Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Hai, 11 tháng 2, 2019

VĂN HÓA VÀ PHÉP ỨNG XỬ VỚI VĂN HÓA THỜI HẬU CHIẾN - Hoàng Quốc Hải

clip_image002
Nhà văn Hoàng Quốc Hải và nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Diện vận quốc phục trong một cuộc mạn đàm đầu xuân Đinh Dậu về Văn hóa.
 
Hoàng Quốc Hải tiên sinh, tuổi Mậu Dần (1938), nhà tiểu thuyết lịch sử với hai bộ sách nổi tiếng BÃO TÁP TRIỀU TRẦN và TÁM TRIỀU VUA LÝ, tuy đã ở vào ngưỡng bát tuần nhưng sức viết của ông vẫn còn đầy nội lực. Là người có tâm với lịch sử dân tộc và có duyên với Phật, nên từ mấy chục năm nay, Hoàng Quốc Hải đã tìm hiểu đạo Thích Già một cách có hệ thống. Hai cuốn tiểu thuyết lịch sử trên chính là tập đại thành của những công trình nghiên cứu về quá trình phát sinh và phát triển, hưng thịnh và suy tàn của Phật giáo Việt Nam thời trung đại, trong đó có dòng Thiền Trúc Lâm. Ông cũng là nhà văn có nhiều bài viết sâu sắc bàn về nền văn hóa Việt thời hậu chiến mà một trong số đó là cuốn tạp văn KẺ SĨ TRƯỚC THỜI CUỘC.<!> 
Nhân dịp năm mới Kỷ Hợi, xin giới thiệu bài viết mới nhất VĂN HÓA VÀ PHÉP ỨNG XỬ VỚI VĂN HÓA THỜI HẬU CHIẾN của nhà văn quê Xứ Đông để bạn đọc thưởng lãm.
 
Cũng xin lưu ý, loại bài viết như thế này, bất cứ báo hoặc tạp chí "quốc doanh" nào cũng đều ngả mũ cúi chào nhưng không bao giờ dám đăng tải. Vạn bất đắc dĩ phải sử dụng thì cũng dùng kéo cắt cúp khiến nó trở thành một sản phẩm què quặt nhưng lại phù hợp với tâm thế và trình độ những nhà "kiểm dịch". . .
Đ. V. S.
 
VĂN HÓA VÀ PHÉP ỨNG XỬ VỚI VĂN HÓA THỜI HẬU CHIẾN
Hoàng Quốc Hải
 
Ba mươi năm chiến tranh – một cuộc chiến đằng đẵng dài nhất, và khốc liệt nhất trong lịch sử dân tộc hơn bốn ngàn năm. Chúng ta tập trung mọi nguồn lực để: “Tất cả cho tiền tuyến” – “Tất cả để chiến thắng”. Bởi vậy, các nhu cầu, dù là nhu cầu tối thiểu nhất của con người đều bị gác lại.
 
Cuối cùng, dân tộc ta đã chiến thắng các kẻ thù khổng lồ.
Nhưng đất nước xơ xác, điêu tàn, con người kiệt quệ.
 
Trong khi ta còn chưa kịp thở, chưa kịp hồi sức thì kẻ thù truyền kiếp, núi liền núi, sông liền sông lại áp đặt cho ta hai cuộc chiến tranh xâm lược nữa vô cùng khốc liệt và man rợ ở hai đầu đất nước. Tiếp đó là Mỹ và thế giới bao vây, cấm vận kinh tế.
 
Trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy, con người chỉ nghĩ đến việc làm thế nào để tồn tại. Vì vậy, khi có đường lối “đổi mới” và Mỹ bỏ bao vây, cấm vận, ta lao vào khôi phục và phát triển kinh tế hết tốc lực.
 
Điều đó đúng. Nhưng chưa đủ. 
Đúng, là cần phải giải quyết cấp tốc cái ăn, cái mặc. Nhưng chưa đủ là do ta chưa quan tâm đúng mức, và cũng chưa hình dung hết những vấn đề của con người sau hậu chiến. Đặc biệt chưa có một chiến lược văn hóa đúng tầm vóc của một quốc gia.
 
Bởi văn hóa có tác động chi phối đến mọi mặt đời sống và đạo đức của con người. Thông thường, chiến lược xây dựng và phát triển văn hóa phải đi trước phát triển kinh tế một bước. Vì rằng, xây dựng và phát triển văn hóa thực chất là xây dựng và phát triển con người – Một khi con người có văn hóa, có đạo đức sẽ không chệch hướng, dù đi trên bất cứ loại đường nào.
 
Nền văn hóa của một dân tộc được cấu thành bởi hai nhân tố: vật thể và phi vật thể.
Nền văn hóa truyền thống được bồi đắp qua nhiều đời, và nhờ nó dù có bị giặc Tầu đô hộ cả ngàn năm, giặc Tây đô hộ gần trăm năm, ta vẫn giữ được hồn cốt Việt. Đó là ngôn ngữ, phong tục, tập quán của riêng ta, không để kẻ thù cướp mất. Nhờ đó dân tộc ta tồn tại.
 
Suốt 30 năm chiến tranh và cả sau hòa bình, nền văn hóa mới hình thành chưa trọn vẹn, thì nền văn hóa cũ cứ lặng lẽ ra đi. Sự tiếp biến văn hóa tỏ ra lệch pha. Chúng ta vận hành, tức là cách ứng xử văn hóa của chúng ta không tuân theo quy luật. Quy luật của văn hóa là di phong dịch tục chứ không thể cưỡng chế. Bởi văn hóa có sức sống mãnh liệt và dai dẳng hơn cả luật pháp. Thể chế chính trị có thể thay đổi, nhưng văn hóa không nhất thiết phải cùng lúc đổi thay.
 
Nhà nước, dù là nhà nước phong kiến độc tài cũng không cưỡng chế nổi phong tục. Ví dụ việc vua Minh Mạng đã hai lần ban dụ rất nghiêm khắc, vào các năm Đinh Hợi (1827) và Đinh Dậu (1837) bắt phụ nữ Bắc Hà phải bỏ quần một ống (váy), vận quần hai ống. Lời dụ lần sau rất gay gắt:
“Ngày truớc từ Linh Giang (sông Gianh) trở ra Bắc dân vẫn mặc y phục như tục cũ. Đã ban dụ truyền sửa đổi theo y phục từ Quảng Bình trở vào miền trong để phong tục đồng nhất. Lại cho thời hạn rộng rãi khiến dân được thong thả may sắm quần áo. Từ năm Minh Mạng thứ 8 đến nay đã mười năm rồi, vẫn nghe nói dân chưa sửa đổi… Hạn trong năm nay phải nhất tề thay đổi, nếu đầu năm vẫn còn giữ theo y phục cũ sẽ trị tội”.
 
Lệnh vua ban 10 năm, dân không theo. Vua lại ban dụ hẹn trong năm, nếu không tuân phục sẽ trị tội. Thế nhưng dân Bắc Hà không những không theo, lại còn làm ca vè ca ngợi cái váy của ta là độc đáo:
“Cái thúng mà thủng hai đầu
Bên ta thì có bên Tàu thì không”
 
Hoặc có ý giễu cợt:
Tháng tám có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy (váy) người ta hãi hùng
Không đi thì chợ không đông
Đi thì phải lột quần chồng sao đang
 
Và nữa:
Có quần ra quán bán hàng
Không quần ra đứng đầu làng trông quan
(Nghĩa là canh gác xem quan có về khám váy không)
 
Đương nhiên, cho mãi đến năm 1945, đa số phụ nữ miền Bắc vẫn còn mặc váy. Nhưng từ kháng chiến chống Pháp (1946) tới sau này, tuyệt nhiên không có cuộc vận động nào, hoặc sự ngăn cấm nào đối với phụ nữ không được mặc váy; mà váy lại dần ít đi rồi tuyệt chủng.
Rõ ràng không một người quyền uy nào, dù là vua, hay một thể chế chính trị nào, ngay lập tức bãi bỏ được phong tục, mà nó tự vận động theo quy luật thích nghi và tự đào thải. Ấy thế mà chúng ta đã có những ứng xử không khôn ngoan với văn hóa. Đôi khi sa vào cực đoan.
 
Ví dụ, trước đây Cục Văn hóa quần chúng, (nay là Cục Văn hóa cơ sở, thuộc bộ Văn hóa) có hẳn một phòng gọi là “Phòng nếp sống mới”, tới năm 1980 thì đổi là “Phòng nếp sống xã hội chủ nghĩa”. 
Tôi quan sát thấy Phòng này chưa đề xuất được một chính sách hoặc một tập tục mới nào mang tính văn hóa, mà chỉ xây dựng những văn bản pháp quy nhằm cấm đoán hoặc bãi bỏ các tập tục cũ. Điển hình là năm 1982, Phòng này đã tham mưu cho Cục, từ đó Cục đề xuất với Bộ Văn hóa duyệt, rồi Bộ trình lên Thủ tướng để ra được Nghị định 214. Nội dung chủ yếu là cấm hội hè, tế lễ, tín ngưỡng, mê tín dị đoan. Ta hay lạm dụng từ “tín ngưỡng” để kèm cái đuôi “mê tín dị đoan” cho tiện bề cấm đoán.
 
Thật ra, đây là hai phạm trù khu biệt. Tín ngưỡng là lòng tin của con người đối với một tông giáo nào đó, một thần linh nào đó. Còn mê tín dị đoan là sự mù quáng chạy theo sự lừa mị tâm linh, bất chấp sự phân tích của lý trí. 
Tôi nhớ, để chuẩn bị cho Nghị định 214 ra đời, Cục Văn hóa quần chúng cử người đi điền dã, khảo sát các địa phương có nhiều lễ hội, và cũng là cái kho văn hóa dân gian truyền thống như: Hà Bắc , Hà Tây, Hà Nam Ninh vv…
 
Lại thấy, có buổi cán bộ Sở Văn hóa Hà Nam Ninh lên tận Cục Văn hóa quần chúng báo cáo:
Điện thờ Mẫu Liễu Hạnh ở Vụ Bản, địa phương đã cho người canh gác các ngả vào, không cho khách thập phương lui tới. Vậy mà đêm đêm vẫn có người lẻn vào nơi thờ tự cúng lễ”.
 
Còn Hà Nội thì báo cáo:
Chùa Hà, chúng tôi đã cho bốc bùn phủ kín mặt đường và rấp các lối vào chùa. Vậy mà vẫn có người vào được trong chùa lễ bái”.
 
Ở đây cho ta thấy một sự thật hiển nhiên: Tâm linh là nhu cầu tất yếu trong đời sống của một bộ phận (không nhỏ) người trong xã hội. Tiếc thay, ta đã bỏ qua không chịu nghiên cứu để có hướng dẫn cho công chúng. 
Trong khi đó tại các thành phố và các tỉnh, lại lập các đội kiểm tra quy tắc văn hóa, để sẵn sàng giải tán hoặc lập biên bản xử phạt nơi thờ tự nào dám cho người vào lễ bái, hoặc lăm le mở hội, hầu bóng, lên đồng. Đội kiểm tra quy tắc văn hóa tiêu biểu là Hà Nội còn cắt tóc và cắt quần ống loe, sau là ống tuýp (các thập niên 80 - 90 của thế kỷ trước, thanh niên có phong trào để tóc dài trùm gáy và mặc quần ống loe rộng). Đúng là ngành văn hóa đã làm việc giữ gìn văn hóa một cách ấu trĩ, thiếu cả văn hóa lẫn nhân văn.
 
Trước nữa, vào cuối thập niên 50 (thế kỷ 20) các thầy bói, thầy cúng, thầy phù thủy, các ông bà đồng và những người hành nghề mê tín, đều phải phá bỏ điện thờ tư nhân, bản thân phải giao nộp các sách hành nghề và các vật dụng hành nghề, phải học tập cải tạo, rồi sau đó chuyển sang các nghề lao động khác. Về phương diện in ấn và truyền bá các sách vở, tài liệu có liên quan đến thần bí, mê tín, dị đoan đều là phạm pháp. Tuyệt đối cấm xuất bản các loại sách này. Các loại đồ vàng mã cũng nằm trong danh mục cấm sản xuất và tiêu thụ. 
Như vậy, về mặt quản lý nhà nước, coi như ngành văn hóa đã quét sạch văn hóa tâm linh, trừng trị nghiêm khắc các hoạt động mê tín lén lút. Ngay hát nhạc vàng, có người cũng lãnh án tù gần chục năm. Về mặt quản lý nhà nước, coi đó như là một thành tựu đáng tự hào về triệt tiêu tàn dư của văn hóa quá khứ.
 
Sự thay đổi bắt đầu từ giai đoạn đổi mới. Đổi mới về chủ trương, kèm theo cơ chế, chính sách. Thế là mọi thứ đều bung ra từ kinh tế, văn hóa và luật pháp. Ta có thể ví tình hình xã hội lúc đó, tựa như một chiếc lò xo bị nén hết cỡ đã lâu ngày, nay rút then ngáng ra, nó bật tung lên với sức mạnh không gì kìm nén được. Bộ mặt xã hội hoàn toàn đổi khác.
Lương thực, phần căn cốt nhất đã dư thừa. Ngay năm đầu tiên đã xuất khẩu 1 triệu tấn gạo. Hàng hóa tràn ngập thị trường. Các loại tem phiếu cung cấp từ vải sợi đến lương thực, thực phẩm nhất loạt bãi bỏ. Nhà nhà đi buôn. Cơ quan, đoàn thể cũng đi buôn. Cả nước đi buôn. Buôn gì vậy? Đủ thứ, thượng vàng hạ cám.
 
Lễ hội bùng nổ. Ngay lễ hội cũng biến tướng thành một thứ hàng hóa kinh doanh. Chùa chiền xây cất tràn lan. Đúc chuông, tạc tượng thoải mái. Các điện thờ tư nhân không chỉ hồi sinh, mà còn phát triển tưng bừng. Tình trạng hầu bóng, lên đồng trước cấm ngặt, nay thả cửa. 
Nạn trùng tu các di tích lịch sử, thực chất là phá bỏ những gì tinh hoa cổ kính, khiến luật pháp không bao quát, khống chế kịp. Vậy là lại sa vào cực đoan. Trước thì quá tả, nay lại quá hữu. 
Nhiều ngôi chùa mới, có quy mô xây cất và bao chiếm diện tích từ vài chục đến vài trăm hec ta như Bái Đính, Ba Vàng… Tượng Phật mỗi pho đúc tới 50 tấn đồng, chuông đúc tới 60 tấn đồng…mà không hề có sự nhắc nhở, cảnh báo; trái lại còn được một số chức sắc trong Giáo hội Phật giáo đồng hành, chính quyền ngầm hậu thuẫn. Trong khi nông dân thiếu đất làm ruộng, nhiều vùng đồng bào còn thiếu đói, vẫn không thấy có sự chế tài nào của các cơ quan quản lý nhà nước. Nạn cướp đất và chống cướp đất giữa nông dân và các chủ dự án, diễn ra ngày càng quyết liệt, là một bài toán nan giải.
 
Quy mô các đạo tràng nổi tiếng nhất, to rộng nhất trong các thời đại nhà Lý, nhàTrần lấy đạo Phật làm quốc đạo như Vĩnh Nghiêm, Quỳnh Lâm, Yên Tử sao có thể sánh nổi với qui mô của một số chùa ngày nay. Ngay các tứ đại khí thuộc hàng bảo vật quốc gia thời Lý – Trần như chuông Quy Điền (chùa Diên Hựu); tháp Báo Thiên (ở Thăng Long); tượng Phật chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều –Hải Dương); vạc Phổ Minh (Thiên Trường) cũng thua xa các vật thể cùng loại thời nay. 
Ấy là so về quy mô hình thức, chứ nội hàm văn hóa các chùa, tượng mới xây cất to đùng bây giờ, đều là những vật xa lạ, kệch cỡm của mấy tay trọc phú khoe của hoặc rửa tiền. Bởi nó không có hàm lượng văn hóa và giá trị nghệ thuật, nên chẳng có gì để mà so sánh. Cũng vì các ngôi chùa đó vô hồn, do không hề thấy bóng dáng các bậc sư tăng đạo cao đức trọng vãng lai hoặc trú trì. Bởi nó không có chất thiêng, nhưng lại giàu tính tham-sân-si cùng sự dung tục.
 
Và rồi ngay cả những lĩnh vực trước kia nhà nước độc quyền như ngân hàng, trường học, bệnh viện, bưu chính viễn thông, nghề in và xuất bản v. v…Bây giờ không lĩnh vực nào là tư nhân không được phép. Thật ra, với một xã hội dân chủ cởi mở, thì người dân được phép làm bất cứ điều gì pháp luật không cấm, còn người của bộ máy công quyền, chỉ được làm điều gì luật pháp cho phép. 
Riêng lĩnh vực tâm linh tín ngưỡng, trước đây nghiêm cấm truyền bá và hành nghề. Nay các loại sách thần bí in thả cửa, các nhà làm sách khai thác triệt để, phổ cập tràn lan. Nên lớp lớp các thầy địa lý, thầy bói toán, thầy ma thuật, thầy tâm linh, thầy cúng dởm, mọc lên như nấm nhờ ba loại sách thần bí rẻ tiền mà nguồn gốc nó từ Trung Quốc tràn sang như một thứ dịch hạch. Xã hội dần đi vào loạn chuẩn. Vậy là khi ta cấm đã cực đoan, nay ta bỏ cấm cũng lại cực đoan.
 
Hãy bình tĩnh nhận diện xã hội xem còn mặt nào giữ được tính nghiêm minh và các giá trị đạo đức: Pháp Luật, Giáo Dục, Y Tế là ba ngành tiêu biểu nhất giữ cho xã hội phát triển thuần từ. Nhưng Pháp Luật thì quan tòa gợi ý chạy án cho phạm nhân, mặc cả ngay trong phòng xử án. 
Giáo Dục thì thầy bán điểm, đổi điểm lấy sex, hoặc môi giới bán dâm cho trò. Thầy ấu dâm với trò. Thầy trò đánh, giết nhau. 
Y Tế thì bác sĩ chỉ chăm vẽ bệnh dọa bệnh nhân để kiếm tiền, bệnh nhân và người nhà bệnh nhân thì đánh đập, sỉ nhục, thậm chí giết cả thầy thuốc. 
Tôn ti, hiếu thảo trong gia đình xuống cấp đến đau lòng. Anh chị em, cha con, mẹ con, ông bà cháu chắt, vợ chồng giết nhau vì đủ mọi thứ. Thậm chí súc vật tới mức, cha con loạn luân, ông cháu loạn luân. Chỉ nhắc lại sự việc đã đủ nhức nhối, và cảm thấy hổ thẹn. Tới lúc này thì mọi chuẩn mực xã hội dường như đều trên đà lao giốc.
 
Bộ máy an ninh là rường cột trật tự của một quốc gia, mà viên trung tướng, tổng cục trưởng tổng cục cảnh sát, đặc trách kỹ thuật chống tội phạm công nghệ cao, lại dựa vào chính công nghệ cao đó, bảo kê cho đường dây đánh bạc lớn nhất nước, thu hút tới 40 triệu tài khoản con bạc thì sự tha hóa lương tâm và đạo đức xã hội, đã ăn vào tới não tủy loại người này rồi. (Thật ra, với sự việc trên, không một người lương thiện nào dám nghĩ tới hoặc ngờ tới). Vậy còn nơi nào để công chúng đặt niềm tin? 
Đấy là nói về các ngành khác, còn ngành văn hóa thì sao? Có lẽ, không có ngoại lệ. Chỉ tính riêng mặt lễ hội thôi, nó đã tha hóa và xuống cấp tới mức nào.
 
Hãy xem tỉnh Nam Định đã bịa ra cái gọi là: “Lễ hội khai ấn” để kinh doanh ấn trên diện rộng. Quan sát quang cảnh ngày phát ấn thật rùng rợn: hàng rào sắt cơ động giăng mắc, và cả ngàn lính cảnh sát cơ động tham gia trực tiếp giữ trật tự. Biến lễ hội, là ngày vui của cộng đồng dân cư một cách thoải mái và tự giác, thành ngày hội có vũ trang. Nhưng đâu có giữ được trật tự, người ta bước trên vai nhau, trèo qua đầu nhau, nhảy cả vào chốn thờ tự nơi hậu cung cướp lễ, như một lũ quỷ đói. 
Nạn kinh doanh ấn dổm từ Nam Định, lan tỏa ra nhiều đền phủ của nhiều tỉnh thành khác, như một thứ dịch bệnh mấy năm qua, tuột khỏi sự quản lý và định hướng của ngành văn hóa v.v… và v.v… Có thể nói mọi tiêu cực trong xã hội tới lúc này, tựa như một con ngựa hoang, mà sự quản lý nhà nước còn đang rất loay hoay tìm giải pháp đóng hàm thiết và đặt yên cương thuần hóa nó.
 
Vì sao mọi ứng xử xã hội không còn một chuẩn mực văn hóa nào cả?
 
Và vì sao toàn xã hội ta phải hứng chịu sự xuống cấp về phẩm chất con người một cách thê thảm như vậy?
 
Và sau 30 năm chiến tranh với biết bao đau thương, mất mát, lẽ ra nhân dân có quyền được hưởng một cái gì đó, từa tựa như là cái mùi của hạnh phúc, để xoa dịu vết thương vẫn còn toang hoác máu mủ, ru rín cho nó kín miệng để cho nó dần lên da non. 
Thật là bất hạnh, bốn mươi lăm năm sau chiến tranh, dường như ta lại phải đương đầu với một cuộc chiến tranh khác. Đó là cuộc chiến về sự khủng hoảng lòng tin! 
 
Vì sao vậy???
 ·     Vì ta không lường trước được nhu cầu của con người xã hội thời hậu chiến.
·     Vì ta không chuẩn bị cho trạng thái tâm lý con người xã hội thời hậu chiến.
·     Vì ta không quan tâm đến nhu cầu tâm linh và khát vọng tâm linh của con người xã hội thời hậu chiến.
·     Vì ta không bù đắp được phần nào vật chất và tinh thần do con người đã mất mát, hao tổn trong chiến tranh và thua thiệt trong hòa bình.
·     Còn vì sự bất công xã hội ngày một leo thang, và hố sâu ngăn cách giàu nghèo như một vực thẳm. 
Các khái niệm như bình đẳng, tự do, dân chủ, công bằng xã hội dần biến mất trong đời sống người dân thường, và ngay cả với người còn sống sót sau cuộc chiến trở về. Xã hội trở thành loạn chuẩn.
 Đúng là ta quá say sưa với chiến thắng, mà ta quên mất thân phận cả cái xã hội đã làm nên chiến thắng. Ta đã không tính đến những va đập khủng khiếp từ chiến tranh đã gây dư chấn thần kinh, chấn thương tâm lý do chiến tranh tác động một cách dai dẳng qua nhiều thế hệ, cần phải được giải tỏa. Nhưng nó đã không được giải tỏa thỏa đáng. Thậm chí, một lễ cầu siêu theo truyền thống dân tộc sau chiến tranh cũng không được phép tổ chức. Dó đó xã hội mắc luôn hội chứng sang chấn tinh thần, trở nên rối loạn nhân cách văn hóa. Đạo đức không còn là chuẩn mực để đánh giá phẩm chất một con người. Đạo đức mất phương hướng, mặc sức cho suy đồi thao túng. Và bây giờ, toàn xã hội lãnh đủ.
 
Và còn vì cao ngạo nữa, nên ta không chịu ngoái nhìn quá khứ, không tham khảo các bài học lịch sử mà tổ tiên ta đã trải nghiệm bằng cả núi máu xương.
 Ví dụ, sau hai cuộc chiến tranh cực kỳ tàn bạo và khốc liệt của giặc Mông - Nguyên, vào các năm 1285 - 1288. Khi thấy nhà Nguyên tạm lắng mộng xâm lăng , và Nguyên Thánh tổ trực tiếp sai sứ sang Đại Việt tuyên cáo bãi binh vào năm 1293. Ngay sau đó, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con. Ngài đi khắp nước, kiểm tra sự thiệt hại của toàn dân sau hai cuộc chiến tranh, và quyết định tha tô thuế tùy theo mức độ giặc tàn phá. Nước còn nghèo, vì vừa thoát khỏi chiến tranh, nên nhà vua chỉ úy lạo và tha tô thuế nơi thì một phần, nơi thì toàn phần. Sau đó lập đại lễ cầu siêu cấp quốc gia tại Thăng Long, rồi lần lượt lập đàn cầu siêu tại các lộ. Đó là biện pháp an dân qua việc an tâm, và cũng là an ủi phần nào tâm trạng buồn đau, góp phần xoa dịu vết thương chiến tranh trong tâm thái thất vọng và bi phẫn của con người.
 
Tại sao đang ở trên đỉnh cao vinh quang chói lọi và quyền lực tót vời, lại chỉ mới 35 tuổi, vua Trần Nhân Tông không tận hưởng vinh quang, phú quý, không thi thố quyền lực mà lại nhường ngôi cho con? Và năm sau, năm 1294 ngài tuyên cáo xuất gia. 
Việc Trần Nhân Tông xuất gia, không phải Ngài thoát ly cuộc sống, chỉ ngồi đó ngắm nhìn mấy pho tượng Phật sáng chói nước sơn rồi khua chuông, gõ mõ, ê a mấy bổn kinh nhật tụng. Trái lại, Ngài đi khắp chốn cùng nơi khuyên dân chúng bỏ tục thờ tạp thần, tà thần, dâm thần mà nhất loạt thờ tổ tiên, thờ Phật và tu đạo. Tu đạo không phải bỏ nhà đi ở chùa mà là tu tâm, tu tại gia, làm thập thiện (10 điều thiện).
 
Thế là Ngài đích thân làm việc định lại cái tâm bất an của dân chúng, do hai cuộc chiến tranh khốc liệt liên tiếp gieo rắc thảm họa cho toàn dân tộc. Ngài cũng dạy cho dân phép tu và đem chính bản thân mình làm vật trực quan, tức là THÂN GIÁO! 
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên”
Cơ tắc xan hề khổn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
dịch:
Ở đời vui đạo cứ tùy duyên
Thấy đói thì ăn mệt ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Trước cảnh tâm không chớ hỏi thiền.
 
Ngài dạy dân phép tu đơn giản thế, ai mà chẳng tu được. Rồi năm sau (1295), Ngài lên núi Yên Tử tu khổ hạnh. Tu khổ hạnh là tu theo hạnh đầu đà. Luật tu này rất khắc nghiệt, phải ở dưới gốc cây, ở trong hang, ngủ ngồi không chăn chiếu, ăn ngày một bữa vào chính ngọ, quá giờ đó là tịnh khẩu (không được ăn gì nữa). Trước hàng ngàn tu sĩ trong đạo tràng, họ đều là đệ tử của ngài, Trần Nhân Tông không thể tu giả vờ được… 
Có một sự việc không thể không nhắc lại, tức là cuộc xâm lăng vô cùng khốc liệt của quân Nguyên-Mông năm 1285 khiến nhiều hoàng thân quốc thích và quan lại ra hàng giặc. Sau khi đã đuổi giặc ra khỏi bờ cõi, lúc trở về triều, một viên quan nội hầu bê từ đại bản doanh của Thoát-hoan về một chiếc cháp; trong đó chứa những thư xin hàng hoặc ước hàng của một số quan lại trong triều, mong nhà vua trị tội.
 
Trần Nhân Tông không đọc, Ngài sai đốt trước mặt mọi người và nói: Trong lúc thế giặc mạnh, đến ta còn hoang mang hãi sợ huống chi người khác. 
Chính vì lòng khoan dung, độ lượng, Ngài đã an được cái tâm cho những kẻ hèn nhát, để họ không còn dám manh tâm nữa. Quả vậy, ba năm sau(1288) quân Nguyên lại ầm ầm binh mã kéo sang xâm lược nước ta. Lần này, tuyệt nhiên không có một viên quan nào của triều đình ra hàng giặc, và quân xâm lược cũng mau chóng bị đánh bại.
 
Vì sau cuộc chiến tranh, nhà vua có những hành vi cao thượng như vậy, nên các quan dù công lao đến mấy (ngày nay ta gọi là đám công thần hoặc kiêu binh) cũng không dám tranh giành quyền lực, chia bè lập phái, đua đòi hưởng lạc, chèn ép bóc lột dân nghèo. Bởi vậy xã hội dần dần đi vào quĩ đạo của sự ổn định, và không phải mang thêm một hệ lụy nào.
Rõ ràng là Trần Nhân Tông đã ổn định được tâm linh và đạo đức xã hội, bằng cả sự tôn trọng, sự khoan dung và tình thương con người. Vì thế mà định được cái tâm cho toàn dân tộc theo truyền thống Diên Hồng. Một khi dân tộc đã định được cái tâm thì xã hội an lạc.
 
Ngay việc Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con, không phải là ngài trút đi gánh nặng, mà ngài trao sứ mệnh cho thế hệ sau, còn ngài làm chức năng giám sát. Ta chẳng thấy khi đã xuất gia, Ngài bất chợt về triều vào tiết Đoan ngọ, gặp khi Trần Anh Tông say rượu ngủ li bì, Ngài bực giận và suýt truất ngôi con. Lại một lần Nhân Tông ghé qua triều đình, kiểm tra sổ sách, thấy việc Anh Tông thu dụng nhiều người quá, Ngài quở: ”Một nước bé bằng bàn tay mà ban chầu nhiều thế này, ăn hết của dân à? ”
Cách cư xử của Thượng hoàng Trần Nhân Tông là cách cư xử của một bậc thượng trí, ở tầng nấc văn hóa thượng thừa. Một người chỉ biết lấy nhân quần và quốc gia dân tộc làm mục tiêu tối thượng để phụng sự.
 
Vua Trần Nhân Tông xuất gia và lập ra một dòng Thiền, không phải để Ngài giải thoát cho riêng mình, mà chính là Ngài tìm lối thoát cho cả dân tộc qua con đường tâm linh trí tuệ. Cuộc đời Ngài là một tấm gương muôn đời tỏa sáng. Sự nghiệp Ngài trường tồn cùng sông núi nước Nam.
 Tiếc thay, những điều Trần Nhân Tông đã làm, những người lãnh đạo đất nước sau chiến tranh không chịu noi theo, hoặc tham khảo để có kế sách hành động cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội thời hậu chiến. Có thể các vị không tính tới. Cũng có thể đã tính tới, nhưng không đủ tầm vóc vươn tới, không đủ bản lĩnh và nội lực để làm theo.
 Thật ra, đức phải lớn như Trời – Đất , mới làm được các việc bình thường như Trần Nhân Tông đã làm.
 
Do hậu quả của chiến tranh kéo dài, và cả những suy thoái thời hậu chiến không được khắc phục, khiến xã hội đi vào khủng hoảng tâm lý; sang chấn tâm linh. Và kết quả không ai mong muốn , là nhiều người bị rối loạn hành vi nhân cách, rối loạn hành vi đạo đức, chất lượng cuộc sống ngày một mong manh. 
Vậy nên, muốn ổn định xã hội, nhất định phải có giải pháp khắc phục trên bình diện quản lý nhà nước. Trước hết và trước nhất phải gia cố ba chân kiềng mang tính quyết định cho sự phát triển của một xã hội lành mạnh, đó là: Giáo Dục - Y Tế - Pháp Luật, bởi nó đang bị rung chấn mạnh; nếu không sớm khắc phục được, thì hậu quả thật khó lường.
 
Đây là một vấn đề lớn mang tầm vóc quốc gia; một vấn đề hệ trọng mang tính sống còn của cả một dân tộc, không một cá nhân nào đảm đương nổi. Tuy nhiên, một khi đã nhìn rõ toàn cảnh bức tranh xã hội, khắc tìm được giải pháp, nếu ta thực tâm phục thiện, thực lòng chấn hưng đất nước.
 
Hà nội, ngày 20 tháng 11 năm 2018

H. Q. H.

Không có nhận xét nào: