc, tôi đâu biết là những đơn vị nào, đồn trú ở đâu, ai chỉ huy…Vậy làm sao tôi điều động được?”

"Tư Lệnh, Tư Lệnh Phó Quân đoàn đều còn đó thì làm sao tôi có thể là Tổng chỉ huy được?… .., việc chuyển lệnh của Tướng Phú đến các đơn vị là nhiệm vụ của Đại tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng ,…” ( Đỗ Sơn, Chuẩn tướng Phạm Duy Tất và Sự Thật Cuộc Triệt Thoái Quân Đoàn II, trang 117,118 ).

Rõ ràng cuộc hành quân triệt thoái bị thất bại ngay từ đầu do vì không có chỉ huy. Bộ óc đầu não của hệ thống chỉ huy là Đại tá Tham mưu trưởng đã được máy bay đặc biệt của CIA rước đi khỏi Pleiku ngay trong ngày đầu tiên thì toàn bộ đoàn quân còn lại chỉ là rắn mất đầu.

Trong khi đó Thiếu Tá Phạm Huấn là người theo sát Thiếu Tướng Phạm Văn Phú như hình với bóng lại ghi vào tài liệu của ông ta như sau:
“Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham mưu Trưởng, “bộ óc” của Quân đoàn, người đã thiết kế và tổ chức cuộc rút quân trong hai đêm hai ngày, làm việc gần như 24 trên 24 giờ. Có chức nhưng không có quân. Có tài nhưng không có quyền hành ngoài mặt trận để dụng võ tung hoành. Ông ở lại Pleiku cho đến giờ phút chót, và di chuyển xe theo đoàn quân” ( trang 167 ).

Phạm Huấn viết lên điều này là vào năm 1993. Dĩ nhiên đoạn văn trên đây là do ông tưởng tượng ra, từ việc cho rằng Lý có tài,… không có quyền…, không có quân…, ở lại cho tới phút chót,… di chyển xe theo đoàn quân…(sic). Những tưởng tượng này rất vô lý và hoàn toàn không có chứng minh. Thực tế lúc đó mọi quyền hành đều ở trong tay một mình Lê Khắc Lý.
Phạm Huấn đã trở thành có tội với lịch sử khi mà những tưởng tượng của ông được dùng làm căn bản cho các sử liệu viết về các trận đánh cuối cùng của Quân đoàn II.
Bản đồ Liên Tỉnh Lộ 7 từ Pleiku đến Tuy Hòa
Tướng Văn Tiến Dũng ngơ ngác
– Lúc 9 giờ 15 tối, hồi ký của tướng CSVN Văn Tiến Dũng: “21 giờ ngày 16 tháng 3, đồng chí trực ban nhận được tin là địch đang rút chạy khỏi Pleiku, một đoàn xe đã qua ngã ba Mỹ Thanh theo hướng đường số 7, kho đạn ở Pleiku đang nổ và có nhiều đám cháy trong thị xã”.

Nhận được tin thì tướng Văn Tiến Dũng bật ngữa, ông quy trách cho Tư lệnh Sư đoàn 320 CSVN là đơn vị phụ trách chặn viện trên Quốc lộ 14: “Đó là một thiếu sót, một sơ hở đáng khiển trách. … Nếu để địch chạy thoát là một tội lớn mà đồng chí là người chịu trách nhiệm”.

Theo hồi ký của tướng csVN Đặng Vũ Hiệp thì Tư lệnh Sư đoàn 320 CSVN vội vàng ra lệnh cho 1 tiểu đoàn đang nằm cách Hậu Bổn 7 cây số phải băng rừng chặn phá đoàn di tản. Đồng thời, Tướng Văn Tiến Dũng cho lệnh điều 110 xe vận tải chở 2 trung đoàn (?) thuộc Sư đoàn 320 từ Đạt Lý, BMT về Thuần Mẫn rồi từ Thuần Mẫn theo Tỉnh lộ 287 để chặn đầu đoàn di tản. ( Ký Ức Tây Nguyên, trang 43).

Tuy nhiên chi tiết cho xe chở 2 trung đoàn CSVN không có trong hồi ký của tướng Văn Tiến Dũng. Có thể là chuyện này không có thật, bởi vì suốt quyển hồi ký sau đó của Tướng Hiệp không hề nhắc tới hoạt động hay thành tích của hai trung đoàn 48 và 64. Sư đoàn 320 thực sự chỉ có Trung đoàn 9 là còn nguyên, được giao nhiệm vụ làm chốt chận tại Phú Nhơn. Tư lệnh sư đoàn là Kim Tuấn và Sư đoàn bộ cũng đóng quân tại Phú Nhơn.

Ngoài Trung đoàn 9, Sư đoàn 320 chỉ còn có Tiểu đoàn 9 thuộc Trung đoàn 64 đang chốt trên đường từ Thuần Mẫn đi Hậu Bổn, cách Hậu Bổn 7 cây số. Đặc biệt Tiểu đoàn này lại do Ngô Huy Phát là Tham mưu trưởng của Sư đoàn 320 CSVN chỉ huy (?).

Có lẽ Trung đoàn 64 và Trung đoàn 48 thuộc Sư đoàn 320 CSVN đã bị thiệt hại nặng vào tháng 7 và 8-1974 trong trận tấn công dứt điểm Căn cứ Pleime đang do Tiểu đoàn 82 BĐQ trấn giữ. Sau 33 ngày đêm với 20 đợt tấn công, Sư đoàn 320 CSVN tổn thất nặng nề nên phải rút đi. Căn cứ Pleime vẫn đứng vững.

* Chú giải: Lại một bằng chứng hết sức khôi hài của chiến tranh Việt Nam. Hồi ký của Tướng Văn Tiến Dũng cho thấy toàn quân và dân VNCH tại Pleiku đã rùng rùng gọi nhau di tản từ chiều ngày 15-3, đến sáng 16-3 thì thành phố Pleiku đã như một cái nhà hoang; đoàn quân di tản đã lên đường từ 4 giờ sáng mà BCH tối cao của quân CSVN vẫn không hay, rồi phải đợi đoàn dân di tản đi được 15 tiếng đồng hồ sau mới hay (sic).

Nhưng độc đáo hơn nữa là người báo tin cho CSVN lại là đài phát thanh BBC. Lúc 7 giờ tối thì đài BBC loan tin quân đội VNCH di tản khỏi Pleiku (Hồi ký của Tướng Trần Văn Đôn). Đến lúc đó cơ quan tình báo của CSVN tại Pleiku mới cho người vào thành phố dọ tin, và tới 9 giờ15 thì người dọ tin mới trở về báo là thành phố Pleiku đã di tản (sic).

Cả thành phố Pleiku với 100,000 dân và quân mà không có ai làm điệp viên cho CSVN. Vậy mới biết hệ thống điệp báo của CSVN không thua gì hệ thống điệp báo của CIA, cả hai đều thuộc hàng siêu đẳng. Siêu đẳng giống như một bên nhắm mắt giả lơ không biết, còn một bên ngơ ngáo vào tiếp thu giải phóng !!!!!!!!!!!!!!!!


Một hình ảnh xấu xí của người Mỹ khi đấm vào mặt người VN tỵ nạn Cộng Sản cố gắng tìm đường sống .



Cộng Sản chiếm Dinh Độc Lập 30 Tháng 4 Năm 1975 và tù binh VNCH . Trách nhiệm thuộc về Ai ??? Phải chăng là do tên Tổng Thống ( bị từ chức )Nixon thuộc Đảng Cộng Hòa và bè lũ Cộng Hòa đã trói tay và bức tử Việt Nam Cộng Hòa ( Hiệp Định ngưng bắn 27 Tháng 1 Năm 1973 ) cách nay 46 Năm .

Bùi Anh Trinh

Không có nhận xét nào: