Cuộc chiến VN kéo dài gần ba mươi năm (1945-1975) nay xem như đã kết thúc nhưng đâu đó dường như vẫn còn những tiếng rên nghẹn ấm ức của những người lính già Miền Nam thua trận đã may mắn được sống sót sau một cuộc đổi đời. Tất cả như một màn kịch có nhân vật, thời gian và địa điểm, được đạo diễn cho mở màn và kết thúc sân khấu một cách tài tình. <!>
Có điều màn kịch được các diễn viên hay nói đúng hơn đó là những người lính trận mà hầu hết đang ở cái tuổi ‘xuân thì đầy mộng mơ hoa bướm‘ ghi lại qua những ‘Tình Khúc‘ được viết từ mặt trận đang còn nghi ngút khói, bên xác của bạn lẫn thù, đã làm cho những người xem sửng sốt tới rơi lệ vì không mấy ai tin là sự thật.‘ băng đạn cuối chìm rơi khi qua sôngngười lính mệt nhoài nằm ngủđầu dựa góc đahàng bình vôi trắng răng cười cợtthép súng khô dầu bụi nước hoencó phải hòa bình vừa nở một bông hoanở giữa tình yêu và tiếng hát .. ’ ’ ’(Thi Vũ tháng 1/1973 - thơ tình của người lính)Họ là lính nên ai cũng viết rất chân thật về tâm trạng của mình qua sự lo âu, thương xót, phẩn nộ, bi ai và chán đời trong lúc đang đối mặt với tử thần từng phút từng giây vì tình hình bất ổn tại hậu phương và cảnh chiến tranh loạn lạc hầu như khắp bốn vùng chiến thuật mà người lính trận nào cũng phải đăt chân tới. Tất cả đã trở thành những sự kiện có tính chất lịch sử qua những tiếng khóc thực dù không dám khóc to trước mặt bạn bè đồng đội. Mà dù có khóc to thì cũng chẳng để làm gì vì ai biểu chúng ta sinh ra làm trai hùng nước Việt?‘ em mắt nghìn thu xanh cỏ biếcta lên rừng thắm ngủ chiêm baovòng tay thần thánh xa biền biệtta gặp nhau mà vẫn nhớ nhau*em nhớ ta hay ta nhớ em ?từng đêm lặn lội giữa bưng biềnta qua Hậu Nghĩa ngày mưa xámróc vỏ thân chàm ta viết tênnăm tuổi chiến trường xuôi vạn lýnúi sông biết mặt đứa phong trầnyêu em ta bổng thành thi sĩthơ lính hào hoa vỗ súng ngâm.. ’ ’ ’( Chiêm Bao - Tôn Nữ Kim Phượng)Đó là cái đỉnh cao của thơ văn do lính viết qua suốt cuộc chiến từ 1960-1975. Cho dù nay phần lớn những tác giả đã không còn nhưng kỷ niệm ngày xưa vẫn cứ ngổn ngang trong tâm trí mọi người, một phần bởi tiếng thơ đầy nước mắt tuy rất cởi mở và ấm áp tình người. Đó cũng là lý do xuân tết xưa nay luôn được thi nhân ưu ái trong thi ca nhưng với lính thì ngày nào cũng như mọi ngày, vất vã cơ cực tới cái mức không còn ai khổ hơn. Cho nên với họ lấy gì vui để mà xuân hay Tết như người lính Vũ Hoàng qua bài thơ ‘Mưa Xuân Ngoài Biên Khu‘ viết tặng Lâm Hảo Dũng:‘ hãy uống cạn cho lòng vơi nổi nhớrượu chất đầy : nón sắt bi đôngngười lấy rượu đốt men xuân càng nồngta say khướt để quên đời dưới đó*dẫu là xuân hay hạ đông gì cũng thếbởi quanh năm ta với rượu : đôi bạn già(tiển thằng bạn vừa mất ta nốc đầy cốc rượumừng kẻ nhập đàn ta lại cụng ly ).. ’ ’ ’*‘ bó gối trong căn hầm tránh đạnchia nhau một cốc cà phê đenhít dăm ba điếu quân tiếp vụấy tết cô đơn của lính quèn*rừng vẫn viễn miên buồn ủ rũgục đầu tắm đạn pháo thương đauchim rừng cũng bỏ đàn về núiđể mặc chinh nhân vạn cổ sầu .. ’ ’ ’(Xuân chiến địa - Phong Nhân Hoài)Thân phận và hiện hữu là hai mộng ước mà người lính trận nào cũng canh cánh bên lòng. Vì vậy nó đã chắp cánh thành thơ đậu trên đầu súng, đầy ắp trong chiếc ba lô và chan chứa khắp mặt đất. Nhờ vậy mà người lính mới phần nào phôi pha cái ranh giới tử sinh trước mắt. Nổi nhớ của người lính khác hẳn với những tình cảm thừa mứa nơi chốn hậu phương vì ở đây con người có nhiều thời gian để mà yêu hờn ghét giận như Thanh Tâm Tuyền đã viết ‘ôm em trong tay mà nhớ em những ngày sắp tới‘ hay cùng lắm thì ‘vắt mẫu thuốc cuối cùng xuống dòng sông mà lòng phơi trên kè đá‘. Ngược lại người lính Trần Văn Sơn thì tự mình kể chuyện trong một đêm kích ở Dốc Đồn Đền làm cho những người một thời trong cuộc, đọc tới thấy thật là gần gũi thân thương và hối tiếc vì nó đã không còn :‘ Đêm nằm nghe vượn húba lô, súng gối đầumắt mở trừng không ngủrừng tiếp rừng âm u*gió lòn qua kẽ lácuốn tròn trong ba lôrét rừng cơn mệt lãđồi tiếp đồi bao lahay:‘ dẫu nước mắt mọi người có vỗ về hy vọngta vẫn cười khan nhìn bạn bè saycó phải không em dù mây vẫn cứ bayvà mai mốt ta có nằm yên trong lòng đấtem hãy giữ trong lòng những điều thành thậtta đã cho em và chưa vội mang theogiữa đời ta không phân biệt bạn thùchuyện sinh tử là chuyện từng giây phút ‘(Khi xa Bình Tuy)Phần lớn những bài thơ của lính là loại thơ ‘Tự Sự‘ được viết như những ‘tình khúc chiến trường‘ vì tự nó có đủ tầm vóc của môn thi ca chứa đựng các phần ngôn ngữ, nhạc điệu, cảm xúc và sự gợi cãm. Sự đồng điệu ngẫu hứng giữa thơ lính và những nhạc khúc được Nhật Trường Trần Thiện Thanh, Dũng Chinh Nguyễn văn Chính... sáng tạo trước tháng 4-1975, phải chăng đó là tâm cảnh của đời lính, nên ai cũng đều có sự suy nghĩ giống nhau cho dù xa cách muôn trùng. Nhưng yếu tố tạo nên sự đồng cảm đó , trước hết cũng là do tình yêu quê hương của mọi người. Có yêu nước thương dân mọi người mới hy sinh đời mình để chấp nhận tử sinh thua thiệt. Chân thành trong câu chuyện kể đã làm rung cảm một cách sâu sắc tới người đọc, nhất là những em gái hậu phương, vì yêu lính bằng lời, nên đã cất giữ những hình bóng cũ, nhờ vậy mà nó đã trở thành bất tử tới ngày nay, cho dù anh có hiên ngang hay đã trở thành tàn phế :‘ Rừng thưa dạt gió Hạ Làođêm nằm phục kích nhìn sao, nhớ nhàtháng tư thương nụ hoa càhồn quê gởi ngọn mây xa cuối trời(viết ở căn cứ Tiên Sa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét