Tình hình chung: Mặt Trận B3 của bọn phỉ quân cộng sản bắc việt xâm lược dùng thế “đánh đồn đả viện” tấn công vào trại Pleime từ ngày19 đến 26 tháng10 năm 1965. Nhưng Quân Đoàn II VNCH đã đánh cho bọn phỉ quân bắc việt thảm bại nhục nhã tại cả 2 mặt “đánh đồn” và "đả viện" với sự trợ lực của Chiến Đoàn Ingram Mỹ gồm 1 tiểu đoàn pháo binh và 1 tiểu đoàn bộ binh.
Tình hình địch: Sau khi thất bại trong cuộc phục kích đoàn quân tiếp viện và tấn chiếm trại Pleime, 2 trung đoàn cộng phỉ bắc việt, 32 và 33, được lệnh rút lui về địa điểm xuất phát trước cuộc tấn công nằmtrong mật khu Chuprong-Iadrang.
<!>
Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3 cần thâu hồi các đơn vị đã bị tổn hại nặng nề để bảo toàn lực lượng trong khi chờ đợi sự tăng cường của trung đoàn 66 đang còn rong rủi trên đường mòn hồ chí minh, cũng phải mất từ vài ngày đến 1 tuần lễ mới tập trung đủ mặt tại mật khu Chuprong-Iadrang.
Con số thiệt hại của lũ phỉ quân bắc việt xâm lược sau ngày 27/10/1965 như sau: 211 chết, 115 chết do oanh kích, 6 bị bắt, 1 súng không giựt 57 ly, 2 súng lục, 2 bích kích pháo 81 ly, 12 đại liên, 3 trung liên, 9 liên thanh Browning, 37 tiểu liên, 22 súng trường, 8 carbines, 2 M79, 1 B40 chống chiến xa.
Sau khi củng cố và tân trang lại 6 tiểu đoàn của 2 trung đoàn 32 và 33 và với sự tăng cường của trung đoàn 66, thể nào bọn Mặt Trận B3 cũng tính đến chuyện phục hận ngoài quyết tâm thực hiện được mục tiêu tấn chiếm Pleiku theo kế hoạch của chiến dịch Đông Xuân 1965-1966.
Tình hình bạn:
Sau ngày 27 tháng 10 năm 1965, số tổn thất của các đơn vị bạn là:
Biệt Cách Dù: 15 chết, 20 bị thương. Lực Lượng Đặc Biệt: 1 chết.
Dân Sự Chiến Đấu: 21 chết, 21 bị thương, 6 mất tích.
Hoa Kỳ: 12 chết, 8 bị thương.
Thiết Kỵ: 37 chết, 27 bị thương, 4 mất tích.
Tiểu Đoàn 1/42: 32 chết, 72 bị thương, 2 mất tích.
Tiểu Đoàn 21 BĐQ: 35 chết, 5 bị thương.
Tiểu Đoàn 22 BĐQ: 12 bị thương. Pháo Binh: 4 chết, 2 bị thương, 6 mất tích.
Công Binh: 1 bị thương.
Tổng cộng: 111 chết, 190 bị thương, 18 mất tích.
Theo thường lệ trong quá khứ, sau khi giải tỏa được 1 trại tiền đồn bị vây lấn, Quân Đoàn II không có khả năng truy đuổi địch quân, phần vì không đủ quân số, phần vì không đủ phương tiện. Tuy nhiên lần này, nhân cơ hội có sự trợ lực của Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ, Quân Đoàn II có dịp may hiếm có phối hợp cùng sư đoàn này phát động 1 cuộc hành quân quy mô khai thác truy đuổi lũ phỉ quân cộng sản bắc việt xâm lược đến tận hang ổ mật khu Chuprong-Iadrang.
Thực Hiện:
Giai Đoạn I: Lùa các đơn vị địch quân.
Những ngày cuối tháng 10/1965, các Toán Bay Đại Bàng thuộc Sư Đoàn Không Kỵ tung vào chiến trường. Từ hoàng hôn tới xế chiều, chúng không ngừng bay trên vùng để tìm kiếm địch. Mọi nghi ngờ về sự hiện diện của địch được kiểm chứng và xử lý, hoặc bằng không kích hay bởi chính các Toán Bay Đại Bàng, hay bởi các lực lượng phản kích. Các chiến thuật này buộc địch di chuyển liên tục, phân tán mỏng để tránh bị phát giác.
Vào cuối ngày, theo tin tình báo, các đơn vị dẫn đầu của Trung Đoàn 33 tụ tập xong tới vùng tập trung tiền phương, làng Kro (ZA080030), trong khi tiểu đoàn bảo vệ đoạn hậu vừa mới đoạn tuyệt giao tranh tại trại DSCĐ Pleime.
Giai Đoạn II: Tiêu diệt bọn phỉ quân bắc việt.
Ngày 9/11, hướng di chuyển và xoay chuyển trọng tâm của các cuộc hành quân từ tây sang đông bắt đầu trong thế nghi binh chuẩn bị cho cuộc tấn công vào đội hình địch trong mật khu Chuprong-Iadrang.
Ngày 10/11, Lữ Đoàn 3 Mỹ thay thế Lữ Đoàn 1 Mỹ.
Theo tin tình báo, Bộ Tư Lệnh Mặt Trận Dã Chiến, sau khi thẩm định tình hình, đã đi tới một quyết định. Với các đơn vị Mỹ coi bộ rút lui về phía đông Pleime, quyết định là cố gắng lấy lại thế thượng phong với một cuộc tấn công. Lần này cũng lại là trại DSCĐ Pleime. Bộ tư lệnh sư đoàn VC ấn định ngày tấn công là ngày 16 tháng 11, và ra chỉ thị cho 3 trung đoàn của sư đoàn.
Trung Đoàn 32, lẽ đương nhiên, vẫn còn là 1 lực lượng chiếnđấu chặt chẽ, mặc dù hứng chịu tổn thất trong cuộc phục kích Lực Lượng Đặc Nhiệm Thiết Kỵ QLVNCH trên đường lộ tới Pleime.
Trung Đoàn 33, bị tổn thất nặng nề trong cuộc tấn công và sau đó rút lui khỏi Pleime, nhưng vẫn bị sung vào trận một lần nữa. Trong viễn tượng can dự vào chiến trận tương lai, cấp chỉ huy Trung Đoàn 33 bắt đầu tái tổ chức các tiểu đoàn bị hao mòn thành 1 đơn vị chiến đấu hỗn tạp.
Tuy nhiên, ngọn giáo sắc bén cho cuộc tấn công lần này là Trung Đoàn 66 mới xâm nhập, sung sức từ Bắc Việt và háo hức xông vào chiến trận. Trung Đoàn sẽ là nỗ lực chính trong cuộc tấn công lần thứ hai vào trại Pleime của 3 trung đoàn.
Ngày 11/11, vị trí 3 tiểu đoàn 7, 8 và 9 của Trung Đoàn 66 trải dọc mạn bắc bờ sông Ia Drang (trung tâm khối tại 9104).
Trung Đoàn 33 vẫn ở các vị trí quanh Làng Anta (YA940010).
Trung Đoàn 32 vẫn ở phía bắc sông Ia Drang (YA820070).
Để tăng sức quả đấm cho cuộc tấn công, Mặt Trận Dã Chiến cũng quyết định sung vào 1 tiểu đoàn bích kích pháo 120 ly và 1 tiểu đoàn súng phòng không 2 nòng 14.5 ly. 2 đơn vị này đang trên đường xâm nhập và dự tính tới kịp thời cho cuộc tấn công. 5 ngày kế tiếp sẽ là những ngày chuẩn bị và di chuyển quân cho cuộc tấn công.
Theo lời tuyên bố của 1 sĩ quan chính trị viên hàng binh, mục tiêu chính của cuộc tấn công mới là hủy diệt trại.
Ngày 12/11, theo tin tình báo, các đơn vị thuộc Mặt Trận Dã Chiến tiếp tục chuẩn bị và tập dượt cho cuộc tấn công dự tính trại Pleime.
Ngày 13/11, theo tin tìn báo, các lực lượng của Mặt Trận Dã Chiến bắt đầu tụ tập trong vùng Chu Prong-Ia Drang để chuẩn bị di chuyển tới Pleime và tấn công dự tính ngày 16/11. Một vài đơn vị trinh sát và vận chuyển đã lên đường.
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II VNCH, nhận định là nên đưa đơn vị không kỵ làm nút chận vào Chu Prong trước khi 2 tiểu đoàn súng phòng không và bích kích pháo có mặt tại chiến trường ngõ hầu tránh các trực thăng đổ quân bị súng phòng không đặt từ các sườn núi bắn hạ và các bộ binh bị đánh vùi dập trước khi lính địch quân xung phong. Ngày ấn định cho việc đổ quân này là ngày mai, 14 tháng 11.
Ngày 14/11, vào trưa, các trực thăng đổ quân và pháo binh của Sư Đoàn 1 Không Kỵ tới ngay cửa ngõ của rặng núi Chu Prông. Thay vì phát động một cuộc tiến công vào Pleime, Mặt Trận B3 buộc phải tranh đấu để bảo vệ hậu cứ của mình. Bãi đổ bộ mang tên LZ X-ray khoảng 25 cây số từ Trại Pleime, tại phía đông chân núi của rặng Chu Prông.
Địa thế bằng phẳng và gồm các bụi cây cao tới 100 foot, cỏ voi cao từ 1 đến 5 foot và các gò đống khác cùng khu vực cao tới 8 foot với bụi rậm và cỏ voi trên và xung quanh chúng. Dọc theo cạnh phía tây của bãi đổ bộ, các cây cối và cỏ dại thật là dày đặc và tiếp nối vào trong rừng già trên các chân đồi núi.
Sau 20 phút pháobinh bắn phá chuẩn bị, và 30 giây hỏa lực không quân, cuộc đổ bộ của tiểu đoàn 1/7 Không Kỵ bắt đầu. Tiểu Đoàn Trưởng, Trung Tá Harold G. Moore, thân chinh cùng đại đội xung kích - Đại Đội B - đổ bộ đúng 10 giờ 48 phút ngày 14 tháng 11 năm 1965.
Trong khi các trực thăng bay trở lại Pleime bốc đại đội A, đại đội trưởng đại đội B lo thiết lập an ninh của bãi đáp bằng cách ra lệnh 1 trung đội phái 1 tiểu đội của mình vào các khu vực khác nhau, 52 tới 100 thước ngoài bãi đổ quân để dò thám. Vào khoảng 11 giờ 20 1 tù binh bị bắt. Tên này khai là chỉ ăn chuối thay cơm trong 5 ngày qua và có 3 tiểu đoàn cộng phỉ trên núi.
Lúc 12 giờ 10, một số lượng phần tử của đại đội A đổ bộ xuống đủ, phận vụ lo an ninh được giao cho đại đội này và đại đội B được lệnh lùng kiếm phần dưới của khu vực núi đặc biệt nhắm vào ngón tay đưa xuống bãi đáp X-ray.
Khoảng 12 giờ 45, các phần tử tiên phong của đại đội B bắt đầu giao tranh trong một cuộc đọ súng với tầm mức tương đối nhẹ. Không bao lâu sau, vào khoảng 13 giờ 30, đại đội trưởng báo cáo là anh ta bị ít nhất 2 đại đội địch tấn công và trung đội 2B1/7 bên cánh phải sắp có thể bị bao vây và cắt đoạn khỏi phần còn lại của đại đội bởi 1 lực lượng đông đảo hơn. Cuộc đọ súng gia tăng cường độ. Đồng thời một ít hỏa lực pháo cối 60 và 81 ly bắt đầu rót xuống bãi đáp và vào đại đội B.
Không bao lâu, sau khi cuộc giao tranh bắt đầu, trung đội cuối cùng của đại đội A và các phần tử tiên phong của đại đội C đổ bộ xuống. Đại đội A liền được lệnh di chuyển sang bên cánh trái của đại đội B, để thiết lập tiếp cận với đại đội này, để bảo vệ cạnh sườn trái và để phái 1 trung đội đi tiếp cứu đại đội B bằng cách tới trung đội đang bị nguy khốn.
Đại đội C được lệnh chiếm 1 vị trí ngăn chận bên ngoài bãi đáp về phía nam và tây nam để tránh cho bãi đáp bị tràn ngập về hướng đó và để bảo vệ cạnh sườn trái của đại đội A. Hỏa lực không kích và pháo kích được lệnh bắn phá vào phần ven biên của chân núi và tiến dần lên núi và trên đường tiến quân của địch tới bãi đáp từ hướng tây và nam.
Nhưng địa thế không có nét rõ ràng làm tiêu chuẩn và các bụi rậm và cây cối đều trông giống nhau. Không khí bị khói và bụi vẩn đục.
Vì trung đội 2B1/7 bị tách rời khỏi ở phía trước của 2 đại đội A và B khiến cho hỏa lực yểm trợ cho 2 đại đội này bị chậm trễ. Tuy nhiên, bằng cách dùng kỹ thuật "dìu dắt" hỏa lực xuống núi từ hướng nam và tây, hỏa lực được đặt tại những nơi tạo một ít nâng đỡ cho 2 đại đội này.
Mặc dù cố gắng hết sức, đại đội B tăng phái chỉ có thể tiến tới cách trung đội bị cô lập khoảng 75 thước và không tiến lớn hơn được.
Đồng thời, đại đội A trừ cũng đụng độ nặng với 1 lực lượng lớn của ít nhất 1 đại đội địch đang tiến tới dọc theo một khe suối khô nước song song với ven phía tây của bãi đáp.
Ngay lập tức 1 cuộc chạm súng mãnh liệt phát nổ. Đại đội A bị tổn thất nhẹ và gây thiệt hại nặng cho địch. 1 tiểu đội ở vào 1 vị trí cho phép nhả hỏalực vào cạnh sườn của 1 toán từ 50 đến 70 lính cộng phỉ trong khi họ di chuyển ngang qua phía trước mặt.
Ngay khi cuộc giao tranh với đại đội A bùng nổ, các phần tử cuối cùng của đại đội C và các phần tử tiên phong của đại đội D đổ bộ xuống. Đại đội trưởng đại đội C ra lệnh cho các đơn vị vào vị trí dọc theo các phần tử khác đả đỗ bộ 5 phút trước, 1 lực lượng gồm 175-200 địch quân tiến tới bãi đáp và đâm đầu thẳng vào đại đội C.
Địch quân bị chận đứng và nhiều quân sĩ bị giết trên đường xông tới chiếm cứ bãi đáp. Cuộc giao tranh kéo dài khoảng 1 tiếng rưỡi cho đến khi địch bị bấn loạn và hao mòn buộc phải tháo lui dưới không kích và pháo kịch, lôi theo nhiều xác chết và quân sĩ bị thương.
Lúc 15 giờ, trong khi số còn lại của các phần tử tác chiến thuộc tiểu đoàn cuối cùng đổ bộ xuống, và hỏa lực địch thuyên giảm dưới sức phản công của 2 đại đội C và D,tiểu đoàn trưởng có thể nhanh chóng ra lệnh cần thiết để tái phối trí quân ngũ.
Sau đó, 2 cuộc tấn công được phát động để tiến tới trung đội 2B1/7 đang vị bao vây. Nhưng vấp phải một lực lượng địch đông đảo hơn đang từ các vị trí che kín tìm cách cắt đoạn các lực lượng tấn kích.
Khoảng 17 giờ 40, Trung Tá Moore quyết định kéo 2 đại đội A và B trở lui lại ven bãi đáp dưới hỏa lực yểm trợ bao che và thiết lập 1 chu vi phòng thủ qua đêm. Tiểu đoàn vẫn còn duy trì liên lạc tốt với các trung đội xung quanh và được bao che bởi một vòng đai pháo kích bắn tiếp cận bảo vệ. Khoảng 18 giờ, đại đội B thuộc tiểu đoàn 2/7 đổ bộ để tăng cường cho 1/7.
Ngày 15/11, vì bị tổn thất nặng vào buổi chiều, lũ phỉ quân bắc việt chỉ dám đánh dạm nhẹ xung quanh chu vi phòng thủ vào ban đêm. Còn trung đội bị cô lập hóa thì bị 3 đợt tấn công riêng rẽ nhưng nhờ vào hỏa lực pháo kích tiếp cận liên tục, khi trời sáng, rất nhiều xác những tên phỉ quân bắc việt nằm ngổn ngang xung quanh trung đội.
Nhưng khi mặt trời vừa ló dạng, lũ phỉ quân bắc việt tái xuất hiện và đồng loạt tấn công từ 3 phía: từ phía nam, tây nam và đông nam. Vào khoảng 7 giờ 30, phỉ quân đã di chuyển gần tới chu vi các hố chiến đấu mặc dù bị pháo binh, bích kích pháo và không kích tiếp cận gây tổn thất nặng nề. Có nhiều cuộc đánh xáp lá cà xảy ra.
Lúc 7giờ 55, tất cả các vị trí của trung đội được lệnh tung ra lựu đạn khói màu để xác định vị trí cho các quan sát viên trên trời vòng đai của chu vi phòng thủ và tất cả các hỏa lực yểm trợ tiến hết sức gần, vì hỏa lực của địch dày đặc khiến cho mọi di chuyển tới hay nội trong khu vực phòng thủ gây nên tổn thất cho quân lính của ta. Một số pháo kích của ta rơi vào bên trong chu vi phòng thủ và 2 quả bom napalm thả vào khu vực của đơn vị chỉ huy.
Vào khoảng 9 giờ 10, đại đội A thuộc tiểuđoàn 2/7đổ bộ xuống tăng cường. Khoảng 10 giờ 11, cuộc tấn công của địch bị đẩy lui, xác địch, tứ chi địch, vũ khí và quân cụ nằm ngổn ngang đầy ven bờ và phía trước chu vi phòng thủ. Có dấu chỉ cho thấy xác địch và thương binh địch được lôi kéo ra khỏi khu vực giao tranh.
Việc giải tỏa trung đội bị cô lập xảy ra vào buổi chiều và do tiểu đoàn 2/5 phái đi bởi Lữ Đoàn 3 thực hiện; đơn vị này đi bộ từ bãi đáp Victor, và tiến sát tới bãi đáp X-ray lúc 12giờ 05. Lũ phỉ quân bắc việt chỉ kháng cự nhẹ và ̣trung đội được giải cứu lúc 15 giờ 10. Đơn vị vẫn còn đạn dược, tinh thần còn tốt và chỉ bị 8 chết và 12 bị thương.
Chiều ngày 15 tháng 11, các phóng pháo cơ B-52 tham gia vào trận đánh với 18 phi vụ oanh tại rặng núi Chu Prông, phía tây bắc LZ Xray, nơi 2 Trung Đoàn 32 và 33 đang còn tập trung chuẩn bị lên đường hướng về trại Pleime lần thứ hai.
Ngày 16 tháng 11 năm 1965:
Đêm trải qua yên tĩnh đến 4 giờ khi 1 lực lượng gồm 250-300 phỉ quân bắc việt tấn công từ phía đông nam. Máy bay thả trái sáng được kêu đến và tiếp tục cho tới 5 giờ 45. Cuộc tấn công của lũ phỉ quân bắc việt bị dập tắt bởi hỏa lực của vũ khí nhẹ và pháo binh. Lúc 4 giờ 32, 1 cuộc tấn công khác bởi 200 tên phỉ quân bắc việt đến từ cùng hướng nhưng pháo binh ta đã gây cho lũ cộng phỉ những tổn thất nặng nề khiến chúng phải kinh hoàng tháo chạy.
Khoảng 5 giờ, sức nặng của cuộc tấn công của phỉ quân bắc việt chuyển nhiều hơn qua phía tây nam nhưng bị dập tắt nửa giờ sau. Lúc 6 giờ 27, 1 cuộc tấn công khác nhắm thẳng vào bộ chỉ huy. Lúc 6 giờ 41, địch bị đánh đuổi và lôi kéo xác chết theo dưới hỏa lực.
Một công cuộc tìm và càn quét được thực hiện lúc 8 giờ 10 bởi tất cả các đơn vị trong phạm vi phòng thủ. Xác chết những tên phỉ quân bắc việt xâm lược nằm la liệt khắp cùng khu vực và quân ta thu lượm được vô số vũ khí của lũ phỉ quân.
Toàn bộ trận đánh kéo dài liên tục trong 48 tiếng đồng hồ vàđịch tổn thất tại X-ray gần một phần ba tổng số mất mát trong suốt tất cả 3 đợt:
- Chết trận (đếm được xác): 834
- Chết trận (ước tính): 1215
- Bị bắt: 6
- Vũ khí bị tịch thu: 141
- Vũ khí bị phá hủy: 100
Còn tiểu đoàn 1/7 thì 79 quân sĩ bị giết và 125 bị thương.
Tiểu đoàn 1/7 rời khỏi LZ X-ray vào lúc 10 giờ 40 ngày 16 tháng 11 và được thay thế bởi tiểu đoàn 2/7 và tiểu đoàn 2/5.
Trong ngày hôm nay, 16 tháng 11, 2 Trung Đoàn 32 và 33 phỉ quân bắc việt tiếp tục bị bom B-52 làm thịt ở phía tây bắc LZ Xray trong 20 phi vụ. Từng khu vực một, mỗi khu 20 dặm vuông - tuần tự trải qua một cơn động đất từ Tây sang Đông.
Các công sự và hầm hố trước nay từng chống cản các vụ đánh phá của phi cơ tác chiến và pháo binh bắt đầu bị các trái bom 750 cân anh trực tiếp đánh rạp. Lớp cây lá rừng rậm không còn hữu hiệu cho công việc ẩn núp lẫn bao che.
Ngày 17/11, 2 Tiểu Đoàn 2/7 và 2/5 Không Kỵ được lệnh rút ra khỏi LZ Xray; 2/5 đi về hướng tây bắc tới LZ Columbus và 2/7 đi về hướng bắc tới LZ Albany. Việc di chuyển cũng dựa trên ước tính là địch đã rút lui về hướng đó. Vào buổi chiều ngày hôm trước, 1 trực thăng đã bị bắn rớt trên vùng đó, sự di chuyển của địch cũng nhắm tấn công vị trí pháo binh nằm phía đông bãi đáp Xray, đã từng yểm trợ hữu hiệu cho tiểu đoàn 1/7 trong 2 ngày chót.
Ngay sau khi 2 tiểu đoàn này tránh ra xa khoảng an toàn 3 cây số, tức thì bom B-52 được trút xuống ngay tại LZ Xray tiêu diệt các toán quân địch của Trung Đoàn 66 còn trì hoãn tại bãi đắp.
Trong khi đó, Tiểu Đoàn 2/7 rơi vào một ổ phục kích Việt Cộng thiết lập bởi 1 đơn vị địch cỡ tiểu đoàn, khi tiểu đoàn gần tới các mục tiêu. Nhưng một lần nữa, Việt Cộng lại trở thành những mục tiêu cho không kích và pháo kích: chết trận (đếm được xác): 403; chết trận (ước tính): 100; vũ khí bị tịch thu: 112.
Tin tình báo ước tính số lính địch chết do bởi bom B-52 trong 3 ngày khoảng trên dưới 2.000 người.
Giai đoạn III: Tiêu diệt tàn quân cộng phỉ còn sống sót.
Ước tính tình báo về khả năng của bọn cộng phỉ, thực hiện vào ngày 17 tháng 11 chỉ cho thấy là gần 2/3 lực lượng của bọn chúng đã bị tiêu hao trong những trận giao tranh ở Đợt I và Đợt II.
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II nghĩ là đến lúc tung lực lượng trừ bị vào để chấm dứt trận chiến đã kéo dài khoảng một tháng và quyết định nới rộng cuộc hành quân với giai đoạn III. Ngoài bị tổn thất nặng nề, lũ phỉ quân cộng sản bắc việt xâm lược buộc phải sa vào bẫy các lực lượng của VNCH giăng ra và xô đẩy vào các lộ trình rút lui mà chúng ta dự kiến.
Lần này nỗ lực chính được thực hiện bởi Lữ Đoàn Nhảy Dù QLVNCH với sứ mạng triệt hủy các đơn vị phỉ quân cộng sản đào tẩu và tất cả các cơ sở xung quanh thung lũng Ia Drang. Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ trước nay gánh chịu tấn công sẽ tiếp tục tạo áp lực từ Đông sang Tây với Lữ Đoàn 2 Không Kỵ và cung ứng pháo yểm cho Lữ Đoàn Nhảy Dù từ căn cứ pháo binh đặt tại LZ Crooks.
Cuộc hành quân mang tên "Thần Phong 7" khởi động chiều ngày 18 tháng 11 khi lữ đoàn đươc trực thăng vận tới vùng hành quân, ngay sau khi tới Pleiku.
Ngày 18/11, từ 15 giờ đến 18 giờ, Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 1 cùng với Tiểu Đoàn 3, 5 và 6 ND được trực thăng vận đến thung lũng Ia Drang. Từ địa điểm tập trung này, Tiểu Đoàn 3 ND tiến bước về hướng Tây; không mấy chốc,tiểu đoàn này bị 1 tiểu đoàn địch âm thầm bám sát theo. Trong khi đó, Tiểu Đoàn 6 ND cũng được phái đi về hướng tây, song song với đường đạo của Tiểu Đoàn 3 ND, nhưng xuống về hướng nam một tí.
Trong ngày, B-52 tiếp tục thả bom trải thảm khu vực Chu Prong.
Ngày 19/11, vào lúc 11G,Tiểu Đoàn 3 ND được lệnh bắt nối với Tiểu Đoàn 6 ND.
Trong ngày, B-52 tiếp tục thả bom trải thảm khu vực Chu Prong.
Ngày 20/11, vào lúc 14 giờ 40, Tiểu Đoàn 3 và 6 ND thành công phục kích tiểu đoàn phỉ quân bắc việt tại địa điểm 2 Tiểu Đoàn 3 và 6 kết tụ lại. Gần 200 tên phỉ quân cộng sản bắc việt bị tiêu diệt trong cuộc giao tranh này.
Cùng ngày, vào lúc 17 giờ 45, Tiểu Đoàn 8 được thả vào Thung Lũng Ia Drang.
Trong ngày, B-52 tiếp tục thả bom trải thảm khu vực Chu Prong. Tổng cộng trong 5 ngày, từ ngày 16, B-52 thực hiện 96 phi vụ thả bom trải thảm.
Ngày 22/11, vào lúc 11 giờ, Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 2 và Tiểu Đoàn 7 ND được thả xuống cùng địa điểm.
Cùng ngày, vào lúc 13 giờ 30, Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 1, Tiểu Đoàn 3, 5 và 6 ND giao kết với các đơn vị mới tới. Từ địa điểm tập trung này, các đơn vị leo núi nhắng lên đỉnh núi.
Ngày 23/11, vào lúc 11giờ 15, các tiểu đoàn lên đến đỉnh núi đóng quân.
Ngày 24/11, tiểu Đoàn 3 được phái về phía trái và đụng độ địch quân vào lúc 8 giờ 45; Tiểu Đoàn 5 được phái về phía phải và đụng độ địch quân vào lúc 10 giờ 50. Tiểu Đoàn 7 và 8 xông xuống núi và địch quân bị đóng hộp với lưng áp vào sông Ia Drang.
Ngày 24 tháng 11, vì không còn đụng độ với địch, Lữ Đoàn Nhảy Dù rút ra khỏi vùng hành quân, chấm dứt đợt 3 của Trận Pleime với 265 tên phỉ quân cộng sản bắc việt chết (đếm xác), 10 tên bị bắt và 58 vũ khí tịch thâu. Ngoài ra, trong khi lùng kiếm các cơ sở địch trong vùng hành quân, Lữ Đoàn Nhảy Dù phá hủy 3 trung tâm huấn luyện, 1 kho giấu quân cụ và 75 nhà.
Kết Luận:
Chiến dịch Pleime với 3 trận đánh chính tại Pleime, Chu Prong và Ia Drang là một cuộc đọ sức lớn lao cho cả 3 quân đội, QLVNCH, QĐ HK và lũ phỉ quân bắc việt xâm lược với mọi phía tung vào các lực lượng cấp trung đoàn và sư đoàn và dưới sự điều động của các bộ tư lệnh cấp sư đoàn (Quân Đoàn II, Sư Đoàn 1 Không Kỵ và Mặt Trận B3).
Phía bọn phỉ quân cộng sản bắc việt đã thảm bại nhục nhã và hứng chịu những tổn thất nặng nề nhất với khoảng 6 ngàn tên phỉ quân bắc việt xâm lược đền tội, trong khi phía Mỹ tử trận khoảng 350 lính và phía VNCH có khoảng 250 binh sĩ tử trận.
So với mặt trận Điện Biên Phủ, mặt trận Pleime đem lại nhiều hứng thú về mặt quân sự hơn. Một đàng chỉ có duy nhất một chiến thuật vây lấn và phòng thủ được đem ra xử dụng tại 1 địa điểm cố định trong một lòng chảo bao quanh bởi đồi núi; một đàng tạo điều kiện đem ra xử dụng nhiều chiến thuật: bao bọc, chống phục kích, giải tỏa, truy đuổi, phục kích, khai thác, tấn công và tiêu diệt luân lưu di động trong phạm vị trải rộng từ trại Pleime đến mật khu Chuprong-Iadrang với một diện tích có chiều kích 40 cây số x 50 cây số.
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, với sự tăng phái của Sư Đoàn 1 Không Kỵ đã nắm phần thắng trong trận chiến Pleime-Chuprong-Iadrang nhờ vào một guồng máy tình báo tinh vi bao gồm các đài kiểm báo nghe ngóng làn sóng truyền tin giữa các bản doanh chỉ huy Bộ Tư Lệnh B3 và các trung đoàn, các lời khai của các tù binh và hàng binh, các tài liệu tịch thu tại trạm xá Trung Đoàn 33 (tiêu lệnh hành quân, bản đồ ghi các trạm tiếp liệu, các đường mòn chuyển quân, v.v), các báo cáo của các toán trinh sát biệt cách dù len lỏi trong lòng địch.
Một điểm đặc biệt liên quan đến các bản truyền tin (báo cáo, thông tin, vv.) qua lại bằng tiếng Quan Thoại giữa các cố vấn Tàu cấp trung đoàn (hàng binh khai là mỗi Trung Đoàn 32, 33 và 66 đều có 1 cố vấn Tàu), cấp sư đoàn tại bản doanh Mặt Trận B3, và Ban Tham Mưu Trung Ương Tàu nằm bên lãnh thổ Cam Bốt, hoặc tại trung tâm tiếp vận Stung Streng, phi trường Bu Kheo ngay cuối QL 19 nối dài, hay tại Phnom Penh.
Các tên cố vấn Tàu hoặc ỷ y, hoặc sơ ý ngang nhiên thảo luận với nhau bằng bạch thoại, ngỡ là phía đối phương không sẵn có kiểm báo viên biết tiếng QuanThoại. Họ đâu ngờ Đại Tá Hiếu, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, sinh trưởng bên Tàu, tại Thiên Tân và Thượng Hải, đến năm 20 tuổi mới về Việt Nam! Nhờ vậy mà Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II biết rõ từng đường đi nước bước của các đơn vị phỉ quân bắc việt, khiến cho lũ cấp cán bộ trung đoàn họp bàn kiểm thảo và đi đến kết luận là có gián điệp nằm trong hàng ngũ bọn chúng và chúng bắt đầu nghi kỵ lẫn nhau.
Nhờ vào các nguồn tin tình báo, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đã chấm điểm cách chính xác các vị trí di động của các bản doanh trung đoàn trong suốt giai đoạn II lùa địch quân (ngày 27/10, Trung Đoàn 33 đến làng Kro; ngày 28/10, Trung Đoàn 32 tới sát các căn cứ hậu cần tại mạn bắc của Ia Drang; ngày 29/10, Trung Đoàn 33 nhắm đi tới làng Anta tại YA940010, nằm tại chân rặng núi Chu Prong; ngày 1/11, bản doanh trung đoàn đã tới căn cứ tại làng Anta; ngày 2/11, khoảng 4 giờ Ban Chỉ Huy trung đoàn 33 tới Đồi 732 (YA885106).
Cũng trong ngày 2/11, Bộ Tư Lệnh B3 nhận được tin Trung đoàn 66 bắt đầu di chuyển vào các vùng tập trung trong vùng Chu Prong-Ia Drang; ngày 4/11, Trung Đoàn 33 được lệnh ra khỏi căn cứ tại Đồi 732 là nơi ra vào bất tiện, và đi tới các sườn núi phía tây của Chu Prong gần YA922010 với các tiểu đoàn của trung đoàn khi những tiểu đoàn này tập trung xong thì di chuyển vị trí tới Đồi 732 xuống tới làng Anta (940010) cho tới mạn bắc bờ sông Ia Meur (980000); ngày 05/11, Trung Đoàn 66 tiếp tục qui tụ vào các vùng tập trung trong mật khu Chu Prong và Trung Đoàn 33 chờ đợi cho các lực lượng phân tán qui tụ về đơn vị mẹ, Trung Đoàn 32 và Bộ Tư Lệnh B3, trong khi đó, án binh tại phía bắc Ia Drang và gần bên biên giới Cam Bốt; ngày 8/11 Trung Đoàn 33 thu thập xong các đơn vị cơ hữu cuối cùng và bắt đầu đếm đầu người.
Trong khi đó, tại bản doanh Bộ Tư Lệnh B3 phía bắc Ia Drang, ngày hôm nay là ngày kiểm điểm phân tích; ngày 11/11, vị trí 3 tiểu đoàn 7, 8 và 9 của Trung Đoàn 66 trải dọc mạn bắc bờ sông Ia Drang (trung tâm khối tại 9104), Trung Đoàn 33 vẫn ở các vị trí quanh Làng Anta (YA940010), Trung Đoàn 32 vẫn ở phía bắc sông Ia Drang (YA820070) và Bộ Tư Lệnh trù tính tấn công trại Pleime lần thứ hai vào ngày 16/11; ngày 12/11, các đơn vị tiếp tục chuẩn bị và tập dượt cho cuộc tấn công dự tính trại Pleime; ngày 13/11, các lực lượng bắt đầu tụ tập trong vùng Chu Prong-Ia Drang để chuẩn bị di chuyển tới Pleime và tấn công dự tính ngày 16/11, một vài đơn vị trinh sát và vận chuyển đã lên đường).
Ngoài ra, nhờ vào các tin tình báo chính xác, ngày 17 tháng 11 năm 1965, Bộ Tư Lệnh ước tính được là vào thời điểm này địch quân đã thiệt hại đến 2/3 lực lượng, nghĩa là còn sốt sót khoảng 3 tiểu đoàn, và đi đến kết luận có thể tung vào Lữ Đoàn Dù gồm 5 tiểu đoàn vào mật khu Chuprong-Iadrang để có thể thanh toán nốt tàn quân địch. Quả thật, Lữ Đoàn Dù chỉ gặp 2 Tiểu Đoàn 635 và 334.
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II phỗng tay trên Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3 vì đã chẩn đoán chính xác các chiến thuật địch đem ra áp dụng và đã khéo léo hóa giải các chiến thuật đó. Đối với chiến thuật Nhất Điểm Lưỡng Diện nhắm đánh chiếm thành phố Pleiku với 2 thế nghi binh, một chính tại Pleime và hai phụ tại Hoài Ân nhằm phân tán lực lượng, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II phân phối lực lượng cân xứng đầy đủ khả dĩ đánh bại và chận đứng địch tại cả 3 mặt trận.
Đối với chiến thuật đánh điểm diệt viện, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II nhận định được đâu là điểm và đâu là diện để phản công cách thích ứng; đồng thời đã dành một bất ngờ cho địch quân là đem được đội pháo bằng trực thăng khổng lồ đến gần địa điểm phục kích để có thể xử dụng thế tiền pháo hậu xe.
Ngoài ra, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II cũng đoán được địch quân lần này không dùng chiến thuật phục kích tĩnh động như từ trước tới giờ, mà dùng chiến thuật phục kích vận động chiến, để tránh các quân phục kích bị oanh tạc trước khi đoàn quân tiếp viện xuất hiện và đã dùng thế hoãn binh để lừa địch tới địa điểm phục kích trước đoàn quân tiếp viện. Đối với chiến thuật nắm thắt lưng địch mà đánh, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đã cho B-52 đánh vùi dập địch quân khi các đơn vị bạn cách xa các nơi thả bom trên 3 cây số.
Ngược lại, Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3 thua kém BộTư Lệnh Quân Đoàn II vì liên tục bị mắc lừa bởi các thế nghi binh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II giăng ra.
Ngoài thế nghi binh chống phục kích vận động chiến nêu trên, còn phải kể thêm thế nghi binh chuyển hướng hành quân từ tây sang đông của Lữ Đoàn 3 Không Kỵ như thể đánh mất tung tích địch, thế nghi binh dùng Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ xung kích nhảy xuống LZ Xray giả vờ tấn công phía đông nam, để rồi tấn công thật sự bằng trải thảm bom B52 phía tây bắc.
Ngoài ra, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đã chọn ngày 14//11 để tung Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ vào Chu Prong khi địch quân không có tiểu đoàn súng phòng không để triệt hạ các trực thăng đổ quân và tiểu đoàn bích kích pháo để yểm trợ cho bộ binh khiến cho các cuộc xung phong phản công bị suy yếu và khiến cán bộ buộc phải chịu thí quân mà dùng đến chiến thuật biển người.
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II thường xuyên làm chủ chiến trường vì nắm ưu thế phương tiện di động. Bộ Tư Lệnh B3 cần đến 3 tháng để chuyển quân từ ngoài Bắc vào đến chiến trường Pleime, khiến cho Trung Đoàn 66 không có mặt khi cuộc tấn công trại Pleime được khởi động, và khiến cho bộ binh không được hai tiểu đoàn súng phòng không và bích kích pháo yểm trợ khi Lữ Đoàn 3 Không Kỵ khởi động tấn công vào Chu Prong.
Trong khi đó, nhờ vào số lượng dồi dào về mặt trực thăng, về phía Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, “việc di chuyển của 3000 quân lính trên một khoảng cách 160 cây số chỉ cần có 59 phút” (Why Pleime, chương V), và việc nhanh chóng thiết lập các căn cứ hỏa pháo yểm trợ mọi cuộc hành quân tại bất cứ đâu.
Khái niệm dùng phóng pháo cơ B-52 làm nỗ lực chính và lính bộ binh không kỵ làm nỗ lực phụ – nghĩa là đơn vị bộ chiến yểm trợ cho đơn vị không chiến - là một nét son hết sức độc đáo không mấy ai nghĩ tới; chẳng vậy mà ngay cả Tướng Kinnard cũng lầm khi ông nhận định trong bản báo cáo Chiến Dịch Pleiku, trang 93, ngày 17/11:
Lần đầu tiên trong cuộc xung đột tại Việt Nam, oanh tạc Không Lực Chiến Thuật được đem ra xử dụng để trực tiếp yểm trợ cho cuộc điều quân bộ chiến.Các cuộc oanh tạc trong 2 ngày qua có tính cách yểm trợ, nhưng ngày hôm nay, các lực lượng bộ chiến sẽ di chuyển để nhường chỗ cho cuộc oanh tạc sắp xảy đến.
Nhận xét sai lầm này của Tướng Kinnard chứng tỏ cho thấy là khái niệm hành quân phản công Pleime vào Chuprong-Iadrang phát xuất từ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II chứ không từ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Kỵ.
Nguyễn Văn Tín
(căn cứ vào Why Pleime của Đại Tá Hiếu và Pleiku Campaign của Tướng Kinnard)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét