YẾU TỐ ĐỊA CHÍNH TRỊ CỦA TRUNG HOA VÀO ĐẦU THẾ KỶ XX:
Năm 1904, nhà địa lý người Anh, Sir Halford Mackinder, tác giả “The Geographical Pivot of History” (Trục địa lý của lịch sử). Ông cho rằng, lục địa Á – Âu chính là trục chiến lược của quyền lực thế giới, Trung Hoa một khi mở rộng sức mạnh của mình sẽ vượt ra ngoài biên giới của nó, có thể tạo thành mối hiểm họa da vàng cho tự do của thế giới, đơn giản vì Trung Hoa sẽ có thêm một vùng đại dương bổ sung cho nguồn tài nguyên của lục địa rộng lớn, một lợi thế mà nước Nga không may mắn có được trong khu vực cột trụ nầy.<!->
Trong khi nước Nga, một quốc gia có lãnh thổ rộng bao la trên lục địa Á – Âu, xét về cơ bản vẫn là một cường quốc trên đất liền với một mặt giáp đại dương bị băng đá Bắc Cực rào chặn; ngược lại, Ttrung Hoa với đường bở biển ôn đới 9.000 dặm, nhiều biển cảng tự nhiên thuận lợi, lại là một cường quốc lục địa lẫn hải dương. Mackinder tiên đoán, Trung Hoa một ngày nào đó sẽ thôn tính cả nước Nga. Tầm vói tay của Trung Hoa trải dài từ vùng Trung Á giàu khoáng sản và khí đốt đến những tuyến đường hàng hải trên Thái Bình Dương.
Trong cuốn sách kế tiếp “Democratic Ideals and Reality” (Các lý tưởng và thực tế dân chủ), Mackinder đã dự đoán cùng với Mỹ và Vương quốc Anh, Trung Hoa cuối cùng sẽ dẫn dắt thế giới bằng việc “xây dựng một nền văn minh mới cho một ¼ nhân loại, không thực như phương Đông, cũng không giống phuơng Tây.” Trung Hoa là sự pha trộn giữa tính hiện đại mang phong cách Tây phuơng với một “nền văn minh thủy lợi” (Hydraulic civilization), một thuận ngữ do nhà sử học Karl Wittogel đề ra, dùng để mô tả những xã hội thực hiện việc quản lý tập thể nguồn nước tưới tiêu nông nghiệp, bất cứ một nền văn minh nào có hệ thống nông nghiệp đều dựa vào cấu trúc thủy lợi rộng lớn do chính quyền điều hành độc quyền. Việc cung cấp nước đầy đủ cho tưới tiêu và khả năng bảo vệ mùa màng khỏi lũ lụt, mang lại quyền lực tuyệt đối cho chính quyền với nền kinh tế và từ đó là cả xã hội nông nghiệp. (Bắc Kinh xây dựng Đập Tam Hiệp và hệ thống đập thủy điện trên sông Mekong để kiểm soát nguồn nước không ngoài mục đích trên và những đập thủy điện kể trên, tự nó sẽ thành những tử huyệt của người khổng lồ chân đất sét TC)
oOo
Chiều hướng bành trướng chính là nhu cầu quốc gia về năng lượng, quặng kim loại và những khoáng sản chiến lược giúp đảm bảo mức sống đang ngày một cao của một số dân khổng lồ chiếm khoảng 1/5 tổng số dân số toàn cầu của nước nầy. Tàu Cộng còn tìm đủ mọi cách tăng cường sự hiện diện trên khắp lục địa Châu Phi, được thiên nhiên ban tặng nguồn dầu mỏ và khoáng sản trù phú. Những vùng biển kết nối thế giới Ả Rập giàu dầu mỏ và khí đốt với bờ biển Hoa Lục. Bắc Kinh cũng chẳng quan tâm đến các chế độ mình đang tham gia hợp tác làm ăn là chế độ gì, độc tài hay quân phiệt, hoàn toàn không phải đạo đức như tiêu chuẩn của Mỹ & phương Tây. Điều nầy đã khiến Bắc Kinh vấp phải sự xung đột với Mỹ vốn có khuynh hướng truyền bá giá trị dân chủ – nhân quyền, cũng như với những quốc gia được gọi là sân sau của Mỹ hoặc Nga.
Trong những năm gần đây, xung đột tôn giáo sắc tộc ở Hoa Lục diễn ra rất căng thẳng, phức tạp và nguy hiểm, nhất là xung đột giữa Phật giáo Tây Tạng, xung đột giữa người Duy Ngô Nhĩ Hồi giáo ở Tân Cương với người Hán và chính quyền địa phương. Khủng bố liên tiếp xảy ra khắp nơi đe dọa nền an ninh của TC:
[1] TÂN CUƠNG: Là khu vực mà cư dân bản địa luôn luôn kháng cự sức ảnh hưởng của văn hóa Đại Lục, những căng thẳng sắc tộc tại những khu tự trị nầy đang làm phức tạp quan hệ giữa Bắc Kinh với các quốc gia lân cận. Năm 1949, QĐGPND của Mao Trạch Đông đã tiến vào Tân Cương dùng vũ lực để sáp nhập Tân Cương vào lãnh thổ Tàu Cộng. Nhưng trong thời gian gần đây, chủng tộc Uighur (Duy Ngô Nhĩ), hậu duệ của những người Turk từng thống trị Mông Cổ trong thế kỷ 7 & 8 đã nổi dậy chống lại chính quyền Bắc Kinh.
Tân Cương với diện tích rộng lớn gấp đôi tiểu bang Texas, có dân số khoảng 8 triệu người, chưa bằng 1% dân số Hoa Lục. Hán tộc với số lượng áp đảo, chính quyền Bắc Kinh triệt để áp đặt quyền thống trị tuyệt đối lên khu tự trị Tân Cương để kiểm soát toàn bộ nguồn dầu mỏ, khí đốt, quặng đồng và sắt dưới lòng đất và trong nhiều thập niên, Bắc Kinh đã liên tục di dân Hán chung sống cùng người dân bản địa với ý đồ Hán hóa tòan bộ khu vực nầy. Ngoài ra, thế lực của Bắc Kinh tại Trung Á thể hiện ở 2 đường ống dẫn lớn sắp hoàn thiện nối tới Tân Cương: một dùng để vận chuyển dầu mỏ từ Biển Caspi chạy dọc qua Kazakhstan, ống dẫn dầu còn lại để chuyển khí đốt từ Turkmenistan bắc qua Uzbekistan và Kazakhstan. Cơn khát dầu cháy cổ tài nguyên thiên nhiên còn đồng nghĩa với việc Bắc Kinh sẵn sàng bất chấp những rủi ro lớn để bảo vệ nó. Bắc Kinh vẫn tiếp tục khai thác mỏ đồng ở phía Nam Kabul, nằm ngay bên trong Afghanistan đầy khói lửa. Điều kiện địa chính trị của TC sẽ được củng cố nếu Mỹ ổn định được Afghanistan.
[2] TÂY TẠNG: Giống như Tân Cương, Tây Tạng có vị trí hết sức quan trọng, có ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ đối ngoại của Bắc Kinh. Vùng cao nguyên Tây Tạng với địa hình đồi núi, giàu quặng đồng và sắt, chiếm một diện tích lớn lãnh thổ TC. Đây chính là nguyên nhân khiến Bắc Kinh luôn sợ hãi viễn cảnh về một Tây Tạng tự trị, chưa nói đến độc lập, vì nếu không thống trị được Tây Tạng, Bắc Kinh sẽ chỉ còn là một quốc gia nhỏ bé với phần diện tích còn lại không đáng kể, còn Ấn Độ có thể bổ sung thêm một vùng phía Bắc vào cơ sở quyền lực lục địa của mình.
Với hơn một tỷ dân, Ấn Độ như một hàng rào chắn, án ngữ ảnh hưởng của TC ở Á Châu. Ở mức độ nào đó, yếu tố địa lý đã sắp đặt Tàu Cộng và Ấn Độ trở thành kỳ phùng địch thủ là láng giềng kề cận với dân số khổng lồ và đều có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ như ở khu vực Arunachal Pradesh ở phía Nam Tây Tạng là của Ấn Độ. Trong tương lai, việc tranh chấp lãnh thổ không chỉ diễn ra ở khu vực nầy mà còn ở Bangladesh và Sri Lanka.
[3] MÔNG CỔ: Đường biên giới phía Bắc của TC bao quanh Mông Cổ là quốc gia có mật độ dân số thấp nhất thế giới và giờ đây đang bị nền văn minh đô thị của người láng giềng TC đe dọa về mặt nhân khẩu. Từng một lần Bắc Kinh xâm chiếm thành công Nội Mông để dọn đường tiến vào Ngoại Mông, vùng đất trù phú bao la, Bắc Kinh hiện nay đang sẵn sàng chờ thời cơ để quay lại chinh phục Mông Cổ lần nữa để thỏa mãn cơn khát dầu mỏ, than đá, uranium và cả những cánh đồng cỏ hoang vu và màu mỡ.
Các công ty khai thác thác khoáng sản, đặc biệt là than đá vẫn đang tìm kiếm cổ phần lớn trong việc khai thác những tài sản dưới lòng đất của Mông Cổ. Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa thiếu kiểm soát đã biến TC thành thị trường tiêu thụ lớn hàng đầu thế giới của các mặt hàng như aluminum, đồng kẽm và quặng sắt với mức tiêu thụ tăng từ 10% lên đến 25% thị trường kim loại thế giới kể từ cuối những năm 1990. Với Tây Tạng, Ma Cau và Hồng Kông đã nằm trong tay chính quyền trung ương, những giao dịch của nước nầy với Mông Cổ sẽ trở thành thước đo để đánh giá mức độ của tham vọng đế quốc mà Bắc Kinh đang nung nấu.
KHU VỰC VIỄN ĐÔNG:
Nằm ở phía Bắc Mông Cổ và giáp ranh với 3 tỉnh Đông Bắc TC là khu vực Viễn Đông của Nga, vùng đất hoang vu, băng giá, có diện tích gấp đôi Châu Âu trong khi dân cư ngày một thưa thớt. Nước Nga mở rộng biên giới của mình đến khu vực nầy từ thế kỷ 19 đến thế kỷ 20, giai đoạn Trung Hoa đang suy yếu. Nhưng giờ đây, TC đã trở thành cường quốc, còn ở phía Nga, không đâu trên lãnh thổ quốc gia, quyền lực của chính quyền lại yếu như ở 1/3 lãnh thổ nằm ở phiá Đông này. Ở ngay bên kia biên giới của TC có chưa đến 7 triệu người Nga vùng Viễn Đông, thậm chí tới năm 2015 giảm xuống 4,5 triệu người. Còn bên phía TC là 200 triệu dân Tàu của 3 tỉnh tiếp giáp của TC. Nghĩa là mật độ dân số ở phía TC cao gấp 62 lần so với phía Nga.
Dòng di dân bất hợp pháp từ Hoa Lục vẫn đổ sang Nga, định cư đông đúc ở thành phố trung tâm Chita, phía Bắc Mông Cổ và sống rải rác ở những nơi khác trong vùng. Tìm kiếm tài nguyên là mục tiêu hàng đầu của chính sách đối ngoại TC khắp mọi nơi, trong đó vùng Viễn Đông thưa thớt dân cư, Nga lại đang sở hữu những mỏ khí đốt, dầu mỏ, gỗ, kim cương và vàng. Theo David Blair – phóng viên Daily Telegraph của London – cho biết: “Moscow đang hết sức cảnh giác với số lượng khổng lồ di dân Tàu đổ vào khu vực nầy, mang theo những công ty khai thác khoáng sản và gỗ chở ồ ạt về bên Hoa Lục hàng trăm chuyến mỗi ngày.”
Cũng như với Mông Cổ, nỗi lo sợ của người Nga không phải là một này nào đó TC sẽ đưa quân xâm lược hoặc chính thức thôn tính vùng Viễn Đông Nga, mà là quyền lực kiểm soát của Bắc Kinh về dân cư và doanh nghiệp đang từng bước lặng lẽ bao phủ khu vực nầy. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, do những tranh chấp biên giới giữa LX và TC, hàng trăm ngàn binh lính đã được điều động tới vùng Siberia xa xôi và đã có lúc cuộc đối đầu bằng vũ lực. Yêú tố địa lý gần kề có thể gây chia rẽ Nga và TC, bởi quan hệ đồng minh hiện nay giữa hai bên chỉ đơn thuần bắt nguồn từ những tính toán chiến lược.
Khai thác sự mâu thuẫn giữa Trung – Nga có thể có lợi cho Hoa Kỳ. Vào những năm 1970, chính quyền Nixon đã từng lợi dụng mối bất hòa giữa Bắc Kinh và Moscow để đặt quan hệ hợp tác với Bắc Kinh. Trong tương lai gần, khi TC trở thành một cường quốc lớn với tham vọng thống trị thế giới, chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi Mỹ bắt tay với Nga thành một liên minh chiến lược nhằm tạo thế cân bằng chiến lược với Bắc Kinh.
KHU VỰC ĐÔNG NAM Á:
Do tiềm năng quốc phòng của các quốc gia Đông Nam Á không hùng mạnh nên đây là khu vực kháng cự yếu nhất trước sự trỗi dậy của một chủ nghĩa Đại Hán. Về địa chính trị và sự nhu nhược và quá hèn của những tên lãnh đạo Đảng CSVN, Bắc Kinh gần như không gặp trở ngại nào bành trướng phía Nam, khống chế dễ dàng VN, Lào, Miên, Thái và Myanmar, trừ sự đối kháng quyết liệt của Philippines nhờ liên minh với Hoa Kỳ. Riêng Myanmar cũng là một gia yếu với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú mà Bắc Kinh thèm khát. Trung – Ấn đang cạnh tranh phát triển cảng nước sâu SITTWE, nằm trên bờ biển Ấn Độ Dương của Myanmar.
Tóm lại, với tất cả khu vực nói trên, Bắc Kinh đang áp dụng sách lược “chia để trị” (divide & conquer) trong một số lãnh vực. Bắc Kinh sẽ tiếp tục khai thác, áp dụng sách lược này để phát triển những mối quan hệ có lợi đối với các nước láng giềng phía Nam. TC sử dụng ASEAN như một thị trường tiêu thụ những mặt hàng độc hại do các nuớc phương Tây tẩy chay; đồng thời mua lại từ những nước nầy các sản phẩm nông nghiệp giá rẻ. Điều nầy đã mang về cho TC thặng dư thương mại, trong khi biến các nước ASEAN dần trở thành bãi phế thải cho những sản phẩm công nghiệp sản xuất nhân công giá rẻ của TC.
BIỂN ĐÔNG VÀ HOA ĐÔNG:
Hải quân TC đang phải đối diện với môi trường trên Biển Đông & Hoa Đông chông gai hơn nhiều so với lục quân trên bộ. Hải quân TC gần như không nhìn thấy được nhiều triển vọng nào khác ngoài những khó khăn trong khu vực mà TC gọi là “chuỗi đảo thứ nhất”, gồm bán đảo Triểu Tiên, đảo Kuril, quần đảo Ryukyu, Đài Loan, Philippines, Indonesia và Australia. Cho đến nay, Bắc Kinh đã bị vướng vào nhiều tranh chấp về chủ quyền ở những vùng đáy đại dương giàu năng lượng ở Hoa Đông và Biển Đông. Với các nhà chiến lược Hải quân TC, viễn cảnh trên biển này lại không mấy lạc quan nếu xảy ra chiến tranh với Hải quân Mỹ – Nhật trên vùng biển nói trên.
Theo James Holmes và Toshi Yoshihara từ Học viện Hải chiến Hoa Kỳ (US Naval War College), chuỗi đảo thứ nhất là một dạng “VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH NGƯỢC”, tức là giống như một vòng vây hiệu quả của Mỹ – Nhật và các đồng minh, với mỗi bên đóng vai trò như một tháp canh giám sát và thậm chí có thể ngăn chận Hải quân TC tiếp cận với Thái Bình Duơng. Với “chuỗi đảo thứ hai” gồm các vùng lãnh thổ Guam và quần đảo Bắc Mariana của Mỹ đã cho thấy người TC coi đây là những không gian đảo mở rộng của lãnh thổ Hoa Lục rộng lớn.
Xây dựng chuỗi đảo nhân tạo phi pháp trên Biển Đông. Hải quân TC áp dụng học thuyết “SỨC MẠNH BIỂN” của chiến lược gia Hoa Kỳ Đô đốc Alfred Thayer Mahan (1840-1914). Ông đưa ra các điều kiện căn bản để trở thành quốc gia kiểm soát biển:
- Phải có hải quân hùng mạnh, căn cứ hải quân và các tuyến giao thông trên biển không bị nước khác kiểm soát.
- Phải có đội tàu buôn mạnh cùng các hải cảng và tuyến hàng hải, phải có giao thương với nước ngoài. Sức mạnh biển phải thể hiện ở chỗ kiểm soát được và lợi dụng được biển, công cụ chính để khai thác biển là đội tàu buôn và hải quân hùng mạnh để bảo vệ đội thương thuyền và tuyến hàng hải. Trong thời chiến, đội tàu buôn có thể chi viện hải quân tác chiến, chở vật tư, vũ khí, chở thương binh.
- Mahan nêu công thức: Sức mạnh hải quân = Lực lượng hải quân + vị trí chiến lược.
Dĩ nhiên, lực lượng tàu chiến và vũ khí mạnh mà không có vị trí thuận lợi thì khó phát huy được tác dụng trong tác chiến trên biển. Để có vị trí thuận lợi, nước Mỹ đã chiếm một số đảo dù rất nhỏ và rất xa trên đại dương để làm căn cứ địa hải quân, trong khi nhiều nước thực dân khác Anh, Tây Ban Nha chỉ lo chiếm đất thật rộng. Thực tế, sau nầy chứng tỏ suy tính của chiến lược gia Mỹ rất sáng suốt, nếu không có chuỗi các đảo nhỏ dùng làm căn cứ hải quân đó, như Guam, Midway… thì làm sao Mỹ có thể thắng được Hải quân Nhật trong chiến tranh Thái Bình Dương.
Tóm lại, TQ có khả năng sẽ phát triển thành một cường quốc cả trên biển và trên đất liền, ít nhất sẽ làm lu mờ Nga tại khu vực lục địa Á – Âu. Nhưng, đây là nhận định của Sir Halford Mackinder về Trung Hoa vào đầu thế kỷ 20. Hiện nay, nhân loại đã bước vào thế kỷ 21, gió đã đổi chiều, gió Tây đã đánh bạt gió Đông khi Washington tuyên bố: “xoay trục về châu Á – TBD”, Hải quân Hoa Kỳ khẳng định quyền tự do đi lạitrên các vùng biển thuộc Thái Bình Dương mà Bắc Kinh đang tranh chấp chủ quyền với các nước láng giềng xung quanh.
Căng thẳng trên Biển Đông leo thang khi Hải quân Mỹ điều tàu chiến áp sát các đảo nhân tạo phi pháp của TC trên quần đảo Trường Sa của VN. Tuy nhiên “Luật pháp Quốc tế” là nỗi lo sợ thực sự của Bắc Kinh, chính là phòng xử án của Tòa Trọng Tài ở The Hague, Hòa Lan tuyên bố có thẩm quyền xử vụ kiện của Philippines sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng tới vị thế nước lớn của Bắc Kinh.
Phía TC đưa ra yêu sách chủ quyền với gần như toàn bộ Biển Đông, tuyến hàng hải huyết mạch nhộn nhịp nhất thế giới; đồng thời là nguồn trữ lượng dầu mỏ, khí đốt và hải sản phong phú. Bắc Kinh dựa tấm bản đồ mơ hồ được chính phủ Tưởng Giới Thạch vẽ năm 1947 để khẳng định cái gọi là chủ quyền với 90% Biển Đông. Theo đó, Bắc Kinh bác bỏ tính hợp pháp của tòa vì cho rằng là tranh chấp lãnh thổ. Tuy nhiên, Tòa tuyên bố có thẩm quyền xét xử đơn kiện của Philippines vì cho rằng Manila kiện cách diễn giải UNCLOS của Bắc Kinh, chứ không đưa vấn đề tranh chấp lãnh thổ ra tòa. Phải nói, đây là tuyệt chiêu của Manila. TC tự rơi vào cái bẫy pháp lý khi tuyên bố bác bỏ thẩm quyền của Tòa án The Hague.
KINH TẾ TUỘT DỐC SẼ TÁC ĐỘNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CỦA ĐCSTQ:
Năm 2009, thế giới đã từng phớt lờ lời tiên đoán của Jim Chanos – nhà sáng lập Kynikos Associates – khi ông bắt đầu đặt ra câu hỏi về kinh tế TQ khi ông nhận ra rằng, phần lớn các nhà sản xuất hàng hóa đã không bị ảnh hưởng bởi khủng khoảng tài chính toàn cầu. Trên thực tế, họ còn ghi nhận mức lợi nhuận lớn kể cả khi các ngành khác chật vật vì khủng hoảng. Ông đã phát hiện ra một điểm quan trọng: “Trung Cộng rất khát hàng hóa. TC với nền kinh tế đã tránh được khủng hoảng – nhập cảng tới 40% lượng đồng và 50% lượng quặng sắt xuất cảng trên toàn thế giới, các hàng hóa khác cũng tương tự. Phát hiện này khiến Chanos đưa ra một lời cảnh báo táo bạo: “Trung Cộng đang ở trong một bong bóng tín dụng không bền vững”.
Ông Chanos nói với Charlie Rose của CNBC rằng, hoạt động đầu cơ bất động sản rất phổ biến ở TC và nguyên nhân là vì nền kinh tế này dựa quá nhiều vào xây dựng. Trong hầu hết các trường hợp là xây dựng các tòa nhà không có cơ hội tạo ra đủ thu nhập để hoàn trả nợ. Phần lớn là các căn hộ chung cư cao cấp có mức giá trên 100.000 USD, trong khi thu nhập bình quân của các hộ gia đình TC chưa đến 10.000 USD mỗi năm. “Trung Cộng đang trên guồng máy quay đi tới địa ngục”. Ngày nay, thị trường chứng khoán TC rơi tự do là minh chứng hùng hồn nhất cho thấy nhận định cho thấy Chanos đã đúng. Nền kinh tế lớn thứ hai mất đà, TTCK suy sụp và những nỗ lực cứu vớt thị trường của chính phủ nước nầy tỏ ra không hiệu quả.
Tuy nhiên, những nhà kinh tế đã nghiên cứu kỹ nền kinh tế TC thì cho rằng chính tình trạng dư thừa công xuất mới là nguy cơ chính của nước này. Ngày 9/9/2015, người đứng đầu cơ quan hoạch định chính sách kinh tế của TC đã thừa nhận rằng, nước này hiện đang phải đối mặt với nguy cơ giảm tăng trưởng rất cao. “Vấn đề lớn nhất mà nền kinh tế TC đang phải đối mặt hiện giờ là tình trạng dư thừa công xuất tại các nhà máy,” ông Xu Shaoshi – Chủ tịch Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia (NDRC), đã phát biểu như vậy tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF). Một trong những minh chứng cho điều nầy là tình trạng các nhà máy “xác sống” đang ngày một gia tăng tại Hoa Lục. Điển hình trong đó là nhà máy xi măng Lucheng Zhuoyue tại thành phố Changzhi của tỉnh Sơn Tây. Năm 2014, sản lượng xi măng trong tỉnh cao gấp 3 lần nhu cầu khiến cho gần 2/3 số công ty sản xuất xi măng bị thua lỗ, theo số liệu của Hiệp hội Sản xuất vật liệu xây dựng tỉnh Sơn Tây.
Nhà máy thép Panchenggang ở ngoại ô Thành Đô (TQ) đã đóng cửa vào cuối tháng 3/2015. Việc đóng cửa các khu công nghiệp là một phần quá trình chuyển đổi hiện tại, khi các ngành công nghiệp nặng đang dần suy yếu do nhu cầu giảm và đầu tư quá mức. Tình trạng tương tự đang diễn ra tại nhiều thành phố và thị trấn trên khắp Hoa Lục. Các nhà máy giấy ở Đông Quan đang phải chuyển địa bàn sản xuất.
Nếu ai đó nghi ngờ về mức độ của cuộc khủng hoảng mà ngành công nghiệp sắt thép lớn nhất thế giới của TC đang phải đối mặt, hãy nghe những gì mà ông Zhu Min – Phó chủ tịch Hiệp hội Sắt Thép TC – nói: “Nhu cầu và giá thép ở TC đang thi nhau sụt giảm với “tốc độ kinh hoàng”, trong khi các ngân hàng siết hầu bao đối với các nhà sản xuất thép nước này, còn thua lỗ của các công ty thép thì chồng chất,” ông Zhu nói. “Tốc độ cắt giảm sản lượng đang chậm hơn so với sự sụt giảm nhu cầu, bởi vậy mà tình trạng dư thừa nguồn cung ngày càng tồi tệ.” ông Zhu cho biết ngày 28/10/2015.
Tình trạng này khiến cho nhiều công ty rơi vào tình trạng chỉ có thể sản xuất cầm chừng và giá hàng hóa thì liên tục giảm. Một khi sản lượng nhà máy sản xuất ra vượt xa nhu cầu sử dụng của nền kinh tế sẽ tạo nên tình trạng “khủng hoảng dư thừa” hay còn gọi là dư thừa công xuất. Nếu tình trạng dư thừa công xuất này không được giải quyết thì sản phẩm sẽ còn rớt giá trong thời gian sắp tới. Điều nầy kéo theo lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm và giá chứng khoán tiếp tục giảm là điều không thể tránh khỏi.
KINH TẾ TRUNG CỘNG ĐANG MÉO MÓ HƠN THỜI KỲ ĐẠI NHẢY VỌT:
“Kinh tế TC mất cân bằng hơn so với nửa thế kỷ trước, thời điểm những quyết sách “Đại nhãy vọt” của Mao Trạch Đông dẫn đến khủng hoảng kinh tế” đó là nhân định của ông Ha Jiming – Phó chủ tịch Goldman Sachs Group Inc – đưa ra ngày 14/10/2015. Ông nói. “Năm 1958 – 1960, Mao Trạch Đông thực hiện chính sách “Đại Nhảy Vọt”, sử dụng một dân số khổng lồ của TC trong việc cải cách kinh tế – xã hội nhằm đưa TC từ một nước nông nghiệp trở thành nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Để đẩy mạnh sản lượng thép, Mao Trạch Đông kêu gọi người dân nấu chảy mọi thứ như đồ dùng trong gia đình để làm nguyên liệu; chặt cây tàn phá thiên nhiên để làm nguyên liệu cho các lò nung. Quyết sách cẩu thả, vội vàng, thiếu nền tảng đã khiến “đại nhảy vọt” của Mao Trạch Đông trở thành thảm họa kinh tế, gây ra nạn đói khủng khiếp hàng chục triệu người bỏ mạng”.
Đó là thời kỳ đen tối của TC. Và một tuyên bố mới đây của chuyên gia kinh tế Ha Jiming khiến thế giới rùng mình khi cho rằng lịch sử có thể lặp lại, thậm chí, tệ hại hơn khi kinh tế TC có quá nhiều méo mó, Bloomberg cho biết. Ông Ha Jiming là tiến sĩ Kinh tế Đại học Kansas từ 1993 – 2004, ông là chuyên gia kinh tế cao cấp của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) tại Washington. Sau khi giữ chức Kinh tế trưởng China International Capital Corp. Năm 2010, ông gia nhập Goldman Sachs.
Nhà kinh tế cấp cao tại IMF trong hơn 10 năm cho biết: “Kinh tế TC sẽ không thể phục hồi cho tới khi Tập Cận Bình khắc phục tình trạng giảm xuất, sản xuất dư thừa và cho vay quá mức”. Đầu tư tài sản cố định tại TC năm ngoái tăng đến 46% GDP – một con số lịch sử tại nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới. Một nguy cơ lớn của Bắc Kinh là xây dựng kinh tế như cách làm chính trị,” ông nhấn mạnh. “Việc TC theo đuổi mục tiêu tăng trưởng bằng mọi giá đang khiến nền kinh tế nước nầy đối mặt nhiều rủi ro”.
Tại TC, nhà nước chi phối quá nhiều vào nền kinh tế. Các công ty nhà nước tạo ra sức ì nặng nề đối với kinh tế khi nắm giữ 110 ngàn tỷ NDT (tương đương 17 ngàn tỷ USD), nhưng chỉ đóng góp 3% lợi nhuận, ít hơn một nửa lợi nhuận của các công ty tư nhân đóng góp. Vì thế, việc cải cách doanh nghiệp nhà nước trở thành chìa khóa then chốt kích thích sự phát triển của nền kinh tế thứ 2 thế giới.
Theo nhận định của Nicholas Lardy, thành viên cấp cao Viện Kinh tế Quốc tế Peterson. Dù Ngân hàng Trung Ương TC (PBOC) tuyên bố, ngân hàng này đủ khả năng để giữ đồng NDT ổn định. Nhưng, Ha Jiming cho biết mọi thứ chỉ có thể cầm cự trong thời gian ngắn. Đồng NDT sẽ tiếp tục rớt giá trong những năm sắp tới tương ứng với cán cân thương mại nước này chuyển từ thặng dư sang thâm hụt. Chuyên gia kinh tế cấp cao nầy khẳng định: “Đồng NDT nhất định sẽ tiếp tục mất giá.”
Những cuộc khủng hoảng kinh tế đóng vai trò quyết định những biến động chính trị lớn trong lịch sử thế giới. Từ sự tan rã của đế chế La Mã và cuộc lật đổ vua Louis XVI đến thất bại của nền Cộng hòa Weimar và sự sụp đổ từ bên trong Đế quốc LX, sự suy giảm kinh tế đã góp phần thúc đẩy sự ra đi của những chế độ chính trị tồn tại từ lâu đời. Do đó, những nền dân chủ vững chắc sẽ thành công hơn trong việc duy trì chế độ so với các chính thể độc tài chuyên chế.
Kết quả kinh tế tệ hại sẽ gây ra những đe dọa nghiêm trọng đến chế độ độc tài toàn trị hay khả năng tồn tại của chế độ độc tài phụ thuộc chủ yếu vào kết quả kinh tế? Trong những thời kỳ khó khăn về kinh tế, giới cầm quyền độc tài vẫn có những công cụ có thể sử dụng cho phép họ tiếp tục duy trì chế độ. Công cụ đó là dùng vũ lực đàn áp và khủng bố cho những người bất mãn chế độ chống lại họ. Nhưng, dùng vũ lực tàn bạo đàn áp quần chúng sẽ làm bào mòn thêm tính chính danh và khuyến khích sự đối lập thêm lớn mạnh, vì thế đàn áp cứng là con dao 2 lưỡi.
Nhiều học giả cho rằng, suy thoái kinh tế là nguyên nhân nổi bật cho sự thất bại của chế độ độc tài. Nói theo ngôn từ của bà Barbara Geddes (Geddes 2004, p.26): “Khủng hoảng kinh tế thường được xem như là lý do quan trọng duy nhất cho sự sụp đổ của chế độ độc tài. Nói cách khác, trong những thời điểm kinh tế khó khăn, người dân có nhiều khả năng chống lại chính quyền hơn, đồng thời nhóm cầm quyền cũng có xu hướng chia rẽ nhiều hơn, quay lại chống đối lẫn nhau, hay từ bỏ chế độ khi đối mặt với các cuộc biểu tình lớn”.
Theo Acemoglu và Robinson tranh luận rằng: “Khủng hoảng kinh tế làm tăng nguy cơ chia rẽ tầng lớp lãnh đạo cũng như khả năng diễn ra các cuộc nổi dậy của dân chúng, bởi vì những người chống đối có ít thứ để mất hơn, nếu như tình hình kinh tế của họ vốn đã xấu đi. Theo ngôn từ của tác giả: “Những thay đổi chế độ thường xảy ra nhiều hơn trong những thời kỳ khủng hoảng kinh tế. Bởi vì, sự bất ổn chính trị cho cả người nghèo và người giàu, nguy cơ người dân nổi dậy thường đặc biệt cao nếu suy thoái kinh tế diễn trong những xã hội được cai trị bởi chế độ độc tài toàn trị nơi mà của cải được phân chia bất bình đẳng. Bất bình đẳng càng cao, thì những người nghèo bị tước quyền bầu cử lại càng sẵn sàng thay đổi số phận của họ thông qua một cuộc cách mạng dân chủ”. (Acamoglu & Robinson 2001, pp938f).
Theo Merkel, những cuộc khủng hoảng kinh tế cũng góp phần cho thất bại của các chế độ chuyên chế ở châu Á (Merkel 2010, pp.271 ff). Sau cùng, suy thoái kinh tế kéo dài của những nền kinh tế Xô Viết ở Đông Âu trong suốt những năm 1980 cũng có thể được coi như một nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản vào đầu thập niên 1990 (Kotz & Weir 1997).
KINH TẾ TC CHƯA SỤP ĐỔ NHƯNG NGÀY CÀNG SUY YẾU:
Theo Reuters trích dẫn báo cáo từ các khảo sát độc lập cho thấy các công ty sản xuất dịch vụ nhỏ và trung bình cũng đang lâm vào tình trạng ngày một khó khăn hơn. Các doanh nghiệp nhỏ và trung bình đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế TC, cung cấp phần lớn số lượng việc làm tại quốc gia này và chiếm đến 60% GDP cả nước. Các số liệu thống kê nói trên đang làm dấy lên lo ngại rằng các chính sách kích cầu của Bắc Kinh đã không thể ngăn tốc độ tăng trưởng kinh tế tụt xuống dưới mức 7% trong quý III/2015.
Quy mô hoạt động sản xuất tại các nhà máy quốc doanh trong tháng 9/2015 tiếp tục bị thu hẹp, mặc dù mức độ thu hẹp có giảm so với tháng 8/2015. Còn hoạt động sản xuất của các nhà máy quy mô nhỏ hơn đã rơi vào tình trạng tồi tệ nhất trong 6 năm rưỡi qua và đà sụt giảm về số lượng đơn đặt hàng dự kiến sẽ trầm trọng thêm trong thời gian tới.
Theo dự đoán của các chuyên gia kinh tế thuộc tập đoàn tài chánh ANZ (Australia): “Hoạt động sản xuất thu hẹp trong 2 tháng liên tiếp, cộng với thị trường chứng khoán lao dốc, cho thấy tăng trưởng GDP trong quý III của TC nhiều khả năng sẽ chậm lại xuống mức 6.4%”. Reuters cho biết đợt sụt giảm liên tục của TTCK Tàu Cộng hồi mùa hè vừa qua và quyết định phá giá đồng NDT của Bắc Kinh hồi tháng 8/2015 đã gây chấn động thị trường toàn cầu, khiến nhiều nhà đầu tư, chuyên gia cả trong và ngoài TC hoài nghi về khả năng điều hành kinh tế của chính phủ nước nầy.
KINH TẾ LAO DỐC, DÂN TÀU ÀO ẠT CHUYỂN TIỂN RA NƯỚC NGOÀI:
Đối mặt với cơn địa chấn trên sàn chứng khoán và những triệu chứng kinh tế đổ bệnh, nhiều người dân Tàu Hoa Lục đang tìm cách chuyển tiền chui ra nước ngoài, Nhật báo Wall Street ghi nhận. Tuy nhiên, không có số liệu chính thức theo dõi các hoạt động chuyển tiền ngầm nầy, nhưng các quan chức Ngân Hàng Trung Ương TC (PBOC) ước tính có khoảng 800 tỷ NDT (tương đương 125 tỷ USD) đã được xử lý thông qua kênh giao dịch này mỗi năm. Con số thậm chí tăng đột biến trong năm 2015.
Dấu hiệu rõ ràng là kho dự trữ ngoại hối của TC bốc hơi mạnh, cho thấy nhu cầu đối với các đồng tiền mạnh tăng. Két tiền của Bắc Kinh đã giảm kỷ lục 93,9 tỷ USD trong tháng 8/2015 và 43 tỷ USD trong tháng 9/2015. Ngoài ra, đầu tư vào bất động sản tại nước ngoài của người dân Tàu Hoa Lục đang hướng tới mức vượt 10,5 tỷ USD trong năm 2014, theo số liệu của CBRE.
Bà Jiang Jinjin, nhân viên môi giới bất động sản tại New York, cho biết: bà đã xử lý gần 2.000 giao dịch bất động sản cho cư dân người Tàu Hoa Lục tại Đại học Columbia. Bà cho biết rất nhiều thanh niên Tàu muốm mua nhà. Dòng tiền “chảy máu” khỏi TC đã đặt các ngân hàng ngầm vào tầm ngắm của giới chức tài chính Bắc Kinh. Cò chuyển tiền thường núp bóng sau các cửa hàng tiện dụng và tiệm cà phê. Họ phục vụ đủ loại khách hàng có nhu cầu, từ các tham quan tìm cách giấu của cải, cho tới các tầng lớp trung lưu. Những khách hàng đều tin tưởng rằng, tài sản của mình sẽ được an toàn ở ngoại quốc. Trong nhiều năm, các ngân hàng ngầm nở rộ ở Sán Đầu và Triều Châu và những thành phố ven biển. Các ngân hàng ngầm chỉ đơn giản nối hai khoản tiền bằng nhau ở hai đầu thị trường. Tháng 6/2015, cảnh sát Thiên Tân đã bố ráp một ngân hàng ngầm, bắt giữ 31 người và đóng băng 1.087 tài khoảng chứa gần 2 tỷ USD.
NHẬN ĐỊNH GOLDMAN SACHS CỦA TC:
Citic Securities từng được ví như “Goldman Sachs của TC”. Chủ tịch Wang Dongming, chủ tịch Citic Securities đang bị điều tra do bị tình nghi có hành vi làm rò rỉ thông tin nội bộ và giao dịch nội gián, nhằm dập tắt hành động giao dịch phi pháp. “Kế hoạch nầy được triển khai song song với chiến dịch bài trừ tham nhũng. Bắc Kinh đang muốn chứng minh sự quyết liệt trong việc xục xạo thị trường, không ngoại trừ một ai,” ông Fraser Howie – Giám đốc điều hành Newedge Singapore – nhận xét. Ông là đồng tác giả của cuốn sách nổi tiếng “Chủ nghĩa Tư bản Đỏ: Nền tảng mong manh cho sự trỗi dậy bất thường của TC”.
Citic Group – công ty mẹ của Citic Securities – là tập đoàn đa ngành lớn nhất TC với hoạt động phủ sóng trên nhiều quốc gia, hoạt động trong mọi lĩnh vực từ xây dựng, sản xuất, năng lượng, bất động sản và tài chánh, bao gồm cả công ty môi giới chứng khoán CLSA đóng trụ sở tại Hồng Kong. Citic Group là một trong những công ty chứng khoán tham gia tích cực vào đầu tư ký quỹ, hoạt động thổi phòng đà tăng điểm trên TC. Nhắm vào Citic Securities, Bắc Kinh đang tìm cách xoa dịu sự phẫn nộ trong dân chúng khi TTCK sụp đổ. Ông Paul Gillis, GS Tài chánh tại Đại học Peking, nhận xét: Tính đến hiện tại, chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” của Tập Cận Bình đã nhằm vào nhiều quan chức các ngành, từ quân đội tới mọi ngành nghề. Giờ lĩnh vực tài chánh đang nằm trong tầm ngắm. Thực chất chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” của họ Tập chỉ nhằm mục đích triệt hạ các đối thủ để củng cố quyền lực chính trị của mình.
Theo Marc Faber, nhà tư vấn nổi tiếng về thị trường mới nổi, khẳng định ông không tin tưởng vào giới hành pháp TC. “Họ có thanh lọc được thị trường không?” Câu trả lời là không. Hệ thống tài chính quá rộng lớn, quá lộn xộn với những hoạt động ẩn nấp dưới vỏ bọc ngân hàng ngầm. Đây sẽ là một chiến dịch cực kỳ tốn kém, cả về kinh tế lẫn chính trị”, ông khẳng định.
Theo con số được ngân hàng Goldman Sachs đưa ra, Bắc Kinh đã phải bơm nhiều khoản tiền khổng lồ, được thẩm định lên tới 208 tỷ Euro, nhằm cứu vãn tình hình và để thời hoàng kim quay lại với TTCK. Trong khi TTCK ở Thượng Hải vẫn tiếp tục trồi sụt, các nhà đầu tư nhỏ không biết phải “bấu víu” vào đâu. Báo Le Monde thuật lại cuộc gặp gỡ một số người tại một vài phòng giao dịch nhỏ ở Thượng Hải và mô tả con đường tiến tới cảnh “trắng tay” của những con người nầy…
Trong 3 thập niên phát triển với tốc độ chóng mặt, TC được coi là miền đất hứa của giới đầu tư trên toàn thế giới. Thị trường béo bở với dân số khổng lồ nhất thế giới với sự đa dạng về nhu cầu hàng hóa đã khiến cho những ai chậm chân đến thị trường nầy chỉ nhận được thiệt thòi. Nhưng mọi thứ giờ đây đã thay đổi. Thị trường TC giảm dần sức hấp dẫn một cách trông thấy, đang tạo nên xu hướng di dời sang các khu vực khác của các nhà đầu tư quốc tế, điển hình là các nước Đông Nam Á, nơi thị trường vẫn còn chưa bão hòa và các lợi thế về nhân công giá rẻ hơn TC. Xu hướng chuyển đổi thị trường xuất cảng cũng dần thành hình, khi mà nhu cầu nhập cảng hàng hóa của TC giảm đi trông thấy.
TÌNH TRẠNG Ô NHIỄM TẠI HOA LỤC HẾT THUỐC CHỮA:
Trong suốt hàng thập kỷ, mức tăng trưởng kinh tế không khi nào dưới 2 con số. Thế giới phải thừa nhận TC đích thực là “con rồng Châu Á”. Tuy nhiên môi trường sống chính là điều khiến chính quyền Bắc Kinh đau đầu nhất do hậu quả của việc phát triển kinh tế dựa vào “xuất cảng” cuả Bắc Kinh trong nhiều năm liền khiến các dòng sông chết, bầu không khí mù sương khô, độc hại, lượng khí độc trong không khí vượt tiêu chuẩn an toàn. Việc Bắc Kinh chỉ chú trọng tăng trưởng kinh tế mà bỏ qua yếu tố môi trường sống, khiến Bắc Kinh phải trả giá bằng các gói ngân sách hàng trăm triệu đô mà vẫn không thể cứu vãn và phục hồi môi trường sống trong sạch để bảo vệ sức khỏe người dân.
Không ít người giàu Hoa Lục sở hữu hàng triệu đô phải tìm cách ra nước ngoài sinh sống vì môi trường sống trong nước ô nhiễm đến mức không thể chấp nhận được. Để giải quyết tạm thời nạn ô nhiễm, hàng loạt hệ thống nhà máy công nghiệp đều phải ngưng hoạt động đồng loạt để giảm thiểu ô nhiễm. Điều nầy cho thấy sự bất lực của một nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới trong việc bảo đảm môi trường sống lành mạnh.
Bắc Kinh đang lâm vào cảnh “họa vô đơn chí”, tờ China Daily số ra ngày 18/4 dẫn báo cáo mới của chính phủ TC cho thấy gần 1/5 diện tích đất nông nghiệp ở nước nầy bị ô nhiễm trầm trọng, gây lo ngại về an toàn thực phẩm sau nhiều năm công nghiệp hóa tràn lan. Thủ phạm chính gây ô nhiễm là 13 chất độc vô cơ, đặc biệt là cadmium, nickel và thạch tín. Báo cáo cho biết đất nông nghiệp bị ô nhiễm tập trung dọc bờ biển phía đông, khu vực sông Dương Tử và Châu Giang cũng như vành đai công nghiệp đông bắc. Theo AP, lâu nay các nỗ lực cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường ở Hoa Lục thường tập trung vào chất lượng nước & không khí . Tuy nhiên, sau các vụ thực phẩm độc nhiễm bẩn gần đây, vấn đề đất nông nghiệp bị ô nhiễm mới được chánh quyền quan tâm thì đã quá trễ.
Ô nhiễm ngày càng tăng ở Hoa Lục đã dẫn đến đường thủy không sử dụng được, tỷ lệ dị tật bẩm sinh và một số nơi có không khí ô nhiễm nhất trên trái đất. Theo dữ liệu của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ, nồng độ hạt bụi phân tử PM 2.5 trong không khí ở mức độ 300 sẽ được coi là rất nguy hiểm. Trong khi đó, nồng dộ PM 2.5 được ghi nhận ở Bắc Kinh vào khoảng đầu tháng 2/2014 đã lên tới 500. Các nhà khoa học dự đoán rằng, nếu TC vẫn tiếp tục tình trạng ô nhiễm môi trường mất kiểm soát như hiện nay. Dự kiến từ nay tới năm 2030, tổng sản lượng khí CO2 do TC thải ra sẽ bằng tổng sản lượng CO2 trên toàn thế giới.
KẾT LUẬN:
Tập Cận Bình là vua mỵ dân. Với tư cách là Tổng Bí Thư, Chủ tịch Trung Quốc đã phát biểu trước Bộ Chính Trị rằng, ông ta không màng “sống chết và uy tín” để chiến đấu chống tham nhũng, báo South China Morning Post (HK) đưa tin ngày 6/8/2014. Trước đó, ngày 4/8, nhật báo Changbaishan đưa tin, các quan chức địa phương đã nhận được chỉ đạo của họ Tập: “Tôi đã bỏ sinh mạng cũng như uy tín cá nhân vào cuộc chiến chống tham nhũng. Chúng ta phải chịu trách nhiệm kể từ khi đảng và đất nước giao phó vận mệnh vào tay chúng ta,” ông ta nói. “Hai lực lượng tham nhũng và chống tham nhũng đang đối đầu nhau và rơi vào thế bế tắc.”
Chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” đã ghi nhận con số kỷ lục các quan chức bị điều tra, cách chức, vào tù, điển hình là những con hổ lớn như: Chu Vĩnh Khang, Bạc Hy Lai, Từ Tài Hậu, Quách Bá Hùng…tất cả những nhân vật nầy là tay chân thân tín của Giang Trạch Dân. Mục tiêu của chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” là để củng cố quyền lực chính trị của Tập Cận Bình.
Một câu hỏi được đặt ra Tập Cận Bình có tham nhũng không? Chắc chắn là có, xin dẫn chứng một vài trường hợp:
- Tờ New York Times tố cáo chị ruột và anh rể của Tập Cận Bình đã mua phần cổ phiếu của công ty Dalian Wanda Commercial Properties trước khi lên sàn chứng khoán. Các cổ phiếu nầy được mua thông qua một công ty đầu tư có tổng giá trị 28.6 triệu USD năm 2009, nay đã tăng lên đến 201 triệu USD.
- Tại một diễn đàn ở Harvard Business School ở Boston, Hoa Kỳ, trước 1.000 sinh viên, ông Vương Kiện Lâm (Wang Jianlin) chủ tịch sáng lập công ty Dalian Wanda có trụ sở tại Bắc Kinh, xác nhận ông Deng Jiagui, anh rể của Tập Cận Bình đã mua cổ phiếu tại một chi nhánh của Dalian Wanda chuyên về địa ốc. Các doanh nhân tầm cỡ của TC rất hiếm khi bình luận về vấn đề tài chánh của các lãnh đạo chóp bu. Những phát biểu đăng trên tài khoản của ông Vương ở mạng Tài Kinh vài giờ sau đã bị rút xuống. Bộ Ngoại Giao TC từ chối bình luận
- Ngày 22/10/2015, ông John Bercow, Chủ tịch hạ viện Anh Quốc, ca ngợi Tập Cận Bình và nói rằng: “Mong nhà lãnh đạo TQ sẽ trở thành tấm gương sáng ngời về đạo đức cho cả thế giới. Nghe tới đây thì ai khờ dại tới đâu cũng phải hiểu rằng, ông nầy muốn chửi cha Tập Cận Bình. Vì sao? Câu trả lời rất đơn giản là vì Tập Cận Bình đang hô hào chống tham nhũng “đả hổ diệt ruồi” mà chính bản thân và gia đình họ hàng bị báo chí Hoa Kỳ phanh phui có tài sản khổng lồ. Thực vậy, vào ngày 25/10/2012, thông tấn xã Bloomberg và tờ báo New York Times đã điều tra và công bố tài sản của gia đình Tập Cận Bình lên đến khoảng xấp xỉ 500 triệu USD (1/2 tỷ Mỹ kim).
- Điển hình nhứt, cô con gái rượu Tập Minh Trạch, lén lút dưới tên giả Xiao Muzi đi qua xứ tư bản Mỹ học tại Đại học tư Harvard, từng nổi tiếng mắc tiền nhất, học phí mỗi niên học cả 100.000 USD, trong khi lương bổng được công bố chính thức trên báo chí của Tập Cận Bình chỉ có xấp xỉ 20.000 USD/năm, tiền ở đâu ra? Như vậy, Tập Cận Bình không xứng đáng là tấm gương sáng ngời “ĐẠO ĐỨC GIẢ” bị ông John Bercow chửi xéo là phải!
Dù sao, tôi cũng thông cảm cho tính lo xa của Tập Cận Bình, phải biết tham nhũng mới có tài sản khổng lồ phòng khi hữu sự chứ! Hơn ai hết, Tập Cận Bình phải hiểu rằng, ông ta sẽ bất lực để giải quyết nhiều bài toán nan giải trong nước như:
- Nền kinh tế lao dốc không phanh, ngưng trệ, mất đà. Nhiều nhà máy sản xuất phải đóng cửa vô thời hạn.
- Tổng sản phẩm xã hội tụt xuống mức thấp nhất trong 15 năm qua.
- TTCK rơi tự do, dự trữ ngoại tệ bốc hơi từng ngày.
- Đồng NDT tiếp tục mất giá.
- Bong bóng bất động sản bế tắc, thành hình nhiều thành phố ma, vắng bóng người.
- Tình trạng ô nhiễm môi trường sống hết thuốc chữa.
- Biển Đông đang bị Mỹ và Đồng minh bao vây cô lập, tứ bề thọ địch.
- Philippines sẽ đánh bại Bắc Kinh trên mặt trận chiến tranh pháp lý.
- Tân Cương, Tây Tạng và Nội Mông lạc điệu với “Trung Quốc mộng”
- Làm sao giải quyết nạn thất nghiệp với hơn 400 triệu người không có công ăn việc làm?
- An ninh bất ổn, các nhà máy bị phá hoại liên tục như vụ nổ nhà máy hóa chất Thiên Tân.
- Làm sao ngăn chận hơn 20.000 cuộc biểu tình và bãi công xảy ra hàng năm?
- Hồng Kông đã trở thành khúc xương khó nuốt, khó dập tắt phong trào đòi “tự do – dân chủ” của nhân dân Hồng Kông.
- Xã hội TC phân hóa giàu – nghèo ảnh hưởng đến hệ thống chính trị ĐCSTQ.
Tóm lại, Tập Cận Bình phải nhìn thấy viễn cảnh “Kinh tế sụp đổ – Trung Hoa mộng” sẽ tan tành theo mây khói.Vì thế, họ Tập phải lo tham nhũng, phải có đô la để cùng gia đình đánh bài chuồn sang một nước nào đó, có thể là Mỹ, Canada hay Australia để an hưởng tuổi già. Nhưng, khi xuống lưng cọp có toàn mạng hay không là chuyện khác, vì Tập Cận Bình có quá nhiều kẻ thù…
NGUYỄN VĨNH LONG HỒ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét