Năm
1956, cuộc nổi dậy của đồng bào huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, là 1 cuộc đấu
tranh đẫm máu chống lại chính sách cai trị dã man của lãnh đạo CSVN, mà qua đó,
chính sách Cải Cách Ruộng Ðất đã là nguyên nhân chính làm bùng nổ cơn phẫn nộ
của người dân. Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu bị đảng CSVN bưng bít tin tức rất kỹ vì
tầm mức ảnh hưởng nguy hiểm của nó; trong khi cuộc đấu tranh của các văn nghệ sĩ
trong biến cố Nhân Văn Giai Phẩm may mắn hơn, được loan tin vào miền Nam VN thời
bấy giờ, với những tài liệu lịch sử rất giá trị. Nhưng không vì thế mà cuộc nổi
dậy Quỳnh Lưu bị chôn vùi với nỗi oan khiên của những nạn nhân đã chết. 1 số
nhân chứng hiếm hoi đã kể lại, viết lại để các thế hệ tiếp nối hiểu được những
gì xảy ra dưới chế độ XHCN. Tội ác của lãnh đạo CSVN không thể đếm bằng số người
dân đã chết. Mục đích của tội ác đã đi ra khỏi giới hạn suy nghĩ của loài
người.<!>
1.
Chính
sách Cải Cách Ruộng Ðất:
Lãnh
đạo CSVN đã bắt đầu cuộc cải tạo nông nghiệp tại miền Bắc khi thực dân Pháp vẫn
còn xâm chiếm nước ta. HCM đã ký 2 sắc luật Giảm Tô (tức giảm số thóc gạo mà
nông dân phải trả cho người chủ đất) số 78/SL ngày 14/7/1949, và Sắc Luật 42/SL
ngày 1/7/1951 về chính sách nông nghiệp của chính quyền kháng chiến, năm trong
toàn bộ chính sách thuế khóa, gồm cả thuế công thương nghiệp, sát sinh, lâm thổ
sản, xuất nhập cảng... Chính sách thuế nông nghiệp đã khởi đầu cho các chiến
dịch phân mảnh định hàng các loại ruộng, bình sản lượng, bình diện tích mỗi mảng
đất để làm căn bản tính thuế, sau đó tiến hành chiến dịch chống phản động, đấu
tranh giảm tô kéo dài đến năm 1954, và chỉ tạm ngưng khi chiến trường Ðiện Biên
Phủ bắt đầu nghiêm trọng và sau đó đưa đến Hiệp Ðịnh Geneva ký vào tháng 7/1954.
Kế đến, lãnh đạo CSVN lại tạm ngưng chiến dịch cải cách ruộng đất tới cuối năm
1955, đầu 1956, vì (1) CSVN bận lo đón tiếp hơn 50,000 bộ đội miền Nam tập kết
ra Bắc, (2) Phải đối phó với phong trào di cư và cuộc biểu tình đòi di cư của
người dân vùng Ba Làng (Thanh Hóa), (3) Phải che dấu phần nào thủ đoạn tàn bạo
để trấn an lòng dân, che mắt các quan sát viên quốc tế của Ủy Ban Kiểm Soát Ðình
Chiến và ổn định tình hình nội bộ. Giai đoạn thứ hai của cải cách ruộng đất bắt
đầu từ cuối năm 1955, lãnh đạo CSVN tiếp tục phát động phong trào quần chúng qua
nhiều đợt đấu tranh cải cách ruộng đất.á Trong giai đoạn này, hình thức đấu
tranh cải cách ruộng đất cũng giống như đấu tranh giảm tô, nhưng khác ở mức độ
tàn bạo cao hơn gấp bội và số nạn nhân cũng gia tăng do sự càn đi, quét lại và
kích tỷ lệ. Ở 1 số nơi, như các vùng vừa tiếp thu và đồng bằng bên bờ sông Nhị
Hà chẳng hạn, CSVN tiến hành song song 2 chiến dịch đấu tranh giảm tô và cải
cách ruộng đất 1 lượt. Ðiều cần nhấn mạnh là CSVN đã bắt chước y hệt chính sách
cải cách ruộng đất ở trung quốc, nên đã cho các cán bộ học tập kinh nghiệm
nguyên văn cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu ở Hồ Nam, quê hương của mao trạch
đông. Ở trung quốc, ngoài ruộng đồng bao la bát ngát, 1 địa chủ điển hình còn có
lâu đài, dinh cơ và quân lính riêng để bảo vệ sản nghiệp, cũng như để đàn áp và
bóc lột nông dân. Trong khi ở miền Bắc VN, cái mà CSVN gọi là địa chủ đại gian
đại ác thường chỉ có mấy mẫu ruộng, nhưng thuộc thành phần có uy tín ở nông thôn
(thường giúp đỡ người nghèo) và có thể trở thành đối tượng chống đối đảng và nhà
nước. Trung ương đảng CSVN đã trao cuộc đấu tranh cải cách ruộng đất cho trường
chinh lãnh đạo và hồ viết thắng, Ủy viên Trung ương đảng phụ trách điều hành.
Dưới trung ương có các đoàn cải cách ruộng đất cho mỗi tỉnh và dưới cấp đoàn có
các đội cải cách ruộng đất cho từng xã. Các đoàn và đội đều nhận lệnh trực tiếp
từ trung ương mà không cần qua Ủy ban hành chánh địa phương. Thành phần trong
các đoàn, đội đều được tuyển lựa là thành phần cốt cán, bần cố nông, là đảng
viên trung kiên đã chiến đấu trong bộ đội. Càng về sau, chính sách cải cách
ruộng đất càng khốc liệt bởi phần đông đội viên toàn là những người trẻ tuổi,
cuồng tín, được bồi dưỡng tư tưởng đấu tranh giai cấp, căm thù thật sự. Vì thế,
trong năm 1956, riêng đợt cải cách ruộng đất Ðiện Biên Phủ đã đưa số nạn nhân bị
tàn sát lên đến 10,000 người. Ðội cải cách ruộng đất đã trở thành công cụ giết
người ghê rợn của chế độ. Sự tàn sát lên cao vì chính sách kích tỷ lệ (nâng tỷ
lệ) của CSVN. Thí dụ: cứ mỗi xã có 100 gia đình thì dù đủ hay không, có hay
không có, đội cải cách ruộng đất của xã đó phải tìm cho ra ít nhất là 5 gia đình
địa chủ (tỷ lệ 5%), nếu hơn thì càng tốt. Trong 5 gia đình này phải quy cho được
2 gia đình là cường hào ác bá để xử tử. Nếu đội không làm đủ tiêu chuẩn sẽ bị
phê bình là thiếu ý thức đấu tranh giai cấp, công tác kém cỏi. Nghe 1 đoạn thơ
tuyên truyền của thi sĩ Tố Hữu, ta sẽ thấy sự dã man ra sao:
Giết,
giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Cho
ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cho
Ðảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ
Mao chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt
Mục
tiêu cuộc cải cách ruộng đất còn là cơ hội để đảng CSVN mở cuộc thanh trừng quy
mô những đảng viên trong nội bộ hoặc trong hàng ngũ kháng chiến cần bị đào thải
vì không thuộc thành phần vô sản, những người có thể trở thành nguy hiểm cho
đảng vì đã trau dồi những kinh nghiệm đấu tranh, đã có khả năng lãnh đạo, có uy
tín, nắm vững tình hình đảng, quy tụ được thế lực mạnh, và có thể phản đảng.
Chính CSVN đã thú nhận khi có chính sách sửa sai, trong cuộc thanh trừng này có
đến 23,000 đảng viên trung kiên bị chết oan; còn hàng ngàn đảng viên không trung
kiên bị chết một cách đích đáng thì chưa thấy tài liệu nào của đảng công bố cả.á
Rất nhiều cán bộ cao cấp có công với kháng chiến cũng bị kết tội cường hào ác
bá, hoặc tham gia trong các tổ chức phản động như VN Quốc Dân Ðảng chẳng hạn.
Theo hồi chánh viên Nguyễn Văn Thân, kỹ sư thuộc Bộ Thủy Lợi miền Bắc, trước kia
đã từng tham gia nhiều vụ cải cách ruộng đất, cho biết 1 cuộc đấu tố chụp mũ như
sau:
...Cuộc
đấu tố điển hình nhất mà tôi được dự là lần đấu tố ông Nguyễn Văn Ðô, Bí thư
huyện ủy tại Ô Cầu Giấy, ngoại thành Hà Nội... Nạn nhân Nguyễn Văn Ðô là Bí thư
huyện ủy, rất có công với kháng chiến nhưng lại bị kết tội là cường hào ác bá và
có chân trong tổ chức Quốc Dân Ðảng. Chủ tịch đoàn nói rằng ông lợi dụng chức vụ
của Ðảng để hoạt dộng cho Quốc Dân Ðảng. Người đứng kể tội là 1 nông dân trước
kia đi chăn ngựa cho ông Ðộ 1 cụ già khác lên tố về việc cướp đất ruộng nương và
cô con cái của ông lên đấu tố là đã bị ông cưỡng hiếp tất cả 177 lần. Ðến khi
ông Ðô được phép lên phát biểu ý kiến nhận tội, ông đã cứng cỏi trả lời: Ông
không phải là Quốc Dân Ðảng, ông chỉ làm việc cho Bác, cho kháng chiến mà thôi.
Ông trả lời cô con gái là: Thưa bà, bà còn quên đấy, tôi đã hiếp cả mẹ bà để đẻ
ra bà nữa. Câu trả lời này làm mọi người phải bật cười và làm đấu trường mất vẻ
tôn nghiêm. Chủ tịch đoàn vội vàng hô khẩu hiệu Ðả đảo tên Ðô ngoan cố để đàn áp
và che lấp tiếng nói của ông. Sau đó họ không cho ông nói tiếp. Họ nghị án và
quyết định xử tử ông ngay tại chỗ. Cuộc đấu tố này kéo dài từ 5g sáng tới 13g
trưa mới xong.
Rất
nhiều người thuộc thành phần trung nông (trung nông cấp thấp: vài sào (acre)
đất; trung nông cấp cao: 1-3 sào và 1 con trâu), tiểu thương cũng bị kích lên
thành địa chủ (địa chủ thường: 3-5 sào hay có khi hơn một chút, không giàu, cho
mướn ruộng lấy địa tô, không có tội với nhân dân; địa chủ cường hào ác bá: 3-5
sào, có tội với nhân dân; địa chủ phản động: đảng viên VN Quốc Dân Ðảng, Ðại
Việt, v.v...). Với dân số miền Bắc vào năm 1956 là khoảng 20 triệu người, có
khoảng 4 triệu gia đình nông dân. Nếu chỉ có 2% gia đình nông dân bị liệt vào
giai cấp cường hào địa chủ, thì số người bị giết ít nhất là 80,000 người. Chưa
kể số người chết tăng lên qua chính sách kích tỷ lệ theo đúng chỉ tiêu do đảng
CSVN đề ra. Sự oán hận của người dân ngày càng dâng cao ở khắp nơi. Nhiều vụ
phục kích giết cán bộ đấu tố và những vụ chém giết giữa bần cố nông và thân nhân
của người bị đấu tố đã xảy ra thường xuyên. Ngay lúc đó, nhiều biến cố chính trị
đã xảy ra tại các nước CS, như Liên Xô, trung quốc, Ba Lan, Hung Gia Lợi. Liên
Xô yêu cầu hồ chí minh thực hiện việc xét lại. hồ chí minh chuẩn bị kế hoạch
ngừng chiến dịch đấu tố vào tháng 3/1956, nhưng chính thức ra lịnh đình chỉ mọi
vụ hành quyết địa chủ vào tháng 10/1956. Trong Hội nghị thứ 10 Trung ương đảng,
võ nguyên giáp đã thay mặt đảng đọc 1 bản thú nhận sai lầm trong cuộc cải cách
ruộng đất. hồ chí minh khóc lóc và đổ cho cấp dưới thi hành chính sách quá đà,
cách chức Thứ trưởng phụ trách cải cách ruộng đất của hồ viết thắng để xoa dịu
lòng dân. Ðảng CSVN cũng thả 12,000 đảng viên còn sống sót trong tù vì bị kết
tội địa chủ, trong số này nhiều người bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành. Tuy
nhiên oán thù của người dân không vì thế mà nguôi ngoai. Nhiều vụ nổi dậy, bạo
động lớn nhỏ đã xảy ra sau đó, như Quỳnh Lưu (Nghệ An), Hải Phòng, Lạng Sơn....
Trong thời gian này cũng có những vụ bạo động khác như những vụ thanh niên và
công nhân Nam Bộ tập kết đập phá bót cảnh sát ở bờ hồ Hà Nội (cạnh ga tàu điện,
đầu phố Cầu Gỗ).
2.
Cuộc
nổi dậy Quỳnh Lưu:
Sau
cái gọi là Nghị quyết sửa sai của đảng CSVN về những đợt cải cách ruộng đất đẫm
máu, các nạn nhân đã tìm những cán bộ thanh toán món nợ truyền kiếp. Các đảng
viên CS trung kiên được thả về từ nhà tù, được khôi phục quyền hành, khôi phục
đảng tịch, liền tìm ngay các đồng chí đã tố sai để trả thù. Do đó, tình trạng
xung đột, giết chóc giữa đảng viên cũ và đảng viên mới lan rộng khắp mọi nơi. Uy
tín của đảng bị sụp đổ, cán bộ hoang man, lo sợ tột độ.
Ở
nông thôn, các đảng viên đi họp phải mang búa theo để thảo luận với nhau. Những
địa chủ được tha về, thấy tình trạng làng xóm bất ổn như vậy, vội vàng chạy ra
thành phố ở nhờ các gia đình tiểu tư sản hồi kháng chiến đã trú ngụ ở nhà mình.
Các bần cố nông trót nghe lời đảng tố điêu nay bị sợ rạch mồm, cắt lưỡi, cũng
vội vàng chạy ra thành phố để đạp xích lô và đi ở thuê. Vì vậy, số dân ở Hà Nội,
Nam Ðịnh đột nhiên tăng lên gấp bội và không khí căm thù ở nông thôn lan ra
thành phố, ảnh hưởng đến giới công nhân, tiểu tư sản, sinh viên và trí thức,
dùng báo chí lên tiếng chống đảng, thì cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu đã làm đảng CSVN
rất lo sợ. Toàn thể nhân dân tỉnh Nghệ An, gồm đủ mọi thành phần giai cấp ở các
xã Quang Trung, Tân Nho, Diễn Tân, Vạn Kim, Diễn Ðức, Diễn Ðông, Diễn Nguyên,
Minh Châu, Ðức Vinh, Hồng Thăng, Ðại Gia, Yên Trung đã mở 1 đại hội để tố cáo
những chính sách cai trị tàn ác của chế độ. Ban tổ chức đại hội còn mời luôn cả
cán bộ VC thuộc cấp tỉnh và huyện đến tham dự để chứng minh tinh thần đấu tranh
cho tự do của nhân dân.
Sau
nhiều giờ thảo luận, đại hội đã đồng thanh lập bản kiến nghị nguyên văn như
sau:
-
Yêu cầu trả lại cho chúng tôi những vị linh mục chánh sở và tất cả những vị giáo
sĩ bị bắt bớ giam cầm.
-
Yêu cầu trả lại cho chúng tôi xác các vị linh mục đã bị hành quyết và của những
vị đã bị thủ tiêu.
-
Yêu cầu trả lại những tài sản của địa phận, của thánh đường, của Ðức Mẹ đã bị
chính quyền tịch thu hoặc xung công.
-
Yêu cầu đền bồi thanh danh của các giáo sĩ đã bị nhục mạ và danh dự của các giáo
hữu đã bị vu khống.
Cán
bộ VC rất căm tức những lời kết án của dân chúng, lúc đầu họ nhất định không ký
tên, nhưng với áp lực của hàng ngàn người, họ bắt buộc phải ký vào quyết nghị.
Ban tổ chức đã gởi bản quyết nghị này đến 4 nơi: Tòa thánh La Mã (qua trung gian
của Ðức Khâm sứ Dooley), Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến, hồ chí minh và gởi đến
chính quyền quốc gia miền Nam. Phía CSVN đã tìm đủ mọi cách ngăn chặn bản quyết
nghị đến tay Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến.
Dân
chúng đã dùng ngay chính sách sửa sai của CSVN để đòi lại chồng con đã bị giết,
tài sản đã bị cưỡng đoạt và đòi được di chuyển tự do vào Nam như đã cam kết
trong Hiệp định Geneva. Giữa lúc đó, được tin chiều ngày 9/11/1956, Ủy Ban Kiểm
Soát Ðình Chiến sẽ đi qua Cầu Giát để lên Hà Nội, hàng ngàn người đã kéo ra
đường số 1 chờ đợi. Ðồng bào đã góp đơn lại giao cho 6 thanh niên đại diện đưa
thư. Mấy ngàn đồng bào đã nằm ngay trên đường để chận xe lại. 6 thanh niên đã
đưa cho viên sĩ quan Ấn Ðộ trong Ủy Ban mấy vạn lá thư đựng trong bao bố. Viên
sĩ quan này cho biết sẽ trình lại cấp trên và trả lời vào ngày thứ Bảy trong
tuần. Sau đó, ngày 10/11/1956, khoảng 10,000 nông dân đã mở đại hội lần thứ hai
tại xã Cẩm Trường để bàn thảo về ngày thứ Bảy. Mọi người đều tỏ ra hân hoan khi
biết sắp sửa từ bỏ địa ngục trần gian. Nhưng ngay lúc đó, CSVN đã điều động 2
đại đội chủ lực và 1 đại đội công an võ trang huyện Diên Châu về xã Cẩm Trường
để giải tán đại hội nông dân. Bạo động đã xảy ra. Tiếng súng và lựu đạn nổ vang
trời. Mặc dù tay không nhưng khí thế quần chúng quá mạnh, những người phía sau
đã tràn lên thay cho những người gục ngã phía trước.
Cuối
cùng, dân chúng đã bao vây đồn bộ đội, công an vào giữa. Ðêm hôm dó, CS đưa thêm
2 trung đoàn về bao vây 10,000 nông dân tại xã Cẩm Trường. Dưới cơn mưa phùn lất
phất cuối đông, cảnh tượng bi hùng đã diễn ra ở 1 trận địa giữa 10,000 nông dân
và 2 vòng trong ngoài đầy những công an và bộ đội. Tờ mờ sáng này 11/11/56, các
bà mẹ đã đánh trống, mõ kêu gọi dân chúng quanh vùng đến tiếp cứu. Xã Diễn Châu
như bị động đất. Rồi 30,000 nông dân kéo đến vây phía ngoài 2 trung đoàn chính
quy của CS, trở thành 1 vòng bao vây thứ tự Cuộc nổi dậy bộc phát quá lớn, quá
mau, đã đi ra ngoài sự tiên liệu của cả 2 bên. hồ chí minh rất căm hận biến cố
này vì Nghê An là quê quán của ông ta, nhưng hồ chí minh chưa biêt cách giải
quyết thế nào để gỡ thể diện cho mình và đảng. CS cũng tìm cách liên lạc với
Giám mục Trần Hữu Ðức nhờ ông giải quyết, nhưng ông đã trả lời: Tôi không biết
về vấn đề chính trị, vì tôi là 1 nhà tu hành. Lúc bấy giờ, phía dân chúng đã có
1 số lượng vũ khí đáng kể, tịch thu được từ bộ đội. Chưa bao giờ 1 cuộc nổi dậy
ở miền Bắc lại có đủ tất cả thành phần dân chúng, kể cả các đảng viên
CS.
Ðêm
11 rạng ngay 12/11/1956, 1 số nghĩa quân lén trở về Quỳnh Lưu để tổ chức biểu
tình yểm trợ cho dân quân xã Diễn Châu. Ðêm hôm đó, 3000 thanh niên các xã Do
Xuyên, Ba Làng và Nông Cống (tỉnh Thanh Hóa) đã kéo vào yểm trợ nghĩa quân. 4g
sáng cùng ngày, 1 Ủy Ban Biểu Dương Lực Lượng Nông Dân Quỳnh Lưu và Ủy Ban Tiếp
Tế Nghĩa Quân được thành lập. Phụ nữ, trẻ em đã mang gạo, thực phẩm đến xã Cẩm
Trường, nơi cuộc đấu tranh đã bước vào ngày thứ 3.
Rạng
ngày 13/11/1956, 1 cuộc biểu tình vĩ đại với sự tham gia của gần 100,000 đồng
bào tỉnh Nghệ An. Bài hát Quỳnh Lưu Khởi Nghĩa đã được truyền đi khắp nơi, hoà
với những đợt trống, mõ vang lên liên tục:
Anh
đi giết giặc lập công
Con
thơ em gửi mẹ bồng
Ðể
theo anh ra tiền tuyến
Tiêu
diệt đảng cờ Hồng
Ngày
mai giải phóng
Tha
hồ ta bế ta bồng con ta
Cuộc
biểu tình đã tuần hành tiến về Ty công an Ngệ An, hô thật to những khẩu hiệu:
Lương giáo đoàn kết chặt chẽ sau lưng các nghĩa quân, Lương giáo quyết tâm chống
CS khát máu, Tinh thần Quỳnh Lưu bất diệt... Công an tỉnh lẫn trốn từ lâu trước
khí thế này. Dân chúng thi nhau nhảy lên nóc Ty công an, xé tan cờ đỏ sao vàng,
đạp vỡ ảnh HCM và các lãnh tụ CS quốc tế.
Trước
tình hình này, hồ chí minh ra lịnh cho văn tiến dũng điều động Sư đoàn 304 từ
Thanh Hóa, Phủ Quỳ và Ðồng Hới về bao vây nghĩa quân. Sư đoàn này quy tụ nhiều
bộ đội miền Nam tập kết mà hồ chí minh muốn xử dụng, thay vì dùng bộ đội sinh
quán ở miền Trung hoặc miền Bắc, để có dịp trút tội cho binh đoàn miền Nam nóng
tính nàỵ Trận địa tại xã Cẩm Trường đã lên đến 5 vòng đai giữa dân quân và VC.
Buổi chiều cùng ngày, nghe tin dân quân xã Cẩm Trường bị Sư đoàn 304 vây, gần
hàng chục ngàn người đã tiến về xã Cẩm Trường để tiếp cứu. Vòng đai chiến trạn
đã tăng lên lớp thứ 6. Buổi tối ngày 13/11/1956, hơn 20,000 nông dân từ Thanh
Hóa lại kéo vào tiếp viện, mang theo đầy đủ lương thực tính kế trường kỳ đấu
tranh.
Ngày
14/11/1956, văn tiến dũng huy động thêm Sư đoàn 312 vào trận địa quyết tiêu diệt
nhân dân Quỳnh Lưu. Khi vòng đai thứ 7 thành hình, hồ chí minh ra lịnh tiêu diệt
cuộc nổi dậy có 1 không 2 trong lịch sử đấu tranh chống VC.á Trước bạo lực đó,
nông dân vẫn cứ quyết tâm tử chiến để bảo vệ căn cứ. Lịnh của ban chỉ đạo nghĩa
quan được truyền đi: Chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để giải phóng dân tộc.
Nhưng vì vũ khí quá thô sơ, nghĩa quân phải rút vào rừng sâu. Sau khi trận chiến
kết thúc, quân đội VC đã xông vào các làng Thanh Dạ, Song Ngọc, Cẩm Trường bắt
tất cả già trẻ lớn bé giải đi. Họ tra khảo từng người để tìm ra ban chỉ đạo đấu
tranh nhưng vô hiệu, vì bất cứ ai, kể cả các em thiếu nhi đều tự xưng là người
lãnh đạo cuộc cách mạng này. Không bắt được ai, VC đành thả bà con ra về, nhưng
Hồ Chí Minh tính kế bắt đi Linh mục Hậu và Linh mục Ðôn của 2 xứ Cẩm Trường và
Song Ngọc. Dù 2 vị này đã nói, Chúng tôi là nhà tu hành, chúng tôi không biết gì
đến việc nhân dân, nhưng cũng bị công an kéo lê lên xe giải về Hà
Nội.
CS
bắt 2 vị linh mục phải lên đài phát thanh đổ lỗi cho giáo dân và nông dân, nhưng
2 vị không băng lòng. CS đe dọa nếu không tuyên bố như vậy thì sẽ giáng tội cho
2 vị là những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa phản động này. Họ mang hình ảnh Linh
mục Tấn bị thủ tiêu ở Phủ Quỳ ra dọa nạt. Cuối cùng, 2 vị phải tuyên bố ngược
lại sự thật.
*********************
Dù
nhà cầm quyền CS vẫn cố tình che dấu, xuyên tạc cuộc nổi dậy của nhân dân Quỳnh
Lưu cho đến ngày hôm nay; dù họ đã dùng bạo lực đàn áp, giết và đày ải hơn 6,000
nông dân trong biến cố Quỳnh Lưu, nhưng tinh thần yêu nước, can trường của người
dân các tỉnh miền Trung nói chung, và ở tỉnh Nghệ An nói riêng, đã soi sáng cho
các thế hệ sau con đường chính nghĩa để đòi lại tự do. Người CS rồi sẽ không thể
nào dùng những bàn tay giết người che lấp nổi mặt trời. Những việc làm của họ
rồi sẽ được phơi bày ra ánh sáng.
Ðòi
cho bằng được tự do, công bằng, quyền căn bản của con người không thể xem là 1
cái tội. Dùng bạo lực để áp đặt cho cho 1 tội danh là gieo nỗi oan khuất cho cả
1 dân tộc. Nỗi oan khuất đó đã chồng chất đến trời xanh. Nói về những nỗi oan
sống dưới chế độ CS thì không biết bao nhiêu mà kể. Với những nỗi oan của những
người đã chết, oan khiên đeo nặng những người còn sống, đảng CSVN đã giải quyết
ra saỏ Chỉ là sự im lặng.
Thời
gian cũng đủ chứng minh CSVN không thể trả lời. Nhưng người dân VN có thể sẽ tự
trả lời khi cao trào thèm khát cuộc sống tự do - dân chủ tới hồi chín mùi. Tiếng
trống bi hùng của đồng bào Quỳnh Lưu 41 năm về trước vẫn còn vọng về thúc dục
người có lòng ái quốc, thương nòi trong chúng ta. Bài hát vang trong bầu trời
Quỳnh Lưu như nhắn nhủ gọi người can trường đi tìm chân lý của cuộc sống: con
người sinh ra phải được tự do.
Tài liệu sưu tầm
của JB Nguyễn Văn
Định
Giáo họ Yên Lưu, Xứ
Thuận Nghĩa, Giao phận Vinh
Tài
liệu tham khảo:
-
Trăm Hoa Ðua Nở Trên Ðất Bắc của Hoàng Văn Chí.
-
Cuộc Cải Cách Nông Ngiệp tại Miền Bắc của Võ Trường Sơn.
-
Việt Nam Giáo Sử của Phan Phát Huồn.
-
Cuộc Phiêu Lưu của 1 Gia Ðình Nông Dân của Thập Lang.
Quỳnh Lưu, Nghệ An
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét