Tác Giả: Colonel John B. Haseman
(Trích trong Vietnam
magazine October 1992)
Chuyển Dịch:
Yvonne Mộng Thu Nguyễn
Đại
Tá Nguyễn Văn Cư, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, đối với tất cả những người biết
ông đều cho rằng ông là người có cá tính mạnh mẽ. Người Việt Nam xem ông là một
tướng lãnh oai hùng dũng cảm đối với đồng đội chiến hữu nhưng
lại là đối thủ không dung với kẻ địch. Cố Vấn Mỹ không thể lường được những chiến
thuật bất ngờ dường như luôn đạt được hiệu quả, và họ cũng khó lòng di dịch hoặc
thay đổi những quyết định đột kích đánh phá địch táo bạo quá nguy hiểm của ông.
Ông là một người trung trực, ngay thẳng dám nói ra ý tưởng của mình, và dám
tranh cãi những khác biệt với cấp trên trong một xã hội đầy bảo thủ, hệ thống và
coi trọng giai cấp quyền lực.
Hào hùng và can đảm một cách tuyệt vời trên chiến
trường, ông là điều bí ẩn khó hiểu đối với tất cả những người biết ông. Tuy nhiên,
trên tất cả, ông là người có tấm lòng chân chính yêu quê hương, yêu tổ quốc một
cách sâu đậm; tin vào sức mạnh, danh dự và giá trị của toàn dân. Ông là người
trí thức không chịu khuất phục theo khuôn phép xã hội.
Nguyễn Văn Cư là Quận Trưởng
Quận Mõ Cày, Tỉnh Kiến Hòa, thuộc phía bắc đồng bằng Sông Cửu Long. Mõ Cày chỉ
là một trong 254 quận ở Việt Nam, nhưng lại là nơi rất đặc biệt. Chính Mõ Cày là nơi Việt Cộng đã chủ trương
dùng làm trụ sở để kết nối và vận chuyển vũ khí vào miền Nam Việt Nam. Nơi đó
đã trở thành một địa danh căn cứ quân sự của Cộng Sản Bắc Việt. Là một Quận Trưởng,
ngoài việc làm thay đổi lòng trung thành của người dân và nguồn gốc lịch sử ở
đó, Đại Tá Cư còn đảm trách các chức năng của một viên chức cao cấp dân sự và
quân sự của khoảng 72,000 dân. Với những trách nhiệm khác nhau từ hoạt động chiến
thuật đến việc xây cất trường học. Thật là khó khăn để quản lý một huyền thoại,
và trong quá trình đó Nguyễn Văn Cư đã tự mình trở thành kỳ tích của huyền thoại.
Cư sinh trưởng tại Huế, miền
Trung Việt Nam, và lớn lên trong tình trạng hỗn loạn của cuộc nổi dậy Việt Minh
chống Pháp. Sau Hiệp Định Geneva 1954, gia đình ông di cư vào miền nam, sau nhiều lần di chuyển,
cuối cùng định cư tại vùng biển Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định, nơi cư trú của
"lò" Cách Mạng Cộng Sản nằm vùng trong suốt thời kỳ chiến tranh Việt
Nam. Trong 20 năm phục vụ trong quân ngũ, ông rất ít dịp được gần gũi gia đình,
cuộc đoàn tụ với vợ và 12 người con trong chuyến viếng thăm Mõ Cày đối với ông
rất đặc biệt và riêng tư, không chia sẻ với người ngoài. *Tuy tiền đồn khu vực
trại của ông nhỏ hẹp, ông vẫn sắp xếp cho gia đình có chỗ ở tạm và luôn luôn
nói về giấc mơ hòa bình thật sự để gia đình có thể chung sống với nhau dưới một
mái nhà. Là một người cha tận tụy theo truyền thống của người Việt Nam, ông dùng
tất cả nguồn năng lực để các con ông phát triển học vấn và thường nói một cách hãnh
diện trước những thành công của chúng.
Lòng ái quốc, yêu chuộng tự
do và tinh thần chống cộng mãnh liệt đã khiến ông trở thành kẻ thù không đội trời
chung với Việt Cộng. Ông thề sẽ không bao giờ để gia đình ông sống dưới chế độ
Cộng Sản ngày nào ông còn sống và sẽ chiến đấu chống Cộng Sản đến hơi thở cuối
cùng. Sự dấn thân chống cộng quyết liệt đó đã làm ông trở thành người lý tưởng
nhất để trao trách nhiệm càn quét Cộng Sản, mật khu, cơ sở hạ tầng của chúng ra
khỏi Mõ Cày. Những năm trước khi ông nhậm chức, trừ ra cái ghế Quận, chuỗi các
tiền đồn giữa Mõ Cày và Bến Tre ra, phần quận lỵ là thuộc sự kiểm soát và điều
khiển một cách hiệu quả của Việt Cộng. Tết Mậu Thân 1968, Việt Cộng đã chiếm
đóng và tàn phá Mõ Cày. Họ đã thành công
trong việc tiếp thu khu nông nghiệp màu mỡ và kinh tế cũng như sự giao thông
qua lại giữa các quận lỵ phụ thuộc lân cận. Trong tình trạng vô vọng đó, Cư đã
đến năm 1968.
Đại Tá Cư đã thành công một
cách đáng kinh ngạc. Dựa vào cá tính tuyệt
đối và lực lượng của ông, từ đó cải thiện được tình hình an ninh địa phương.
Thái độ phổ biến của sự thờ ơ và sợ hãi được thay thế bằng một tinh thần phấn
khởi và thái độ lạc quan. Với sự hỗ trợ
ban đầu là một Đại Úy trẻ người Mỹ, phục vụ như là một cố vấn cao cấp của Quận.
Ông Cư tái khẳng định sức mạnh của chính phủ thân thiện lần đầu tiên trong một
thập kỷ. Sự thành tựu trong phạm vi của ông thật tuyệt vời và kết quả sau đó có
thể viết thành anh hùng ca!
Năm 1968, Mõ Cày là khu vực
của Việt Cộng, đến năm 1971 đã trở thành một quận có lực lượng quân sự mạnh mẽ
bởi sự hiện diện của chính phủ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa với sức mạnh đổi mới
nền kinh tế. Những chiếc cầu được xây dựng để tái lập giao thông sau bao năm bị
hư hỏng. Thực phẩm được tràn ngập vào các chợ, và phố quận Mõ Cày đã được xây lại
từ đống tro tàn. Hãy nhớ rằng chính Mõ Cày chứ không phải Bến Tre là chủ đề của
khúc anh hùng ca trong cuộc tiến công Tết Mậu Thân "Chúng ta phải phá hủy
thị trấn để cứu nó". Các thượng cấp
cả người Việt lẫn người Mỹ đều công nhận rằng sự thành công có được ở Mõ Cày là
do quyết tâm và những ảnh hưởng của Quận Trưởng Nguyễn Văn Cư. Khi thì ông mềm
mỏng, khi thì ra lệnh, quát tháo giận dữ chỉ huy, lúc to nhỏ thông đồng và sử dụng chính trị để thực hiện mục đích và
những điều như thế đó, đã đạt được kết quả khá lớn. Phương pháp hoạt động của
ông không chánh thống ngay cả ở Việt Nam. Ông kết hợp sự bướng bỉnh và kiến thức
chân chính của mình và nhu cầu cần thiết của quận, với mục đích duy nhất đặt ra
là để đạt được mục tiêu của mình.
Ông thật sự là một điển hình thách thức
cho các cố vấn Mỹ. Ông là người có khả năng, có tầm nhìn và chiều sâu; Ông cũng
là một người vị chủng đến mức độ cao, một thuyết tự ngã chí thượng to lớn và là
một nhà lãnh đạo tự mình thành lập và điều khiển thứ tự những việc ông cho là
ưu tiên. Điều này dẫn đến kết quả các mối quan hệ cộng tác chặt chẽ chuyển sang
những cuộc xung đột với các cố vấn Mỹ của ông.
Ông không bao giờ ngần ngại bày tỏ những khác biệt chính kiến với những
lãnh đạo của quận, đồng đội hoặc cấp trên của mình. Ông có khả năng thực hiện bất
chấp hàng loạt cuộc đối đầu liên tục và đã giành được sự ngưỡng mộ thầm kín của
các đồng nghiệp ngay cả khi ông sử dụng nhiên liệu tài sản dự kiến để sử dụng
những nơi khác trên phạm vi địa bàn Tỉnh. Ông giữ vững quan điểm và lập trường
về vai trò quận truởng và đội ngũ cố vấn Mỹ được giao để giúp ông, và thường là
quan điểm của ông mâu thuẫn với đường lối chính thức đặt ra bởi cấp trên của mình.
Ông vô cùng tôn trọng sức mạnh
quân sự của Mỹ, cũng như những bí quyết kỹ thuật, và mang ơn sâu sắc sự hỗ trợ
kinh tế của Mỹ dành cho người dân trong quận. Nhưng ông không thể thực hiện những
gì ông coi là sự thiếu hiểu biết của người Mỹ về bản chất xung đột ở Việt Nam, và
cho rằng sự thất bại của họ là không hiểu biết về văn hoá Việt Nam trong cách
tiến hành cuộc chiến tranh. Ông là một chuyện gia về Chủ Nghĩa Cộng Sản và chiến
tranh “Du Kích”, ông dã xem chính sách của Mỹ chiếm đóng một cách thật ngây ngô
với dụng cụ và máy móc và cho rằng Mỹ đã thiếu sáng suốt và ngây thơ về thực tế
của cuộc chiến tranh du kích. Ông cũng cảm nhận một cách mạnh mẽ rằng chiến
tranh cần phải được chiến đấu như một cuộc chiến tranh Việt Nam chứ không phải
là một cuộc chiến tranh của Mỹ. Vì thế ông vẫn giữ vững lập trường của mình trong
công cuộc chiến đấu với Cộng Sản tại Mõ Cày. Ông cũng tỏ ra cay đắng những gì ông coi là sự
thiếu hiểu biết và chân thành của hầu hết những người Mỹ tại Việt Nam. Ông cảm
thấy khinh miệt đối với những quan chức đến Việt Nam chỉ để được bấm thẻ tiến
thân vào sự nghiệp cá nhân của họ.
Mặc dù tất cả đều tranh luận
về phương pháp làm việc của ông, không ai đặt vấn đề gì về khả năng của ông, sự
lãnh đạo của ông thường ngoạn mục, và ông kiểm soát lực lượng quân sự của mình
với một bàn tay sắt! Ông được đánh giá ngang hàng với bất cứ các chỉ huy cao cấp
của Hoa Kỳ, nhưng thiếu đào tạo hiện đại và thiếu những thiết bị có sẵn dành
cho quân đội Mỹ. Ông đã trở nên thất vọng khi không thể thực hiện những cuộc
hành quân vì thiếu quân đội hoặc vũ khí, và phản ảnh sự thất vọng của mình bằng
cách cố tình lờ đi sự hiện diện của các cố vấn và bất chấp những lời khuyên của
cấp trên. Về phần Mỹ, các cố vấn giận dữ buộc tội ông thiếu quyết đoán, thiếu
quan tâm. Sự thật đúng ở cả hai bên, nhưng bi kịch của sự rạn nứt ngày càng gia
tăng, giữa ông và người Mỹ là sự thiếu hiểu biết của hai quan điểm tham gia
hoàn toàn khác nhau. Sự bế tắc là một khoảng cách văn hóa, và là một vấn đề
quan tâm nghiêm trọng về khả năng tiếp tục của chính phủ với cuộc chiến đấu chống
lại kẻ thù.
Trong tình trạng rạn nứt ấy,
một sĩ quan cao cấp Mỹ lỗi lạc được điều động đến Mõ Cày. Chính George B
(Byron) Reed là một Đại Úy trẻ tuổi nhưng giàu kinh nghiệm tư vấn, anh ấy tóc bạch
kim, người gốc Carolina. George đã từng là sinh viên chuyên về lịch sử văn hóa
Việt, cố vấn mới này nhanh chóng phát triển một mối quan hệ đối tác đáng chú ý
với Cư. Hai người đàn ông này đã dùng tình yêu chung về Lịch Sử và Triết học của
họ hổ tương và kết hợp tình bạn chặt chẽ.
Trong khi lịch sử và triết học dường như là những đề tài không liên quan
đối với chiến trường. Họ say mê thảo luận
thâu đêm suốt sáng những đề tài về Việt Nam, xen kẻ với các chủ đề về hoạt động
chiến thuật và kế hoạch chiến lược về bình định dân sự. Thông hiểu Triết học Á Đông và là người trí
thức, Cư vui mừng khi so sánh nền văn hóa Việt và Mỹ. Ông đã từng thăm viếng
các tiểu bang Hoa Kỳ và hài lòng khi tìm có được một người bạn rất thông thái và
am hiểu nền văn hóa Á Đông sâu sắc, ông có thể trao đổi về sự khác biệt giữa
văn hóa Đông và Tây.
Về phía Cư, người Mỹ đã tận
dụng cơ hội này để gài đặt ý tưởng của họ vào tâm trí của Cư và xem xét kế hoạch
những hoạt động tương lai. Trong những tình huống bất thường đó đã tạo những cơ hội bàn thảo mà trước đây
thiếu vắng vì những hiểu lầm đáng tiếc. Cố Vấn Mỹ, Đại Úy George B (Byron) đã cứu
cánh và đem lại kết quả mỹ mãn. Nguồn lực
phân bổ cho Mõ Cày được đưa vào sử dụng tốt. Cư lên kế hoạch và xây dựng những
cây cầu mới, chợ, trường học. Lực lượng
quân sự được đào tạo và khả năng chiến thuật của ông chứng thực những chiến thắng
tuy nhỏ nhưng đáng kể. Thái độ cay đắng trước đó của ông về chiến lược bế tắc
đã biến mất. Ông vẫn chọn các viên chức địa phương vì lòng trung thành cá nhân
chứ không phải là khả năng, nhưng ông có một ý thức cấp tính bén nhạy để biết
những gì cần thiết cho người dân ở Mõ Cày.
Đại Tá Cư thù ghét chế độ Cộng
Sản dữ dội nên không chấp nhận đối với việc đàm phán với Việt Cộng. Khi Cố Vấn
của ông hỏi ông sẽ làm gì nếu kế hoạch ngừng bắn có hiệu lực, Cư trả lời với
tính thẳng thắn: "Việt Cộng sẽ không bao giờ thực sự ngừng bắn, tôi cũng
thế, tôi sẽ chiến đấu cho đến khi chết". Câu nói này được bày tỏ trước khi
ký hiệp định Hoà Bình Paris năm 1973, là hình ảnh minh hoạ cảm xúc của người
chiến sĩ chiến đấu trong cuộc chiến này. Cư xem cái chết trên chiến trường như
một lý do duy nhất ông sẽ ngừng chiến đấu. Tin vào thuyết tâm linh và là một phật tử (hầu
như phần đông người Phật GiáoViệt Nam), Cư tin rằng ông sẽ quay trở lại chống kẻ
thù mình trong một kiếp khác. Ông thường gọi sự kiện xa trong tương lai bằng cụm
từ "khi tôi quay trở lại", cách gọi này đã bắt rễ sâu của tín ngưỡng
Phật Giáo tin vào sự luân hồi. Lý luận
như vậy của một người kỹ sư trí thức hiện đại thật khó cho tư tưởng người
phương Tây chấp nhận, nhưng nó đóng một vài trò quan trọng trong việc tìm hiểu
Cư.
Bởi vì tin rằng ông sẽ quay
trở lại để chiến đấu một lần nữa sau khi chết, Cư hoàn toàn không sợ hãi trên
chiến trường. Ông thường tản bộ vào gần các hoạt động của địch như thách thức kẻ
thù dám bắn vào mình. Có một lần ông dẫn đầu một cuộc hành quân băng qua căn cứ
của Việt Cộng với rất nhiều hầm bẫy mà không xảy ra thương vong. Trong một lần
khác, hành quân vào ban đêm, bất chấp sự nguy hiểm của mìn, bẫy và súng bắn tỉa
của đối phương, ông đã càn quét phá tan những sào huyệt của địch, bắt tóm
nguyên ổ của bọn cộng sản nằm vùng và tịch thu nhiều vũ khí. Những lần hành quân như thế tạo thành những
huyền thoại hiện thực.
Trong cuộc tấn công của Bắc Việt,
mùa hè đỏ lửa 1972, quận Mõ Cày đã bị ảnh hưởng nặng nề. Bảy tiểu đoàn địch đã
tàn phá Quận, Cư đã hiện diện ở khắp mọi nơi để tập hợp lực lượng không tương xứng
của mình để đánh bại những chuỗi liên tục tấn công của địch. Ở đỉnh cao của cuộc phản công, các lực lượng
của tỉnh nối kết hoạt động với quận Mõ Cày, nhưng chỉ đặt một sĩ quan tham mưu
tỉnh để chỉ huy các lực lượng. Niềm tự hào và tự ái bị thương, Cư tự đặt kế hoạch
hoạt động song song của mình mà không bàn thảo ý kiến của Tỉnh Trưởng. Kế hoạch
của Cư là hoạt động giải cứu phe ta bằng cách phá tiền đồn đang bị tràn ngập bởi
đối phương với đầy đủ sức mạnh trang bị của quân đội Bắc Việt. Đó là một sai lầm khủng khiếp, đã thực hiện
trong lúc nóng nảy nhất thời. Đại Tá Cư
khăng khăng dẫn đầu các binh lính ra chiến trường thay vì duy trì tại Bộ chỉ huy của mình, một lỗi chiến thuật mà cố vấn
Mỹ và bạn bè cố thuyết phục ông không cần phải thực hiện lúc bâý giờ. Bị ray rức,
bị chạm tự ái bởi sự hiện diện của quân đội không dưới sự chỉ huy của mình và
đau lòng cho các đồng đội chiến hữu ngã gục và đang bị bao vây, Cư bỏ qua những
lời khuyên can, và tiếp tục ở lại mặt trận, nhưng địch đã có nguồn tin tình báo
và đang chờ đợi Đại Tá Cư. Rừng đã bùng nổ ra trong bạo lực của một cuộc phục
kích lớn, không chút sợ hãi, xông pha tiến thẳng vào, kêu gọi những người lính
của mình thông qua khu vực phục kích, giúp đỡ những người bị thương đến nơi an
toàn và chỉ huy bắn lại địch trên bãi
chiến trường. Đó là một hiệu suất vô cùng dũng cảm. Chính Reed sau này mô tả một
cách súc tích là "Tuyệt John Wayne"! Lực lượng thân thiện và phe ta tiếp
tục chiến đấu với số lượng mạnh hơn của địch và giải thoát khỏi một tình huống
chiến thuật gay cấn khốc liệt. Nhưng Nguyễn Văn Cư đã liều lĩnh quá nhiều lần. Một
hoả tiễn của đối phương phóng vào giữa nhóm phe ta và "Người Hùng Mõ
Cày" đã bị giết chết ngay lập tức. Cố vấn Mỹ, Captain George B (Byron)
Reed cận kề ông cũng dũng cảm và đau đớn bị thương (sau này Reed đã nhận được
Silver Star, huy chương Bạc cuối cùng được trao thưởng cho người chiến đấu bộ
binh tại Việt Nam), ông đã đưa đơn vị đang bị choáng váng ra khỏi bẫy phục kích.
Cái chết của một huyền thoại là khó chấp nhận. Nguyễn Văn
Cư quả thực là một vị anh hùng của dân tộc. Quan điểm của ông thường xuyên mâu
thuẫn với những cấp trên, đồng nghiệp và cố vấn của ông. Ông nói ra những suy
nghĩ của mình khi thấy phù hợp và thể hiện lý tưởng mạnh mẽ trong một xã hội phát
biểu bằng sự im lặng. Ông rất tự hào về đất nước và di sản và xác định trách
nhiệm bảo vệ tự do độc lập và hạnh phúc người dân. Ông là người Việt Nam yêu đất
nước yêu quê hương và văn hoá của mình. Ông đã kiên định rằng kẻ thù Cộng Sản
không thể lật đổ miền nam và đồng minh sẽ không bỏ qua cho chúng. Ông yêu đất
nước tổ quốc của ông với sự nhiệt tình, sai sót hay nhược điểm duy nhất của ông
có lẽ là những người nào đã phản bội lý tưởng âý. Ông thường bị hiểu lầm bởi những
mâu thuẫn của chính trị, nhưng là một trong những người đứng ra bảo vệ niềm tin
của mình. Khi thời điểm của sự phán xét
đến, ông chết để bảo vệ lý tưởng, để gìn giữ cho một Việt Nam độc lập, tự do
nhân bản, những điều mà ông tin nhất. Không ai có thể làm nhiều hơn thế nữa.
Ghi Chú:
*Cuộc viếng thăm Mõ
Cày vớí vợ và 12 người con đoàn tụ gia đình rất riêng tư đặc biệt mà tác giả Cố
Vấn Colonel Haseman nhắc đến trong bài viết này chính là cuộc di tản của gia
đình từ Quy Nhơn trong mùa hè đỏ lửa 1972.
Tạm ở trong quận Mõ Cày vài ngày với Ba tôi, Mẹ và các chị em khác phải về nhà người Bác ở Vũng Tàu. Chỉ có tôi và 2 người chị ở lại với Ba tôi đến
khi ông mất, chị Trang, sau này là nhạc sĩ Thảo Trang đã sáng tác rất nhiều nhạc
đấu tranh, trở về Quy Nhơn để tiếp tục học thi tú tài. Người anh cả, Nguyễn
Thái Sơn, đang tác chiến ngoài Quảng Trị được lệnh gọi về Mõ Cày khi Ba tôi mất,
trở lại đơn vị trình diện thì mới hay cả tiểu đoàn đã tiêu tan không còn ai sống
sót. Anh vẫn ngậm ngùi ưá nước mắt mỗi khi nhớ lại “mạng sống của anh là được
Ba đánh đổi”. Tháng 7, ngày 17 năm 1972, sau khi Ba tôi mất, gia đình dọn vào
Sài Gòn theo ước nguyện của Ba tôi, và may mắn rời Việt Nam 30 tháng tư năm 75.
Colonel Nguyen Van Cu was a maverick, a
patriot
and soldier who was willing to die for
his beliefs.
By Colonel John B. Haseman
Lieutenant
Colonel Nguyen Van Cu, Army of the Republic
of Vietnam , was a man who
called forth-strong emotions from all who knew him. Vietnamese found him to be
a good friend and a ruthless opponent. American advisers found him
unpredictable, effective most of the time but seemingly immovable at others.
Outspoken in a society that valued discretion, argumentative with superiors in a
culture that valued hierarchy and status; breathtakingly courageous on the
battlefield, Nguyen Van Cu was an enigma to all who knew him.
Above
all else, however, he was a patriot who deeply loved his country and who
believed in his people’s strength and dignity. He was a maverick. Nguyen Van Cu
was the district chief of Mo Cay district, Kien Hoa province, I the northern
part of the Mekong Delta. Mo Cay was only one of 254 districts in Vietnam , but it
was a very special one. It was in Mo Cay that the Viet Cong movement was
alleged to have had its beginnings in South Vietnam . It became legendary
as a stronghold of Viet Cong military and political strength. As district chief
in this area of shifting loyalties and radical history, Colonel Cu functioned
as the top civilian and military official of some 72,000 people, with
responsibilities ranging from tactical operations to school construction. It is
difficult to govern a legend, and in the process Nguyen Van Cu became a legend
himself.
Cu was born and raised in northern Vietnam and
grew up in the turmoil of the Viet Minh revolt against the French. Following
the 1954 Geneva Accords his family moved south, settling in coastal Binh Dinh
province, a communist hotbed throughout the war period. During his 20-odd years
of military service, he was separated from his family much of the time. Arrival
of his wife and 10 children on visits to Mo Cay was a major event for him, an
occasion of close family association not shared with outsiders. Although his
quarters at the cramped district headquarters compound were hardly adequate for
a family of 12, Cu always found room. Often he spoke of his hopes for a time of
real peace so he and his family could stay together. A devoted father in the
Vietnamese tradition, Cu used his every resource for his children and proudly
talked of their accomplishments.
Cu’s intense patriotism made him an implacable foe of the
Viet Cong. He vowed that he would never permit his family to live under
Communist rule and swore to fight against the Communists as long as he lived.
His aggressiveness made him ideal for Mo Cay. For years prior to his arrival,
except for the district seat and a string of outposts between Mo Cay and the
provincial capital of Ben Tre, the district had been effectively controlled by
the Viet Cong. During the 1968 Tet Offensive, the Viet Cong entered and
destroyed most of Mo Cay itself. They had effective control of the rich
agricultural economy of the district, and travel to adjacent districts was
impossible. It was to this almost hopeless situation that Cu came in 1968.
He had amazing success. Through sheer force of personality
he slowly improved the local security situation. The prevalent attitude of
apathy and defeat was replaced by an attitude of optimism. Aided initially by a
young American captain who served as a district senior adviser, Cu reasserted
friendly government strength for the first time in a decade. His
accomplishments were awesome in scope and epic in their results.
What was in 1968 a Viet Cong
district became by 1971 a district of strong governmental presence with renewed
economic vigor and aggressive military forces. New bridges opened up areas
closed to traffic for years. Produce flowed to markets, and the district town
was rebuilt from the ashes. (It was Mo Cay, not Ben Tre, that was the subject
of the epic quotation of the Tet Offensive: “We had to destroy the town in
order to save it.”) Officials at higher levels, both Vietnamese and American,
attributed the success in Mo Cay to Cu’s force and influence. He bullied,
commanded, connived, cajoled, yelled, whispered and politicked, and in so
doing, achieved results of heroic proportions. His methods of operation were
unorthodox even in Vietnam .
Cu combined stubbornness with genuine knowledge of his district’s needs, and
with single-minded purpose he set out to accomplish his goals.
Cu presented a real challenge to his American advisers. He
was a man of great ability, vision and depth. He was also ethnocentric to a
high degree, a tremendous egotist and a leader who established his own order of
priorities. As a result, the counterpart relationship between Cu and his
advisers was a stormy one that ranged from close cooperation to open conflict.
Cu never hesitated to disagree with his advisers, his fellow district chiefs or
his superiors. His ability to get things done despite this constant series of
confrontations won him the secret admiration of his peers even when he was
using assets originally scheduled for use elsewhere in the province. Cu held
firm views on the relative roles of the district chief and the American
advisory team assigned to assist him, and often his views conflicted with the
official line laid down by his superiors.
Cu had tremendous respect for American military might and
technical know how, and he was deeply appreciative of America ’s
economic assistance to the people of his rural district. But he could not abide
what he considered to be the Americans’ woeful lack of insight into the nature
of the conflict in Vietnam
and their failure to understand the Vietnamese culture in waging war. He was an
expert on communism and guerilla warfare, and he viewed the American policy as
naively preoccupied with machines and computers. He felt Americans were foolish
and naïve in their ignorance of the realities of guerrilla warfare. He felt
strongly that the war should be fought as a Vietnamese war, not as an American
war, and he vigorously pursued his own concepts of fighting in Mo Cay district.
Cu was also bitter at what he considered to be a lack of
understanding and sincerity on the part of most Americans in Vietnam . He
felt contempt for officers who came to Vietnam to get their tickets
punched and move on in their careers. As a Vietnamese fighting for the life of
is country, he believed too many Americans were in Vietnam only for personal
advancement.
Despite all the controversy about his methods, there was
little question about his ability. Cu’s leadership was often spectacular, and
he controlled his military forces with an iron hand. He was the equal of any
American commander, but he lacked the extensive modern training and equipment
available to American forces. He became frustrated when he could not accomplish
a task because of a lack of troops or tactical assets, and reflected his
frustration by deliberately ignoring his advisers or defying his superiors.
For their part, angry
advisers accused Cu of indecisiveness, lack of interest, and corruption. There
was truth on both sides, yet the tragedy of the growing rift between Cu and the
Americans was the lack of understanding for the two completely different
viewpoints involved. The impasse was a cultural gap, and an issue of grave
concern for the continued ability of the government in Mo Cay to resist the
enemy.
Into this badly deteriorating situation came a remarkable
American officer as the new district senior adviser to Mo Cay. Major George B.
(Byron) Reed was a prematurely gray Carolinian with a wealth of prior advisory
experience. He rapidly developed a remarkable counterpart relationship with Cu.
A student of Vietnamese history and culture, the American major was able to
discuss these subjects intelligently, and the two men used their mutual love of
history and philosophy to cement their association into firm respect and
friendship. While history and philosophy seem unusual subjects for the
battlefield, the discussions rescued on adviser-commander relationship that was
in danger of complete collapse.
Cu spent hours with his new adviser, discoursing long into
the night on subjects Vietnamese, interspersed with the more prosaic topics of
tactical operations and strategic plans for civilian pacification. An Oriental
philosopher and intellectual, Cu delighted in comparing the Vietnamese and
American cultures. He had visited the United States and was pleased to
find a friend with whom he could converse on the vagaries between East and
West.
For his part, the
American took advantage of the opportunity to plant ideas in Cu’s mind for
future consideration. In these highly unusual circumstances, it was an
opportunity for communication that had been sorely missed. The unorthodox
system worked. Resources allocated to Mo Cay were put to good use. Cu planned
and built new bridges, markets and schools. Well –trained military forces
attested to his tactical ability with a series of small but significant
victories. Cu’s previous attitude of obstructionism and bitterness disappeared.
He still chose local officials because of their personal loyalty rather than
ability, but he had an acute sense of popular moods and he knew what the people
of Mo Cay needed most.
Colonel Cu’s hatred of the Vietnamese Communists made him an
intense foe of a negotiated settlement with the Viet Cong. When his adviser
once asked him what he would do if a cease-fire plan came in effect, Cu replied
with characteristic candor: “The Viet Cong will never really cease their fire,
and neither will I. I will fight them until I die.” This fervor, expressed
months before the signing of the 1973 Paris Peace Accords, was a graphic
illustration of the feelings of the fighters in this war.
Nguyen Van Cu viewed death on the battlefield as the sole
reason he would stop fighting. An animist as well as a Buddhist (as are most
Vietnamese), Cu believed that he would return to fight his enemies in another life.
He often referred to events far in the future with the phrase “when I return,”
invoking the deeply rooted Vietnamese belief in reincarnation. Such reasoning
by a modern, well-educated engineer officer is hard for the Western mind to
accept, but it plays a major role in understanding Nguyen Van Cu.
Because of his belief that he would return to fight again
after death, Cu was absolutely fearless on the battlefield. He strolled along
almost casually on tactical operations as if daring the enemy to fire. On one
occasion he led an operation through a heavily booby-trapped enemy base area
without casualties; on another operation he took the point on a night march,
disregarding the danger of mines, booby traps, and enemy snipers. Of such
performances are legends made.
During the 1972 North Vietnamese offensive, Mo Cay district
was hard hit. Seven enemy battalions were ravaging the district, and Cu was
everywhere, rallying his outnumbered troops to beat back a continuous series of
major attacks. At the height of the offensive, provincial forces mounted a
major operation in Mo Cay district but placed a province staff officer in
command of the forces. Pride and vanity wounded, Cu planned his own parallel
operation without consulting the province chief. Ostensibly a small operation
to reconstitute an outpost overrun by enemy forces, Cu’s plan was, in reality,
a major operation against a full-strength North Vietnamese battalion. It was
foolish mistake, undertaken in a fit of pique.
Colonel Cu insisted on leading the operation himself instead
of remaining at his command post, a tactical error of major proportions and a
step his American adviser and friend urged him no tot take. Stung by the
presence of troops not under his command and aching for combat, Cu disregarded
the advice and continued on in the field. But the enemy had intelligence
sources, too, and was waiting for Colonel Cu. The jungle erupted in the
violence of a major ambush. Fearlessly marching erect, Cu urged his men through
the ambush zone, helping wounded men to safety and directing fire on the
battlefield. It was an incredibly brave performance. Major Reed later described
it succinctly as “sheer John Wayne.” Friendly forces carried the fight to the
numerically stronger enemy forces and extricated themselves from a bad tactical
situation.
But Nguyen Van Cu had tempted fate once too often. An enemy
rocket explored in the midst of the command group, and the “Maverick of Mo Cay”
was killed instantly. A valorous company commander and the painfully wounded
Reed (he later received the last Silver Star Medal awarded for ground combat in
Vietnam )
brought the stunned forces out of the trap.
The death of a legend is hard to accept. Nguyen Van Cu was
indeed a maverick. His views often conflicted with those of his superiors, his
peers and his advisers. He spoke his mind as he saw fit and expressed himself
forcefully in a quiet-voiced society. Cu was proud of his country and its
heritage and was determined to defend them. He was Vietnamese, proud of his
patriotism, his people and his culture. He was determined that no enemy would
subvert them and no friend would disregard them. He loved his country with
great fervor, and his flaws were those on the side of his love. He was a man of
great contradictions and of misunderstood values, but one who stood up for his
beliefs. When the moment of reckoning arrived, he died fighting to preserve
those things in which he believed most. No man can do more.
John B Haseman
Tel.: (970) 256-9421
Email : jhaseman@gj.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét