Vua Lào Savang Vatthana
Nước Lào là nước Phật, dân Lào hiền hòa, không làm chính trị,
không có quân đội.
Cho tới năm 1945, trong lúc Nhật đầu hàng Mỹ,
Pháp chưa trở lại, nước Lào bỏ ngỏ, một người tên Trần Văn Dĩnh được Việt Minh
đưa sang Vientiane, thủ đô nước Lào, xách động Việt kiều, thành lập quân kháng
chiến chống Pháp, tổ chức "tuần lễ vàng" vơ vét tiền
bạc của Việt kiều, tự coi như ông trời con ở nước Lào, gán tội Việt gian và bắn
bỏ hai vợ chồng ông Đỗ Đình Tảo, thường gọi là Hai Tảo, thương gia
giàu nhất Vientiane, làm chủ hãng xe đò và chủ rạp Ciné duy
nhất tại đây. "Thảm kịch trên đất Lào" bắt đầu từ đây....<!>
Nhiều người biết Trần Văn Dĩnh về sau có lúc làm
tổng lãnh sự ...VNCH tại Washington, và "giáo sư đại học" tại Philadelphia và
chết cách đây vài năm tại Washington.
Một con người với nhiều "huyền sử" liên quan tới
nước Lào, và dĩ nhiên, Việt Nam và Hoa Kỳ. ST
Thảm
kịch xảy đến với Hoàng gia Vương quốc Lào là chuyện còn ít ai được
biết.
Hàng chục năm trôi qua, chính quyền Lào
không đưa ra được một câu trả lời thỏa đáng về sự biến mất của vua Savang
Vatthana.
Lào - nạn nhân thua thiệt trong Cuộc
chiến Đông Dương
Trong cuộc chiến tranh giữa Mỹ - Việt
Nam, đúng nghĩa hơn là chiến tranh Đông Dương, Lào đã cho Hà Nội xây dựng tuyến
đường huyết mạch chi viện cho chiến trường miền Nam trên lãnh thổ Lào, vẫn được
gọi là 'Đường mòn hồ chí minh'.
Quân đội
Việt Nam Cộng Hòa đã trực tiếp mở chiến dịch 'Lam Sơn 719' đánh thẳng sang Lào
từ Quảng Trị. Mỹ cũng đã tiến hành 550.000 phi vụ tấn công trên lãnh thổ Lào,
trung bình cứ 8 phút có một phi vụ rải boom, nã tên lửa trong suốt 9 năm.
Chừng 260 triệu trái boom đã dội xuống đất Lào,
nhiều hơn dân số của nước này (6,4 triệu/2015). Lào là đất nước hứng chịu boom
đạn nặng nề nhất thế giới so với số dân.
Bắc Việt
Nam đã thành công trong việc sử dụng Lào như một chiếc khiên chắn đạn cho
VNDCCH, để hậu phương miền Bắc không bị hứng chịu toàn bộ gánh nặng của cuộc
chiến Đông Dương lần thứ hai.
Nội chiến ở Lào giữa
quân đội Hoàng gia được người Hmong ủng hộ chống lại Pathet Lào và quân đội
Bắc Việt kéo dài từ tháng 11/1953 tới năm 1973, dài hơn chiến tranh Việt Nam.
Một triệu người Lào đã bị giết, tương tự cứ 6 người thì có một bị thiệt
mạng.
Sau chiến tranh 69.000 người Hmong phải chạy
từ Lào sang Thái Lan tỵ nạn rồi một số họ được Hoa Kỳ nhận.
Đóng góp của Lào về sức người, sức của cho Bắc Việt Nam chiến thắng
không thể phủ nhận. Nền quân chủ 622 năm bị truy
trốc tận gốc
Nằm cạnh những đế chế hùng mạnh trên
bán đảo Đông Dương, Lào luôn giữ một thái độ khiêm nhường.
Ở Lào đạo Phật được mến chuộng, người dân vẫn tôn thờ ngai
vàng, coi biểu tượng của Vua ứng với thần linh và họ nợ Đức Vua lòng trung
thành.
Khôn ngoan là xoá bỏ vĩnh viễn biểu tượng
tinh thần đó. Những người Cộng sản nghĩ thế, họ quen với cái gọi là 'chuyên
chính vô sản' hơn công việc xây dựng đất nước.
Trong nhiều năm, số phận của vua Savang Vatthana, Thái tử kế vị
SayVongsavang, cùng Hoàng hậu Khamphoui là đề tài của những tin đồn trái ngược
nhau. Một viên chức Lào cho hay rằng, gia đình Hoàng gia sống trong một biệt
thự nhỏ, bao quanh là vườn hoa xinh xắn.
Đến năm
1987, sự thật tàn nhẫn mới được tiết lộ. Nhà Vua đã bị giam giữ và bắt buộc
phải làm lụng trên cánh đồng tám giờ một ngày, sáu ngày trong một tuần ở tuổi
70. Cả ba đều bị chết sau đó vài năm.
Những nhân
chứng thoát khỏi nơi đầy ải đã kể những bi kịch như bản Requiem của triều đại
đáng kính này.
Ngày 11/3/1977, cả gia đình Hoàng
gia gồm vua Savang Vatthana, Thái tử kế vị SayVongsavang, cùng Hoàng hậu
Khamphoui bị áp giải ra khỏi Hoàng cung ở Luang-Prabang dẫn giải về nhà tù khét
tiếng ở Viengsay. Sau đó họ bị giải đến Hua Phang, thành lũy lịch sử của Pathet
Lào. Một vùng biệt lập hoàn toàn với dân cư, bao bọc bởi rừng núi.
Họ bị giam giữ trong khu vực dành cho những thành phần
nguy hiểm. Khu trại được xây dựng vào năm 1974, biệt lập bởi những hàng rào
tre, nứa vót nhọn, và dây thép gai kín đặc, được dựng nên cũng bởi những phạm
nhân của chế độ mới. Trại nằm cách Sam Neua về phía Bắc, cách biên giới
Việt-Lào 72 km.
Song chưa yên tâm, để che mắt dư
luận thế giới, sợ những người tù cùng ở 'quần đảo Gulag' tại Viengsay phát
hiện thân thế gia đình Hoàng gia, ba tháng sau, vua Savang Vatthana và gia đình
bị dẫn đi tiếp đến Sam Neua, nhốt trong Trại tù số 1.
Hoàng hậu KhamPhoui bị tách khỏi gia đình và giam riêng trong khu
dành cho nữ giới. Những người cộng sản Pathet Lào quy định nghiêm ngặt như
phạm nhân nam ngước mắt nhìn nữ giới chịu phạt ba ngày nhịn ăn, thậm chí bị
nhục hình.
Tháng 9/1977, đại diện cuối cùng của
đất nước Triệu Voi được nghe tuyên cáo số 17 của trại: tất cả những phạm nhân
bị bắt đều bị coi là kẻ thù của nhân dân và dân tộc Lào, không quyền công dân,
giam không xét xử.
Những ngày cuối cùng của Nhà
vua
Khi nhập trại, vua Savang Vatthana đã 69 tuổi.
Ông không có một đặc quyền lợi nào khác các bạn tù. Ông cùng Thái tử
SayVongsavang và ba người cùng trại giam phải lao động ngoài đồng, xay xát lúa
gạo. Mỗi ngày, nhà vua nhận từ tay quản giáo hai bát cơm gạo hẩm, lẫn phân
chuột. Không quen lao lực, ăn uống thiếu thốn, tuổi cao, Đức vua nhanh chóng
suy sụp, sức khỏe xấu đến mức không còn làm việc được.
Nội quy' số 9 'của trại ghi rõ, kẻ nào không lao động sẽ bị cắt
khẩu phần ăn. Nhà vua bị liệt vào hạng tù chống đối, bị bỏ đói.
Thái tử SayVongsavang chia phần cơm của mình cho cha,
khăng khăng bắt ông phải ăn.
Vào ngày 2/5/1978,
Thái tử nối dõi ngai vàng Vương quốc Lào qua đời, nạn nhân của lòng hiếu thảo.
Cơm và muối theo khẩu phần khốn khổ cho một người tù không đủ nuôi sống cả
hai.
Tự coi mình chịu trách nhiệm về sự hy sinh
của con trai, vua Savang Vatthana buông xuôi.
Ngày
13/5/1978, ông nằm trên giường, nói ''Tôi ngủ đây'' và trăn trối ''Tôi hiến dâng
linh hồn, giọt máu và thân thể của tôi cho mảnh đất mầu mỡ, tươi đẹp của đất
nước Lào và có thể cho tất cả dân tộc Lào''.
Ông
thở nặng nhọc và ra đi. Ông mất 11 ngày sau cái chết của con.
Vài giờ sau khi ông mất, ba người nấu bếp đào một hố chôn ông không
nghi lễ, ảm đạm, thương tâm như mai táng Thái tử Say Vongsavang không lâu trước
đó. Họ không được khóc thành tiếng. Lính áp tải vội về ăn cơm tối.
Mộ phần của vua nằm dưới chân cây Kok Leuang (cây đa
vàng), khoảng 100m về phía bắc Trại tù số 1, ở rìa con suối Houy Nor Kok trên
bản đồ địa phương. Vua an táng đầu hướng về phía Bắc. Con trai ông nằm quay đầu
về phía Nam, chôn không xa Tổng tư lệnh cuối cùng Quân lực Hoàng gia Lào, tướng
BounPone Makthepharak. Không có bia mộ nào được phép đặt trước nơi an nghỉ
cuối cùng của họ.
Hoàng hậu KhamPhoui chịu thân
phận tù đầy cũng không được dự phút khâm liệm cả chồng và con trai. Mà chữ
khâm liệm cũng xa vời, họ chỉ ném xác những người đại diện cuối cùng Hoàng gia
Lào xuống những hố nông đào vội.
Hai năm sau, bà
vẫn không biết là chồng và con đã ra đi. Nhân chứng nhìn thấy bà lần cuối không
còn nhận ra Hoàng hậu của nước Lào. Tóc bạc trắng và đôi mắt buồn rầu, bà nhai
trầu cả ngày để chìm vào quên lãng. Ánh mắt đó cuối cùng cũng tắt vào ngày
12/12/1981. Mộ của bà nằm cách khoảng một km nơi chồng an táng và cũng không
có bia.
Phạm Cao Phong (Paris, Pháp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét