Ngay từ thuở còn học trò, tâm hồn Võ Thị Thị Tường Vi đã chứa đầy chất lãng mạn nên biết suy tư mộng mơ và thả hồn bay bổng theo những vần thơ áng văn tiếng nhạc của văn thi nhạc sĩ. Từ đó hương thơm của nghệ thuật đã thấm vào tâm hồn bé bỏng Tường Vi, và theo năm tháng lớn dần cho đến sau này khi đã thành một cô giáo đứng trên bục giảng hồn vẫn mộng nơ !
Sau biến cố năm 75, như bày chim tan tác, Tường Vi gĩa từ cây cầu tre, con phố nhỏ làm một cánh chim lưu lạc xứ người mang theo cả màu trời quê hương với bao hoài niệm. Có lẽ những kỷ niệm êm đềm của ngày tháng cũ luôn sống trong tâm hồn Tường Vi bằng một sự vô hình, đó là Tình Yêu mà trong đó có tình gia đình, tình cha mẹ, tình lứa đôi, tình bạn bè và tình quê hương. Tất cả những tình cảm thiêng liêng đó đã ăn sâu vào tiềm thức Tường Vi thành một « nỗi nhớ » không thể chia cắt. Đó là người bạn đồng hành như chiếc bóng theo bên để thì thầm lời vỗ về an ủi những lúc Tường Vi cô đơn. Những nỗi niềm đó đã kết tạo thành những chất liệu thôi thúc tâm hồn Tường Vi phải viết ra những điều trăn trở ẩn dấu trong lòng. Sự chân thành và dòng cảm xúc dạt dào đã mở đường cho Võ Thị Tường Vi thành văn sĩ, có lẽ thế tác giả đã thực hiện tập truyện đầu tay, mang tính tùy bút có tựa là: Tình Yêu Nuôi Tôi Lớn. Sự hoài niệm tình quê hương đã thể hiện qua bút hiệu: Võ Thị Trúc Giang, tên một giòng sông quê hương của tác giả. Lúa 9 được ghép vào từ khi Tường Vi dọn qua Pháp sống tại làng nhỏ tên là Neufgrange. Neufgrange là 9-vựa-lúa.
Với một tâm hồn thấm đẫm chất đồng quê đầy miệt vườn, ngoại cảnh, con người và tâm tình của quê hương đã thấm vào văn phong của Võ Thị Trúc Giang Lúa 9 nên hương văn đã toát ra chất ngọt ngào thơm mùi lúa chín, mà trong đó có lẫn chất triết lý nhân sinh. Trong tác phẩm có những đoạn diễn tả « Thân phận Con người, về Hạnh phúc và Đau khổ », phải chăng do những nỗi buồn năm xưa ở quê nhà, những quay quắt ở xứ người hôm nay mà tác giả có những ý tưởng trên ? Tác giả viết :Cuộc sống không thể thiếu Tình Yêu, nhật ký ngày 24 tháng 3 năm 2006.
Nguyễn Du
Mưa trong văn học nghệ thuật thường mang nét buồn khơi gợi những kỷ niệm. Mưa là dạng ngưng tụ của hơi nước khi gặp điều kiện lạnh. Từ sự hiến đổi hình tướng mưa trở thành nguồn sống cho con người, cho muôn loài cỏ cây hoa lá, và là niềm hy của những nhà nông trên vùng đất khô cằn. Mưa là nguồn nước của sông hồ, nhưng giọt mưa lại rất mong manh chạm vào sẽ vỡ, nên những cơn mưa bụi rơi trên đường sẽ biến vào không gian, nào ai biết ? Giọt mưa trong thơ của Nguyễn Tất Nhiên là khối tình được nhà thơ nhân cách hóa để ẩn dụ qua hình tượng như giọt thủy tinh rơi trên tượng đá vỡ tan thành trăm mảnh ! Nhà thơ dùng trạng từ Thà ở đây biểu thị điều sắp xảy ra dù biết rõ là không hay nhưng vẫn sãn sàng chấp nhận hầu tránh một điều không muốn khác. Phải chăng thà là cứ yêu để mộng tình tan vỡ, như thế nhà thơ vẫn còn được quyền yêu dù đó chỉ là tình đơn phương ?!
Ngạn ngữ Tây phương có câu :
« Nhiều người đã từng cảm nhận vị ngọt tình yêu qua một tiếng sét ái tình thường nhớ mãi về nó như một biến cố lớn trong đời.»
Ở cõi nhân gian, nếu có người chẳng biết yêu hay không có quyền yêu thì thật là đau khổ ! Do đó ý nghĩa của câu : «Có còn hơn không» đối với những kẻ đang yêu thật là giản dị, chẳng triết lý cao xa, nhưng lý giải lý lẽ tình yêu lại là một triết lý ?
Trong những đoạn tùy bút của Trúc Giang người đọc không khỏi thắc mắc: « Có thật một Trúc Giang ngoài đời đầy lãng mạn, đam mê, đa cảm như trong tiểu thuyết » ? Văn tức là người.
Năm 2009 Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN Paris tổ chức một sinh hoạt văn học nghệ thuật chủ đề Thu Tao Ngộ : Tác Phẩm và Tác giả, quy tụ nhiều nhà văn nổi tiếng ở các nước Mỹ, Canada, Âu châu sang Paris ra mắt sách. Ngày đó tôi và nhà văn Tô Vũ giới thiệu Võ Thị Trúc Giang. Lần khác vào năm 2011, tôi và một số văn nghệ sĩ Paris hân hạnh gặp lại vợ chồng Trúc Giang và Bà chị. Nếu một nhà văn Trúc Giang thật lãng mạn trong văn chương, sầu muộn trong thi ca, thì ngoài đời một Tường Vi rất nhiệt thành chân tình với bằng hữu. Qua lời của Bà chị và của chồng thì Tường Vi mới đích thực là « Em », tính tình hiền lành đôn hậu, một mẫu ngườivợ đảm đang và rất ngoan trong gia đình. Trúc Giang may mắn được gặp một người chồng, người bạn đời tri kỷ đã hiểu mình và khuyến khích Trúc Giang sáng tác. Trong con người nhà văn của Trúc Giang còn có một nỗi đam mê mãnh liệt, văn chương và gia đình vẫn song hành như bóng với hình luôn ngự trị trong tâm hồn nữ sĩ. Điều ấy có thể lý giải được, Tường Vi sống bên cạnh một người đẹp trai, thông thông minh và thành đạt, lại biết ga lăng nhưng Trúc Giang vẫn tìm cho mình một mẫu người trong mộng tưởng tượng để sáng tác, và nặn ra một con người mà ngay chính mình cũng không hiểu ? Nhiều khi trong tác phẩm của Trúc Giang có những hình ảnh của người tình thuở học trò, của người chồng hay của bằng hữu. Những kỷ niệm đẹp được khơi dậy trong tiềm thức, tháp sáng tâm hồn nhà văn tạo nguồn cảm xúc dạt dào. Những hình hảnh thân thương của một thời, của hiện tại được ráp nối, tác giả đã thả tâm hồn trên dòng cảm xúc tuôn chảy theo con chữ mà không dấu diếm nên để dệt thành tác phẩm. Có lẽ thế, văn thơ của Trúc Giang có một chỗ riêng ; đó là hình ảnh quê hương mang đậm nét giòng sông Trúc Giang nơi quê nhà với cánh đồng đầy lúa chín.
Trúc Giang đã có những bài thơ tình rất hay, nhưng những bài thơ làm sau này, dù bài thơ có hay nhưng ý thơ không mới bởi tứ thơ cũng chỉ lập lại ý cũ ! Nhưng Trúc Giang họa thơ tình thì đặc sắc ! Nhà thơ đã nhập vào hồn thơ của thi nhân, hóa thân thành người tình trong thơ để chung hồn hòa điệu với tác giả, đôi khi có những bài họa lại xa rời tứ thơ, lạc vào ý mới , ngôn ngữ thơ lãng mạn sướt mướt hơn bài xướng ! Về Thơ Xướng Họa, thường thì các thi nhân làm những bài thơ họa mà hay hơn bài thơ xướng rất ít, phải người có tài thi phú và là thi sĩ mới họa được những bài hay, để ý thơ của bài xướng và bài họa cùng chung hồn thơ ! Nhưng trong thế giới «ảo» sự vay mượn cảm xúc khó tìm ra dấu vết cuộc tình chân thật để có những cảm xúc thật dệt thành bài thơ hay, độc đáo ; trừ phi các thi nhân đó đã từng quen biết nhau.
Mời các bạn thưởng thức bài thơ Ghen và bài thơ Khép Cửa của Võ Thị trúc Giang :
Nếu chồng em hỏi :
Còn tim em thể xin nhường cho em
Em buồn nhiều lúc trăng lên
Em buồn như thể con xa vắng nhà
Hiểu em đừng trách em nha
Cưới em anh đã cưới luôn tính tình
Tính tình tang, tính tình tang
Cưới em anh đã cưới luôn một đời.
( Trích tập Tình yêu nuôi tôi lớn)
Khép Cửa
anh nhẹ gõ mền
đứng trước bậc thềm
Đắn đo!
Tim em mở,
một giấc mộng lành
Muốn đuổi anh đi,
Nhưng lại không đành
Muốn khép cửa,
Thôi mời anh ở lại.
((Trích tập Tình yêu nuôi tôi lớn)
Đây là những bài thơ tình hay vì lời thơ chân thật, ý thơ độc đáo. Bài thơ Ghen, nhà thơ đã dám thổ lộ lòng mình với người chồng tri kỷ mà không dấu diếm. Bài thơ Khép Cửa, nhà thơ đã viết cho người tình lúc mới quen và sau đó cũng là người chồng, hay nhà thơ viết cho người trong mộng ? Chỉ có tác giả mới hiểu được ý nghĩa thật của bài thơ. Ở trên đời chẳng có một nhà phê bình văn học nào hiểu được hết những ý nghĩa sâu thẳm trong đáy hồn nhà thơ! Có một nhà tư tưởng Mỹ nói:
“Tình yêu là khúc dạo đầu tuyệt diệu
trong dàn nhạc giao hưởng cuộc đời”
Đa số những bài thơ Tình được nhà thơ diễn tả tình cảm chỉ phiến diện, lưng chừng như thiếu hơi, vì không dám đẩy hồn thơ lên chót vót đỉnh của tình yêu, có lẽ nhà thơ ngại tiếng đời, sợ bị hiểu lầm, hoặc không tìm ra ngôn ngữ để diễn tả ? Cho nên khi một bài thơ Tình mà dấu tên tác giả, nếu nhà thơ đó không có lối sáng tạo riêng sẽ không ai còn nhận ra thơ của ai, vì ngôn ngữ trong thơ được chép từ những lời của ca khúc nhạc vàng năm xưa. Như thế câu ví: “Thơ là người” sẽ không còn nghĩa !Do đó những bài thơ viết về tình dang dở, dễ bị ngộ nhận tác giả bài thơ vì chuyện tình và ngôn ngữ trong thơ của nhiều tác giả rất giống nhau!
Thơ văn của Võ Thị Trúc Giang như dòng suối riêng chảy bất tận. Thà Như Giòng Nước Chảy, mãi mãi là bài tình ca ẩn hiện trong tâm hồn đa cảm của nhà văn, nhà thơ Võ ThịTrúc Giang.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét