Mỗi năm cứ đến Ngày Memorial Day trên đất Mỹ, tôi lại tưởng nghĩ tới bao triệu người Việt Nam đã ra đi, đã hy sinh để bảo vệ cho chính nghĩa Quốc Gia trên quê hương Việt Nam tôi, nhất là trong Cuộc Chiến Ba Mươi Năm (1945-1975) vừa qua. Thật khó có bút mực nào tả xiết cho hết bao nỗi oan khiên, bao đau thương, máu và nước mắt đã đổ trong cuộc chiến này. Nhà thơ Tô Thùy Yên trong bài “Ta Về” đã nói lên phần nào tâm trạng đau xót của rất nhiều người trong thế hệ chúng tôi, thế hệ đã rất đông vĩnh viễn ra đi và đang tiếp tục ra đi:
<!>
Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thủa trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta
Sử Gia Phạm Cao Dương đã viết trong tác phẩm “ SIÊU QUỐC GIA VIỆT NAM TẠI HẢI NGOẠI và HIỂM HOẠ BẮC PHƯƠNG” của ông:
“ ... chúng tôi đã có may mắn được sống một phần đến trọn tuổi thơ ấu của mình trên đất nước Việt Nam, tuy lệ thuộc ngoại bang nhưng tương đối thanh bình và còn giữ được phần lớn những tập tục cổ truyền của dân tộc với những con người còn sót lại của xã hội thời xưa, đặc biệt là những Nhà Nho đã từng lận đận nơi trường ốc, hay xuất thân là những ông nghè, ông cử, ông kép, ông tú, ông mền, thày đồ, thày khóa... trong những kỳ thi cuối cùng của Nho học ở nước nhà không lâu trước đó. Chúng tôi cũng được tiếp xúc, được sống với những người nông dân hiền lành, chất phác hầu như cả đời chẳng ra khỏi nơi mình ở, những bác thợ cày, những cô cấy lúa, những anh đánh giậm.., được thấy các quan tri phủ, tri huyện, bố chánh, án sát, tuần phủ hay tổng đốc, hay gần gũi hơn, các học quan, như các quan đốc học, kiểm học, giáo thụ, huấn đạo, ngực đeo bài ngà khi các ngài đến thăm trường hay đến thăm vùng mình ở.”
Thế hệ chúng tôi rất may mắn được sống, được học hỏi từ thế hệ trước, được hấp thụ cùng lúc cả văn hoá Tây phương lẫn Nho học, đồng thời một số không nhỏ rành rẽ tiếng Pháp, tiếng Anh luôn cả chữ Nho hay ít ra là Hán Việt. Chính nhờ thông thạo ngoại ngữ, được đọc nhiều, nghe nhiều và thấm nhuần các nền văn hoá liên hệ nên có kiến thức rất đáng chú ý. Ở đây người viết viết không phải để ca tụng mà để nói lên những luyến tiếc, những đau xót cho một thế hệ theo thiển ý đã có tất cả và mất tất cả nếu không quá chua sót là đã “đầu thai lầm thế kỷ” như Vũ Hoàng Chương, nhà thơ thuộc thế hệ trước, đã u uất viết trong bài “ Phương Xa” của ông:
Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ
Một đôi ngưởi u uất nỗi chơ vơ
Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị
Thuyền ơi thuyền! xin ghé bến hoang sơ
Thật là miên man khi nghĩ về thế hệ của chúng tôi, đặc biệt khi đang viết những dòng này thì nhân Luật Sư LDS gọi tôi, Trong câu chuyện tôi có hỏi ý ông, đại khái ông nhận xét “ Thế hệ chúng ta thật khổ và cũng thật may mắn là đã được hưởng nền giáo dục Dân Tộc, Nhân Bản, Khai Phóng của Việt Nam Cộng Hòa trước biến cố 1975”. Tôi xin mạn phép được nhắc lại. Câu hỏi đươc đặt ra ở đây là tại sao đã khổ lại còn may mắn?
Trước ngày Mother’s Day - Ngày Của Mẹ, ngày 9 tháng Năm, 2021, lần đầu tiên ra khỏi nhà sau hơn một năm bị "nhốt" vì đại dịch, chúng tôi được ký giả Linh Nguyễn, tốt nghiệp Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, lái xe cùng tới thăm Nhà Văn Huy Phương. Trên đường đi tôi băn khoăn không biết đây sẽ có thể là lần cuối chăng? Tôi nghĩ tới Chị Huy Phương, một trong những “Cái Cò” của thời đại vì khi đọc sử trong thâm tâm tôi luôn ngưỡng mộ, cảm phục những bà mẹ, bà vợ đã luôn luôn thay chồng giữ vững gia đình. Tôi rất biết ơn những người vợ lính trong suốt cuộc chiến oan khiên Ba Mươi Năm đầy máu và nước mắt. Tôi ngậm ngùì xúc động khi nghe bài hát "Cái Cò" của Nhạc Sĩ Nguyệt Ánh "Cái cò lặn lội bờ ao, bán giọt máu đào nuôi dưỡng đàn con ... Một đêm gió lộng mưa gào, được tin anh đã đi vào thiên thu. Chồng em chết giữa ngục thù, khổ sai đói rét cộng thù giết Anh"
Trước khi đến thăm Anh Chị Huy Phương tôi nhớ tới những lời Trung Tá Không Quân Võ Ý viết những lời rất xúc động sâu xa về Chị Huy Phương và các người vợ lính " .... Qua hình ảnh chị, tôi theo gương Huy Phương, xin tạ ơn tất cả những người vợ lính đã sắt son dũng cảm, nuôi con chờ chồng trong suốt chiều dài lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc."
Riêng về Chị Huy Phương tôi càng thêm kính phục, âm thầm nuốt nước mắt, khi thấy Chị vẫn đứng vững tươi cười tiếp khách khi biết rằng mỗi phút qua đi là mất thêm một phút được gần Người Bạn Đời thân thương của mình!
Năm tới hy vọng Ngày Mother's Day - Ngày Của Mẹ, Anh Chị vẫn còn được nắm tay nhau hạnh phúc bên các con cháu!
Anh Chị Huy Phương đã tặng chúng tôi Tập Thơ " Chúc Thư Của Một Người Lính Chết Già" trong đó có bài “Chúc Thư” với những câu:
Tôi người lính già ở xa tổ quốc
Xa chiến trường lưu lạc tới đây
Nơi quê người sương pha tuyết đổ
Mang nỗi đau con ngựa lạc bầy.
Ngày tôi bỏ đi, bạn bè đồng đội
Vẫn hiên ngang cho đến phút sau cùng
Đã tự hiến thân mình cho tổ quốc
Thắng hay thua thì cũng vẫn can trường.
Không phải chỉ chịu ơn người đã chết
Tôi như còn mang món nợ nước non.
Chết không nghĩa là đã tắt hơi thở
Sống đôi khi cũng có nghĩa chết mòn.
Khi tôi chết ván hòm xin đậy nắp
Có vui chi nhìn người lính chết già
Hổ thẹn đã không tròn ơn nước
Tiễn tôi chi, thêm phí một vòng hoa.
Hãy quên tôi, người lính già lưu lạc
Đừng phủ lá cờ tổ quốc cho tôi
Anh em tôi trong những giờ tuyệt lộ
Nằm lại bờ lúc chiến hạm ra khơi.
Chiến hữu tôi chết đầu sông cuối biển
Ngày tan hàng đành nằm lại quê hương
Không ai trổi cho khúc kèn truy điệu
Không có ai phủ giúp ngọn cờ vàng.
Hãy phủ cờ lên nấm mồ tử sĩ
Xác bị xới đào trong nghĩa trang xưa
Hãy rải hoa trên con đường thấm máu
Phút lui binh phải gãy súng buông cờ.
Anh là ai, mang ngọn cờ tổ quốc
Nhân danh ai, đứng phủ lá quốc kỳ.
Chúng ta là những con người bỏ ngũ
Quên anh em nằm lại, để ra đi.
Ta lành lặn để bao người thương tật
Ta sum vầy đành để bạn chia phôi
Ta đến bến để bao người chết biển
Dù ấm êm cũng thương nhớ một đời.
Danh dự này dành cho người đã chết
Đã hy sinh để giữ vững ngọn cờ
Không phải tôi, người lính hèn bỏ ngũ
Để sống còn trong lúc bạn sa cơ.
Tạm kết, xin trích lời của Giáo Sư Phạm Cao Dương trong tác phẩm “ SIÊU QUỐC GIA VIỆT NAM TẠI HẢI NGOẠI và HIỂM HOẠ BẮC PHƯƠNG”:
Những biến cố dồn dập và liên tiếp xảy ra kể trên đã đưa tới những mất mát và mất mát vĩnh viễn cùng với sự lớn lên và trưởng thành của thế hệ chúng tôi. Những mất mát, tôi thấy cần phải nhắc lại là hoàn toàn không do anh em chúng tôi gây ra, cũng như sự nhập cảng của một số những gì mới, trong đó có chủ nghĩa cộng sản với chủ trương độc quyền lãnh đạo, loại trừ mọi đối lập, với những bắt bớ, giam cầm, giết chóc, thủ tiêu ngay từ những ngày đầu, những cuộc đấu tố, những trại lao động cải tạo mà tôi nghĩ là yếu tố chính đã đưa tới sự phân hóa thê thảm, từ đó sự phá sản trầm trọng sau này của dân tộc, sau cái vỏ chiến thắng hào nhoáng bề ngoài của nó, cho đến bây giờ vẫn chưa hết. Vết thương của dân tộc đã mất bao nhiêu là cơ hội để được hàn gắn nhưng người ta đã không làm. Điều này cũng không phải là do thế hệ chúng tôi tạo ra.
Khánh Vân
Memorial Day 5/31/2021
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét