Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Hai, 28 tháng 10, 2019

Thăm chồng tại Trại tù “cải tạo” Tân Lập - Bích Lan


1

“Thương anh mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua”
Đường Saigon - Hà Nội dài hơn 1700 km, có mấy núi, mấy sông, ngàn vạn cái đèo cũng không ngăn được bước chân những chinh phụ đi tìm chinh phu trong ngục tù của VC. Năm 1979, tôi từ Nam ra Bắc lần đầu tiên, xuống ga Hà Nội, tới bến xe Kim Liên để về Ninh Bình, quê chồng, nơi mà năm 1954 khi đình chiến anh mới được 12 tuổi mà đã một mình dám theo các cô chú họ hàng vào Nam, xa lìa cha mẹ anh em. Hơn 20 năm sau, anh trở về quê hương đất Bắc tay trong cùm, chân mang xích. Tôi đến Ninh Bình để đón mẹ chồng cùng lên thăm chồng tôi ở trại Tân Lập, vì bố mẹ chồng tôi đã thăm anh mấy tháng trước và đã biết được trại tù này.
<!>

Thân gái dặm trường nên khi xuống ga Hà Nội, tôi nhìn quanh để tìm bạn đồng hành, tất cả lem luốc như có gì mặc nấy, thanh niên, thiếu nữ, ông già, bà lão v.v.. mặc giống nhau, cùng một mầu, mầu “bộ đội” với dép râu, nón cối, xe đạp. Tôi thoáng trông thấy một chị y phục tươm tất nổi bật trong đám đông ấy và có lẽ chị cũng cùng tâm trạng, cùng hoàn cảnh như tôi khiến chúng tôi tiến gần lại nhau, và chúng tôi là những chinh phụ đi tìm chồng giữa chốn “hỗn quân”. Đám đông nhìn chúng tôi, người Hà Nội nhìn chúng tôi với thái độ vô cảm, họ chỉ trỏ, soi mói, thì thào với nhau, họ biết chúng tôi là người từ miền Nam, người Sài Gòn, “Vợ ngụy”. Chúng tôi đứng với nhau một lúc cảm thấy mình không lẻ loi; rồi chị bạn có thân nhân ở Hà Nội đón và tôi lại cô đơn, một mình.

Ở bến xe Kim Liên, những đứa nhỏ bằng tuổi con tôi, từ 7 tới 10 tuổi, chúng líu lo chen chúc quanh tôi nghe rất là dễ thương, tôi đã nép mình sang một bên đường và nhường lối cho chúng đi qua nhưng vẫn bị chen lấn. Mấy phút sau chúng tản mát đâu hết, tôi chưa kịp hỏi han các em lời nào. Thấy các em, tôi nhớ đến con tôi, mới đi có mấy ngày mà nhớ con quá, các con còn nhắc mẹ là nhớ hôn bố thay các con.

Tôi nhìn lại túi xách tay nhỏ, chết rồi! Tiền bạc và giấy tờ của tôi đã mất! Không lẽ những trẻ thơ chỉ bằng con mình đã lấy của mình rồi chăng? Nhưng ngoài các em ra, có ai chen lấn gì tôi đâu, nhưng tôi đã mất đồ thật rồi! Trong cảnh bơ vơ, lần đầu tiên về quê chồng nơi xứ Bắc này tôi phải làm gì đây? Tôi vào đồn công an bến xe Kim Liên để khai báo. Mấy người công an tiếp tôi hờ hững như chẳng có chuyện gì quan trọng, như là chuyện thường ngày, một người đưa cho tôi tờ giấy và cây viết, cộc lốc:

- Khai đi.

Mấy phút sau, tôi nộp lại tờ khai mất giấy tờ, tiền bạc và quan trọng nhất là giấy xin thăm nuôi, tên công an vừa đưa tờ giấy và viết cho tôi trước đó 15 phút quát:

Tôi bảo chị mất cắp gì thì khai vào tờ giấy này, còn lôi thôi gì nữa không?

Tôi trả lời: “Tôi khai rồi đây này”.

Hắn cầm tờ giấy lật qua lật lại, nhìn tôi chầm chầm, mấy tên ngồi gần đó và cả mấy tên đứng quanh đó trố mắt nhìn tôi, một tên nào đó thốt lên:

- Nhanh thế!

Tôi không quan tâm tới gì họ nói, họ muốn “khai” bao nhiêu tôi “khai” cho họ là xong, nhưng trước mắt, không giấy tờ tiền bạc làm sao tôi về đến quê chồng, và còn vào trại tù thăm chồng trong lúc khó khăn này!

Tôi đứng chơ vơ lẻ loi trong đám đông hỗn độn và hỗn hào trong bến xe, cùng tắc biến, tôi hỏi thăm đại một người đường về quê chồng. Trời thương, may gặp được người cùng làng của cha mẹ chồng, vài lời thăm hỏi, và biết hoàn cảnh của tôi, bác đã nhận lời giúp trả tiền xe và đưa tôi về nhà cha mẹ chồng. Bác an ủi tôi, bác bảo:

- Bác là người cùng làng, cùng họ hàng nên cháu đừng sợ.

Tôi cảm thấy bớt cô đơn.

Ngồi trong cái xe cũ kỹ về Ninh Bình, đến một làng có ngôi thánh đường khá lớn, xa xa có dãy núi, trên đỉnh núi thật cao ấy có cây thánh giá sừng sững giữa trời. Làng của chồng tôi đây sao? Lấy chồng năm 20 tuổi tôi đã theo đạo của chồng. Trước khi vào nhà cha mẹ chồng, đi ngang qua ngôi Thánh đường, tôi đã cầu xin Chúa cho được gặp chồng và xin cho anh được bằng an.

Xuống xe đầu làng, thấy một thanh niên đi tới, không chờ họ nói mà tôi hỏi trước:

- Này, em có phải là em của anh Chiến không?

Cậu ta ngẩn người ra và hỏi lại tôi:

- Sao chị biết.

- Chị là chị Chiến đây, trông em giống anh ấy quá.

Chú ấy chở hai giỏ quà sau xe, tôi đi bộ theo, trên đường vào làng mọi người túa ra thăm hỏi, những đứa trẻ miệng trầm trồ, có đứa còn nói lời chào “Chào chị Chiến”. Trẻ con ở đây lễ phép hơn. Cha mẹ chồng tôi đã vào Nam thăm mẹ con tôi năm 1977 nên tôi cũng không xa lạ với ông bà, tôi được sống trong những giây phút ấm áp đó.

Qua một đêm ở nhà cha mẹ chồng, họ hàng, dân làng đến thăm hỏi, họ cũng muốn tìm hiểu đời sống của người miền Nam. Khách đầy nhà, một người nói rằng hồi nhỏ học cùng lớp với chồng tôi, thấy tôi người Huế, anh nói với tôi:

- Này chị Chiến, năm 1973 đơn vị tôi bao vây một cái đồn ở Huế, nghe tin Chiến ở trong đó nên tôi rút quân không đánh nữa.

Thoáng nghĩ: “Lại có mấy cái máy lạnh đặt ở công viên” nữa rồi, tôi trả lời anh:

- Ông xã tôi chỉ ở miền Nam, không có ở Huế.

Sáng hôm sau mẹ chồng tôi và tôi lại lên Hà Nội, đi xe lửa chợ từ Hà Nội lên Yên Bái, xuống ga Ấm Thượng, tầu chở người và súc vật chung, người và vật chen chúc hôi hám. Tôi và mẹ tôi không có chỗ ngồi vì phần đông là bộ đội, họ đã chiếm hết chỗ rồi, họ nói chuyện như cãi lộn, hò hét, chửi thề, văng tục, họ chẳng biết nhường chỗ cho người già và phụ nữ. Tôi và mẹ tôi phải vịn thanh sắt, chân kẹp chặt giữ mấy giỏ đồ, đứng liên tục 10 tiếng đồng hồ từ 5 giờ chiều tới 3 giờ sáng mới tới ga Ấm Thượng, trong khi đó họ ngồi, họ chiếm cả chỗ…

Trong toa tầu ánh đèn lờ mờ, con tàu lắc lư, một tên thừa cơ tranh sáng tranh tối, đưa tay sờ ngực tôi, mẹ tôi đứng cạnh tôi trông thấy bà la lên:

- Ấy, ấy, đó là con dâu tôi đấy, nó có chồng 3 con rồi đấy mấy chú ơi.

Mặc cho bà la, chúng cười nham nhở và còn bảo: “Thế à”! … cười nói khả ố…*

Tôi nói mẹ đừng la nữa, tầu sắp đến ga rồi, coi chừng mấy giỏ quà giúp con.

Mẹ con tôi xuống ga Ấm Thượng và phải nằm chờ tới sáng, ga trống vắng lạnh lẽo, lại phải ở chung với chó, lợn, gà. Trời đêm mưa phùn, gió rét, tôi nghe tin hôm qua có một anh tù cải tạo bị chết đuối.

Bàng hoàng, xúc động, tôi ôm mẹ và khóc, mẹ chồng tôi sau hơn ¼ thế kỷ mới gặp con, có biết bao điều để nói, nhưng với cái nhiễu nhương trước mắt mẹ cũng chỉ biết cầu xin.

- “Cầu cho tất cả được bình yên trở về, ngủ đi con, ngày mai còn phải đì đò rồi đi bộ mười mấy cây số vào trại, ngủ đi con.

Từ ga Ấm Thượng vào trại Tân Lập phảỉ đi đò ngang qua sông Hồng nước chảy xiết, con đò mong manh xuôi theo giây cáp, tròng trành như sắp bị cuốn trôi đi theo dòng nước. Lên đò lại phaỉ đi bộ hơn 20 cây số đường rừng, bùn đất gập gềnh, mẹ tôi thấy tôi đi không nổi nên cứ dành gánh những gói quà. Vào tới trại thì đã xế chiều, trình giấy tờ, lại phải ngủ qua đêm trong khí hậu núi rừng lạnh thấu tim gan để qua ngày hôm sau mới được gặp anh! Lại một đêm trằn trọc, đêm đầy tiếng kẻng, mỗi lần nghe tiếng kẻng từ trong trại dội ra là tôi lại ôm mẹ, nghĩ tới anh qua hình ảnh các bạn anh mà tôi đã thấy trên đường vào trại, các anh cũng đã vui mừng khi nhìn thấy chúng tôi nhưng không còn vóc dáng ngày nào, an phận! Chịu đựng! Vậy là hết rồi sao!

Sau 15 phút ngồi đối diện với chồng, có mẹ chồng bên cạnh, tôi chẳng nói được gì với anh cả. Chúng tôi chỉ mới nói chuyện gia đình mạnh khỏe, con cái học hành là đã hết 15 phút! Chỉ muốn nắm tay anh mà cũng chẳng được vì tên cán bộ ngồi đầu bàn cứ chằm chặp nhắc nhở “Anh chị phải giữ nếp sống văn hóa”! Văn hóa gì đây hỡi trời?

Chồng tôi nhận quà, tôi chỉ dặn được vài câu anh cố gắng giữ sức khoẻ thế nào cũng có ngày đoàn tụ, còn chồng tôi thì nói em cố gắng lo cho các con, đừng lo cho anh.

Chồng tôi lại phải vào trại, anh đi được vài bước, quay lại, bước đi, ngoái cổ lại phía sau. Lòng tôi bối rối, đau như cắt, thình lình tôi gọi to:

- Anh!

Chồng tôi dừng lại, tôi chạy thật nhanh, ôm chầm lấy chồng và hôn anh, hôn lấy hôn để, tên cán bộ nhìn thấy thế, anh ta ú ớ:

- Ơ cái anh chị kia, nhớ giữ gìn nếp sống văn hóa chứ.

Mấy người tù trẻ, có lẽ là tù hình sự, đứng vỗ tay như là ở cái xã hội Bắc Kỳ này chuyện vợ chồng hôn nhau chỉ có trong phim. Mặc cái gì là văn hóa, cái gì là nội qui, nhớ chồng quá, ai nói gì mặc kệ, bao năm xa cách, đi từ Nam ra Bắc cũng chẳng được cầm tay mà chỉ ngồi nhìn nhau 15 phút thôi sao! Tình người và tình vợ chồng ở nơi đây cũng trở thành gỗ đá ư!

Cái hôn đầu tiên, ngày nào ấy năm 1968, anh đã ôm hôn tôi sau bánh xe Jeep, còn tôi chỉ biết chịu trận, run rẩy. Ngược lại, hôm nay trong hoàn cảnh éo le này, chồng tôi chỉ như khúc cây để cho tôi sờ mặt, hôn anh trong một phút bất thần vì nhớ nhung. Không biết khi vào trại anh có bị hình phạt gì không? Sau này, những khi ôn lại chuyện thăm chồng, vợ chồng tôi đã đùa với nhau là hai cái hôn sấm sét. Anh có biết trải bao đoạn đường từ Nam ra Bắc mới được nhìn người yêu, mới được ôm vội vàng nửa phần đời trong tích tắc mà mấy tên cán bộ đang xỉ vả mình đây này.

Nhưng em quyết đi thăm anh, tìm anh, và em đã được gặp anh.

Dù vất vả, mọi gian nan đã xẩy ra trên đường đến thăm anh, dù đã vượt quá sức chịu đựng của em, nhưng em đã mãn nguyện là anh còn sống, và em đã được ôm và được hôn anh dù chỉ trong phút giây. Trên đường trở về, lâu lâu mẹ chồng tôi lại ôm vai tôi, nhìn tôi và mỉm cười.
 

Bích Lan
19B

Không có nhận xét nào: