Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Ba, 21 tháng 1, 2020

Đọc sách cuối năm. (1) Phan Bội Châu - Mười thang thuốc chữa bệnh cho dân tộc Việt. (Phần 1. Từ chương 1 đến chương 7). Sào Nam, 1927

Phan Bội Châu (1867-1940)
Dẫn ngôn - Nước ta bây giờ đang cần có sách học. Học sách Tàu? Hán văn đã không còn thích dụng ở đời naỵ Học sách Tây? Pháp văn còn chưa mấy người thông hiểu. Lấy người mình đọc tiếng mình, thì sách nước mình ở lúc bây giờ không gì hơn làm bằng quốc văn. Tuy nhiên việc làm sách đó có dễ dàng đâu! Tất phải: dò xét lịch sử của nước mình đời xưa, thăm dò tệ bệnh của nước mình ngày nay, trông các gương liệt cường ở hiện tại, đo tính vận mạng dân tộc ở tương lai, nghĩ thế nào, viết một chữ, mở một lời mà hữu ích cho nhân tâm thế đạo, có thế sách mới có giá trị...Tôi viết quyển sách này, chẳng qua dâng một phần nghĩa vụ với Quốc dân, hay dở, đúng không, hoặc có công hiệu gì không, thì quyền ở người đọc sách. Khổng Tử nói: "Tri ngã giả, kỳ duy Xuân thu hồ, tội ngã giả, kỳ duy Xuân thu hồ", nghĩa là ai biết lòng ta tất ở sách Xuân thu, ai bắt tội ta tất cũng ở sách Xuân thu. Quyển sách tôi viết đây cũng nói như vậy.
Sào Nam, 1927
<!>


Chương thứ 1
Nghĩa hai chữ "quốc dân"
Phan Bội Châu (1927)Mười thang thuốc chữa bệnh cho dân tộc Việt
09:26' CH - Thứ ba, 07/02/2012
Xưa nay người ta thường hay nói đến nước thì trước hết kể vua, thứ nửa quan, còn dân không bao giờ kể đến. Nhưng đời bây giờ thì khác thế! Bên Âu, bên Mỹ cho đến Nhật Bổn, Trung Hoa ở Á Đông, họ không nói đến nước thì thôi, thoạt nói đến nước thì tức khắc nói đến dân, tai nghe chữ Quốc dân, mắt thấy chữ Quốc dân, miệng đọc chữ Quốc dân. Quốc dân! Quốc dân! Hai chữ đó như hình cha cha mẹ mẹ, không bao giờ quên.

Gần mấy năm đây, làn sóng Âu Mỹ tràn vào nước ta, mà người bảo hộ ta lại là người nước dân chủ, người ta trông có dân chủ mà hai chữ quốc dân mới phãng phất trong óc mình, nhưng miệng đọc hai chữ Quốc dân mà hỏi nghĩa chữ Quốc dân là sao chắc không ai trả lời được.

Chữ "Quốc" vì sao liền chữ "Dân", chữ "Dân" vì sao dính chữ "Quốc". Muốn trả lời câu hỏi đó, tất phải theo lịch sử. Sử nước ta đến đời Đường Nghêu mới có hai chữ "Việt thường", đời nhà Hán mới có hai chữ "Giao chỉ", đời nhà Đường mới có hai chữ "Yên Nam". Vậy từ đời nhà Đường Nghêu về trước, đã có gì nên nước đâu, núi rậm rừng hoang, đồng không mông hoạnh, bốn mặt chim kêu vượn hót, một vùng nước bạc đất vàng, xó này năm ba chú mọi, góc nọ sáu bảy anh Lào, kể bộ lạc cũng chưa nên gì, huống gì là nước? Vì ai gây dựng, vì ai mở mang, ai dọn đường, ai trổ lối ai xẻ núi, ai đốt rừng, bỗng chốc núi rậm hóa nên thôn cử đồng hoang gây nên thành thị? Đó chẳng phải ngìn vạn ức những người tổ tiên cao tằng ta làm nên ử Huống gì Quãng bình dĩ Nam Cao man dĩ Bắc, xưa vẫn có đất, mà đất gì của ta đâu? Vẫn có người mà người gì của nòi giống ta!

Nào Lâm Ấp, nào Chiêm Thành, nào Mên nào Lạp, nếu không dân ta xưa dắt đoàn kéo đội, từ Bắc vào Nam, chải gió gội mưa, trèo non vượt bể, khua nòi Chiêm, đuổi bầy Lạp, hốt mấy nghìn dặm non sông mà bỏ vào túi mình, thì cơ đồ gấm vóc như sau này, chúng ta làm sao trông thấy được?

Suy thấu lẽ ấy, mới biết rằng Quốc là Quốc của dân ta, dân là ông chủ tiên chiếm của Quốc ta. Xưa tôi làm quyễn "Hải ngoại huyết thư" mà ông Lê Đại dịch đã có câu rằng: "Nghìn muôn ức triệu người chung hiệp. "Gây dựng nên cơ nghiêp nước nhà. "Người dân ta, của dân ta "Dân là dân nước, nước là nước dân". Đọc mấy câu ấy thời nghĩa "Quốc dân" cũng đã rõ lắm.

Anh em thử nghĩ, trên dưới bốn nghìn năm, trong ngoài ba mươi vạn dặm, biết bao nhiêu giây máu hột mủ tuôn đổ ra cung cấp cho nước đó, có một giọt nào là không phải của dân ta đâu? Biết bao lũ trước đàn sau, dắt díu nhau kinh dinh cho nước đó, có người nào không phải dân ta đâu!

Vì vậy nếu không dân thì ai làm nên nước? Nếu không nước thời còn quý gì dân? Linh hồn nước là đâu! hẳn là dân đó! Khu xác dân ở đâu, hẳn là nước đó! Quốc tức dân, dân tức Quốc, hai chữ "Quốc dân" không thể rời nhau được. Nghĩa hai chữ "Quốc dân" là thế.

Chương thứ 2
Quốc dân với gia nô
Phan Bội Châu (1927)Mười thang thuốc chữa bệnh cho dân tộc Việt
01:54' CH - Thứ hai, 16/11/2015
Đau đớn thay! Thảm hại thay! Địa vị mình quốc dân mà chưa từng một ngày nào được chịu cái ơn giáo dục cho làm quốc dân; thân phận mình quốc dân mà chưa từng một ngày nào được hưỡng cái quyền lợi quốc dân.

Tục ngữ có câu: "Dân như trùn như dế" lại có câu thường nói: "Dân như gỗ tròn", điều đó suốt xưa nay, khắp Đông Tây không một dân nước nào như dân nước ta cã. Vì sao? Hay là trời cách chức quốc dân của nước mình rồi chăng? Hay là người nước mình không đang nổi cái chức quốc dân chăng? Hai lẽ tất có một. Đạo trời rất công, lòng trời rất nhân ái, người nước nào cũng là con trời cả, trời vẫn xem làm bình đẵng, trời có thương riêng gì dân nước Pháp, nước Anh, nước Mỹ, nước Nhật Bản? Có ghét riêng gì nước ta? Cái chức Quốc dân này, có lẽ nào trời cho ở họ mà cướp mất ở ta? Vậy thời cái chức làm Quốc dân vẫn là trời thưởng cho ta đó, nhưng tội tình thay! Trời vẫn ban cho ta mà ta không biết vâng chịu!

Xem lịch sử nước ta từ xưa đến nay hơn ba nghìn năm chỉ có gia nô mà không quốc dân thật. Quyền vua quá nặng, nặng không biết chừng nào; gia dĩ quyền quan lại hứng đở quyền vua mà tầng tầng áp chế, từ cửu phẩm kể lên đến nhất phẩm, chồng càng cao, ép càng nặng đến dân là vô phẩm, thân giá lại còn gì. Thằng này là con ngựa, thằng nọ là con trâu, buộc cương vào thì cắm cổ cứ đi, gác ách vào thì cúi đầu cứ lủi, gặp Đinh thời làm nô với Đinh, gặp Trần thời làm nô với Trần, gặp Lê Lý thời làm nô với Lê Lý, phận con hầu với thằng ở, được đôi miếng cơm thừa canh thải thời đã lấy làm hớn hở vinh quang, tối năm đứng đầu ruộng mới được bát cơm, suốt đêm ngồi trên bàn khung cửi, mới có tấm áo mặc, mà thoạt mở miệng ra thời chỉ nói rằng "cơm vua áo chúa", đồn điền nầy sông núi nọ, mồ hôi lẫn nước mắt mà cày cấy mở mang, nhưng mà "chân đạp đất vua", lại giữ chặt một câu hoạt kê vô lý. Than ôi! Cái tư tưởng gia nô! Bệnh gia truyền làm nô đó không biết tự bao giờ để lại cho chúng ta, bắt ta phải gông đầu khóa miệng, xiềng tay xích chưn, mà chịu gánh gia nô cho già đời mãn kiếp! Đau đớn thật! Thãm hại thật! Anh em ôi! "Dân vi quý" là câu nói của ông Mạnh Đại Hiền, "Dân vi ban bản" là câu nói của ông thánh Hạ Vũ hai người đó có phải nói lừa ta đâu? Ta ngu, ta ngẩn, ta hèn hạ quá chừng!

Mình ta sang trọng nhứt là cái quốc dân mà ta bỏ xó đi không nhắc tới, khăng khăng chỉ ôm lấy cái phẩm hàm gia nô làm vinh quý; Ôi! phẩm hàm làm gì anh em ôi! Nhà giàu phỉnh thằng ở thời vất cho một hai đồng tiền, nhà vua phỉnh đứa dân thời vất cho một hai trương giấỵ Nhưng nghĩ cho ra kỹ, thời một đồng tiền của nhà giàu phỉnh ta đó mà thân giá ta vẫn còn, đến như một trương giấy của nhà vua phỉnh ta đó, thời thân giá ta đã ô hô, ai tai rồi hẳn. Lại còn khi rủi gặp cơn dâu bể đổi đời, tờ giấy của nhà Đinh trải qua nhà Lý thời đã không đáng một xu, tờ giấy của nhà Lý trải qua nhà Lê hoặc nhà Trần thời cũng không ai ngó đến, huống gì vì một trương giấy đó mà quỳ mòn đầu gối, lạy lắm cả cằm râu, lại phải vất vô số máu me, ép vô số dầu mở cung cấp cho nhà ai mới hủ hỉ được một trương giấy đó, thời còn gì vinh quý nữa đâu! Gia nô! Gia nô! Cái oai kiếp đó, từ đây nên sám hối là phải.

Chương thứ 3
Quốc dân nên tự lập
Phan Bội Châu (1927)Mười thang thuốc chữa bệnh cho dân tộc Việt
03:22' CH - Thứ bảy, 08/02/2014
Ô hô gia nô! Ô hô gia nô! Tủi thân vai ngựa lưng lừa, một kiếp gia nô biết bao giờ là thôi? Câu hỏi đó là một câu hỏi rất thiết ở đời bây giờ. Tôi xin trả lời rằng: "Gia nô nay đã biết thân, thời lo gánh chức quốc dân mới là". Gia nô là thằng ở của một nhà, Quốc dân là ông chủ của một nuớc, một bên thì ty tiện rất mực, một bên thì cao quý rất mực, mắt còn chưa mù, miệng còn nói được thời chắc cũng muốn lấy phần cao quý mà bỏ phần ty tiện. Ham cao quý mà chê ty tiện là gốc tự tấm lòng lương tri của chúng tạ Người xưa có câu rằng: "Vương giã dĩ dân vi thiên", nghĩa là dầu ông vua cũng phải xem dân bằng trờị Vậy thời không gì cao quý hơn dân hẳn. Nhưng với cái chức Quốc dân đó, chúng ta đã ngu hèn dại dột, bị ai cướp bóc những tự bao giờ, nay muốn khôi phục lại cái chức quốc dân, chúng ta phải gấp lo thế nào mới được. Chức Quốc dân đó ta muốn khôi phục lại, có lẽ xin xõ với ai mà được rủ Xin với trời, thời trời vẫn cho ta tự bao giờ, không cần xin nữạ Sách Tây có câu: mình hãy tự giúp lấy mình, thời trời giúp cho (aide-toi, le ciel t’.aidra). Sách Đông Phương có câu:"Dân ta muốn điều gì, trời vẫn nghe theo điều ấy". Nếu đạo lý ấy mà thật, không cần gì xin ở trời.

Hay là xin ở người mà được rủ. Lòng beo dạ thú, mắt ó miệng hùm, người thế giới đời bây giờ không ai thương ta hẳn. Nếu một mai mà ta lấy chức quốc dân quốc dân ta lại, thời ách cổ trâu, cương đầu ngựa, tức khắc phải giải phóng cho ta ngaỵ Lòng tham dục họ lấy gì đầy. Tay hung tàn họ lấy gì sướng. Nào xe, nào ngựa, nào lầu, nào đài, nào vợ đẹp hầu non, nào của ngon vật lạ: những giống ép nặn máu mủ ta mà được đó, lấy gì như ý sở cầu? Ta một ngày thoát ngục gia nô thời nó một ngày đổ nền phú quý, nếu ta rày xin mai xỏ, lưỡi rát cổ khan, chúng nó có ân thưỡng cho ta chỉ qua "ngọn roi" và "ngòi bút", có đời nào mà chúng nó đem chức quốc dân cho ta đâụ Huống hố chức quốc dân là chúc sẵn trời ban cho ta, ta lấy lại thời còn, ta bỏ đi thời mất, không cần ai cho, mà ta cũng không cần gì xin ai cả.

Ôi quốc dân! Ôi! quốc dân! Cái chúc đó là chức rất cao quý của chúng ta, vẫn không ai cách được, mà cũng không ai cho được, chỉ cốt ở lòng ta cầu, vai ta gánh, tay ta đỡ, sức ta đua trí khôn ta tìm tòi, quyết lấy được mà thôi. Thiệt là: "Của ta, ta cậy gì ai Gánh ta ai có nghiêng vai đỡ cùng".

Vậy nên tôi nói rằng: Quốc dân nên tự lập.

Chương thứ 4
Bài thuốc tự lập có những vị gì?
Phan Bội Châu (1927)Mười thang thuốc chữa bệnh cho dân tộc Việt
09:29' SA - Thứ năm, 09/02/2012
Muốn cho quốc dân hay tự lập, trước hết phải biết tệ bệnh của quốc dân ta những điều gì. Có biết tệ bệnh quốc dân ta vậy sau chứng nào thuốc ấy mới bày ra phương tự lập được. Bây giờ tôi xin kể những tệ bệnh của quốc dân:
1. Tính ỷ lại

2. Lòng giả dối
3. Thói nhút nhát.
4. Tham lợi riêng.
5. Đua những việc hư danh vô vị
6. Không lòng thực yêu nước.
7. Không biết nghĩa hiệp quần.
8. Mê tín những tục hủ cổ.
9. Không biết đường kinh tế.
10. Không thương nòi giống.

Những bệnh đó muốn chữa cho lành, phải theo bệnh nguyên mà trị cho đến gốc. tôi xin kê bài thuốc như sau này:
1. Khí tự cường: nặng vô số ki-lô-gờ-ram (kg)

2. Lòng thành thực: mười phần già.
3. Gan quả quyết: hai lá thực lớn
4. Lòng công ích: một tấm rất dày
5. Vai thực nghiệp: một gánh càng nặng càng hay
6. Bụng nhiệt thành: mười phân luyện chín.
7. Giãi đồng tâm: một dây càng kiên thực càng tốt.
8. Trí thúc mới: 100 phân, trộn vào "hoa tự do" không kỳ nhiều ít.
9. Nội hóa: một vạn thức: kiêng ngoại hóa
10. Giống thân ái: hằng hà sa số, hột nào càng chắc càng hay

Hiệp cả bài như trên kia, tổng cộng 10 vị, bài thuốc đó là hiệp cả Đông Tây lại một lò, hòa cả tân, cựu làm một tể, dùng làm thuốc tự lập, chắc là không bài nào hơn. Anh em ta muốn biết cái ý dụng được, tôi xin kể vị thuốc nào chứng ấy như sau:
Chương thứ 5
Chữa chứng bệnh "tính ỷ lại"
Phan Bội Châu (1927)Mười thang thuốc chữa bệnh cho dân tộc Việt
09:16' CH - Thứ năm, 12/11/2015
Bệnh người nước ta, kể có 10 chứng, tôi đã nói như bài trên kia mà thăm xét cho ra chúng gì nặng thứ nhất thời có một chứng gọi rằng "ỷ lại tính".

Ỷ lại tính như thế nào? Tục ngữ có câu rằng "Tháp đổ có Ngô xây, việc gì vợ góa lo ngày lo đêm". Xem như câu ấy thực đáng nực cười! Tháp đó là tháp của ta, ta không xây được hay sao? Nghểnh đầu nghểnh cổ trông ngóng vào Ngô, nếu Ngô không xây thời vạn tuế thiên thu chắc không bao giờ có tháp. Kìa người vợ góa thấy tháp đổ mà lo ngày, lo đêm, vẫn là một người có tâm huyết, mà lại bị những món bàng quan kia mỉa mai chê trách, thế thời những người đứng xung quanh tháp đó, tháp đổ mặc tháp, khoanh tay đứng dòm, chém cha món này, nghiễm nhiên là một đống bồ nhìn rồi hẳn? Hỏi vì can cớ làm sao?

Thời chỉ ỷ lại mà thôi. Câu tục ngữ ấy thiệt vẽ đúng tâm tính của người nước ta. Hai mươi triệu người, ai nấy cũng mắt cũng tai, cũng tay chân mày mặt, nếu ai cũng lo gánh vác một phần trách nhiệm của mình thời có gánh gì không cất nổi?

Nhưng tội tình thay! Anh nào chị nào trong óc cũng chất đầy một khối ỷ lại: anh Cột trông mong vào chú Kèo, cô Hường trông mong vào thiếm Lục, lại chắc chắn có anh Cột cô Hường rồi. Rày lần mai lửa, tháng đợi năm chờ, kết cục không một người làm mà cũng không một người phụ trách nhiệm. Thế thời 25 triệu người, kỳ thực thời không người nào cả.

Chao ôi! Ma bệnh tính ỷ lại không xua đuổi cho sạch, còn mong có nòi giống ta nữa đâu! Bây giờ muốn chữa bệnh ỷ lại đó, tất cần phải dùng một vị rất quý trọng đem dùng chữa bệnh tính ỷ lại chắc kiến hiệu như thần. Tên vị thuốc này gọi rằng "khí tự cường". Khí tự cường đó không phải vay mượn của ai đâu: khi trời đất sinh ra ta thời phải phú dữ cho ta một vừng chính khí. Xưa thầy Mạnh Tử có câu nói rằng: "chí đại, chí cường", bốn chữ đó tức là khí tự cường của tạ Xương sắt, gan đồng ngang tàng 7 thước, đã mang tiếng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông. Ta chẳng phải là người hay sao? Cớ gì người mạnh mà ta hèn? Người vinh mà ta nhục? Người chủ nhân mà ta nô lệ? Ta chẳng oan uổng kiếp người lắm ru! Thôi cái tội tự bạo, tự khí, ta quyết rửa sạch cái vết nhơ này mới thôi.

Ỷ lại mà chi! Ỷ lại mà chi! Ta quyết tự cường cho chúng mày biết. Xin các anh em! Xin các chị em! Ai nấy cũng nhức nhối tinh thần, rán vai nong cánh, đồng một lòng, đều một sức, mình sắp lấy núi sông mình, tháp mình mình xây. Khí tự cường đã đầy đủ như thế, thời ma bệnh tính ỷ lại còn dám dùng dằng nữa đâu.

Vậy nên bài thuốc tự lập, vị thứ nhất phải dùng khí tự cường nặng vô số ki-lô-gờ-ram.

Chương thứ 6
Chữa bệnh "giả dối"
Phan Bội Châu (1927)Mười thang thuốc chữa bệnh cho dân tộc Việt
09:37' SA - Thứ năm, 11/09/2014
Bởi vì có tính ỷ lại mới nảy ra các chứng bệnh nữa: một chứng là hay giả dối. Xưa Đức Khổng Tử có câu: "Dân vô tín bất lập" nghĩa là người không có thành tín thời không có thể nào đứng nổi. Sách Tây có câu: "Tin thực là một cục vàng vô giá", nghĩa là người ở đời không có gì quí trọng hơn tin thực. Quái gở cho người nước ta thời lại đua nhau giả dối!

Tục ngữ có câu "Trăm voi không được bát nước xáo" lại có câu "Mười thóc không được một gạo". Xem đó mới biết tính chất người nước ta, chứng bệnh giả dối là một chứng rất nặng: Sĩ hay giả dối thời tìm tòi đạo lý, không cậy óc mình mà cậy tai; nông hay giả dối thời cày cấy ruộng trưa, không cậy mình mà cậy đất; công hay giả dối thời phấn sức lừa đời mà không cầu thực dụng; thương hay giả dối thời đua nhau bợm vặt mà mất cả lợi to. Thậm chí mướn đạo đức làm lối cầu danh mà chá vàng ở ngoài mặt; mướn nhân nghĩa làm mồi câu lợi mà xức mật ở đầu môi.

Chẳng những ngoài đối với xã hội, trên đối với quốc gia, gốc cây trăm năm đã bị con mọt giả dối kia đục đổ, bức thành muôn dặm đã bị con mọt giả dối kia xoi tan, mà lại trong đối với một nhà, dưới đối với một mình cũng mắc con ma bệnh giả dối đó đục thấu cao hoang, khoét vào cốt tủy. Tay dối lòng, miệng dối dạ, ăn bánh vẻ mà toan đầy bụng, mặc áo giấy mà đi với ma, kết quả không việc gì là thật. Bệnh giả dối đó mà không chừa, còn mong gì nước ta phú cường được? Xưa nay đất tốt mới vắt nên khuôn, đồng tốt mới vắt nên tượng, người tốt mới làm nên sự nghiệp lớn, mà lòng tin thực đó là chất rất tốt của con người. Lời tục ngữ có câu: "ngay thật mọi tật mọi khỏi".

Sự ngay thật đó là bộ xương sống của thân thể người; nếu người không có xương sống mà muốn tay chân đẹp đẽ mạnh mẽ, có lẽ nào được? Vậy nên muốn làm người tốt cần thứ nhất là lòng thành thực. Nói một tiếng tất thành thực, dầu ngoài muôn nghìn dặm, mà lời vàng ngọc không bao giờ phai; làm một việc tất thành thực, dầu trải mười trăm năm mà dạ sắc son không bao giờ dời đổi. Mình đã dốc một lòng thành thực như thế thời phẩm hạnh mình càng ngày càng chắc, thanh giá mình càng ngày càng cao, ngưòi ta tin dụng mình ngày càng nhiều, mà thế lực mình lớn thời có việc gì không làm nên. Vì vậy trong bài thuốc "tự lập" cốt ở chữa chứng bệnh giả dối, tất phải dùng vị thuốc này: "Lòng thành thực" mười phân già.

Chương thứ 7
Chữa chứng bệnh nhút nhát
Phan Bội Châu (1927)Mười thang thuốc chữa bệnh cho dân tộc Việt
06:22' CH - Thứ bảy, 11/02/2012
Bệnh giả dối đã chữa lành rồi, nhưng còn có một chứng bệnh nữa là thói nhút nhát. Chứng bệnh đó chữa không lành thời người mạnh hóa người hèn, người khôn hóa người dại, trăm việc gì ưu thắng nhượng cho người mà mình cam chịu về đường liệt bại; biết việc nên nói mà tiếng không dám hở môi, biết đường nên đi mà một bước không dám ra khỏi cửa, miệng hùm gan sứa, thiệt là những bọn anh hùng hào kiệt của nước ta, mà huống chi những kẻ thôn quê hèn hạ đó còn mong gì với chúng nó bàn việc to lớn được?

Xưa ông Hải quân đại tướng nước Anh là Nốt Nhỉ Tốn có nói: "Trong pho tự điển của người giỏi không bao giờ viết chữ khó." Người anh hùng nước Pháp là ông Nã Phá Luân có nói: "Kìa chữ khó đó chỉ thấy trong pho tự điển của người ngu mà thôi". Tục ngữ ta cũng có câu: "Có gan thời chọi với trời", lại có câu hát: "Đố ai lượm đá quăng trời, đan gàu tát bể, mới người khôn ngoan". Xem mấy câu nói đó thời thiên hạ có việc gì khó đâu? Mà thế thật. Ta có gan xuống vực thời thuồng luồng phải sợ ta; ta có gan vào rừng thời hùm beo phải kiêng ta.

Hùm beo với thuồng luồng chỉ bắt nạt được những người nhát gan mà thôị Bây giờ người ta chưa thấy bóng thuồng luồng mà đã rởn ốc, chưa nghe tiếng hùm beo mà đã rùng mình!
Ôi! nước ta là một nước thỏ hay sao? Rụt rụt rè rè, sợ đầu sợ đít, còn có gì là tư cách con người nữa ru? Bệnh nhút nhát còn đeo lấy một ngày, thời công việc tự lập tự cuờng không một ngày nào cất nổi, mà muốn chữa chứng bệnh đó, thời phải dùng vị thuốc này mới hay: vị thuốc gan quả quyết.

Xưa nay những người can đảm cũng phải luyện tập mới nên, mà khi đầu luyện tập thời phải có một tấm gan quả quyết. Toan vượt núi thời chớ thấy núi mà gớm cao; toan qua sông thời chớ thấy sông mà ghê sông rộng.

Bao nhiêu nguy hiểm, ta kể cho là sự rất thường; bao nhiêu khó khăn ta kể cho là sự rất dễ. Bước con đường muôn dặm phải cậy tấm gan quả quyết đó làm roi ngựa, máy xe, dầu chông gai mà quản gì. Đã có tay chân ta đó, nhứt chết nhì sống, còn mình thời việc ấy chắc phải xong, có sợ gì mà nhút nhát? Vậy nên trong bài thuốc "Tự lập", phải dùng một vị như sau: "Gan quả quyết" hai lá rất lớn.


Xin đọc tiếp Phần 2.

Không có nhận xét nào: