Lời mở đầu:
Năm nay, tôi đã 77 tuổi đời. Quay nhìn lại đoạn đường đã qua, tôi đã tự thống kê với 15 năm đi lính, tất nhiên là lính Việt Nam Cộng Hòa, gần 9 năm tù Cộng sản và hơn 20 năm làm việc lao động cho một Xưởng In nhật báo The Washington Post nhờ vượt biên ngay sau khi ra khỏi Trại Tù vào tháng 3 năm 1984. Khi còn đi làm việc, do phẫn uất trong lòng, tôi cố gói ghém thời gian để tự thực hiện 3 tập Truyện ngắn từ năm 1990 với bút ký “Vào Nơi Gió Cát” và 2 tập truyện ngắn “Vết thương Việt Nam” và “Chiến Tranh và Tình Yêu”. Bên ngoài, tôi thấy xuất hiện khá nhiều Hồi Ký của một số Tướng lãnh và viên chức của thời Việt Nam Cộng Hòa.
Tôi chẳng thấy thích thú gì khi đọc những trang giấy chạy tội, không trung thực chỉ nhằm bám víu vào những hư không để cố khỏa lấp câu chưởi thậm tệ của cố Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson là “Một bè lũ ác ôn côn đồ”. Thế hệ của chúng tôi lớn lên tại Miền Nam Việt Nam trong một chế độ độc lập và dân chủ đầu tiên, sau ngày Thực dân Pháp rút lui và nền quân chủ của Nhà Nguyễn cáo chung. Như nhà văn Trần Hoài Thư đã viết: “Viết về một người cùng thế hệ, cùng nhịp suy nghĩ, cùng con tim rực lửa, và cùng những ngỗn ngang trên vai, mà thế hệ chúng ta đã bị gánh, bị chịu đựng, bị lợi dụng… thì thật là một điều hạnh phúc. Nhất là đối với những người có kinh nghiệm máu và nước mắt như...
Hơn thế nữa, có lẽ khác với những người sĩ quan khác, anh đã dành thì giờ viết cho bạn bè, đồng đội hơn là bản thân anh…”
Nhìn thấy thế hệ con cháu của mình lớn lên vô tư ở ngoại quốc, tôi bỗng thấy thích kể chuyện về quảng đời 15 năm quân ngũ để chúng đừng quên số phận của khoảng 300 ngàn chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến chống Cộng sản bảo vệ Miền Nam Việt Nam và cả hàng trăm ngàn Thương và Phế binh còn lây lất. Chính nhờ họ chúng mới có được một tương lai tốt đẹp như ngày nay. Hơn thế nữa, tôi có tham vọng muốn chứng minh cái gọi là Quân Đội Nhân Dân Việt Nam mới chính là Quân Ngụy.
Trần Ngọc Toàn, cựu Tiểu đoàn trưởng TĐ4 Thủy Quân Lục Chiến.
Thiếu Úy non choẹt
Tôi tốt nghiệp ra trường Võ Bị Quốc gia Việt Nam vào ngày 22 tháng 12 năm 1962, đúng 22 tuổi đời. Tổng thống Ngô Đình Diệm lên chấp chánh đã cải tổ trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, nguyên là Ecole des Inter-Armes của quân đội Liên hiệp Pháp tại Dalat, thành trường Võ Bị Quốc Gia theo khuôn mẫu của trường West Point Hoa Kỳ. Cơ sở được xây dựng trên ngọn đồi 1515 về phía Tây của thành phố Đà Lạt do viện trợ của Hoa Kỳ. Với chương trình 4 năm Đại học về Khoa học ứng dụng và quân sự từ cấp khinh binh đến cấp Trung và Đại đội trưởng liên Quân chủng, TVBQGVN nhằm đào tạo những sĩ quan hiện dịch chuyên nghiệp cho Quân Đội.
Bước sang năm thứ 4, do nhu cầu chiến trường, Tổng thống Diệm đã đích thân lên chủ tọa lễ mãn khóa cho khóa 16 chúng tôi. Con số hơn 200 sĩ quan tốt nghiệp đã được phân phối đi Không quân 27 người, Hải quân 15, Nhảy dù 3 với Thủ khoa Bùi Quyền, Thủy Quân Lục Chiến 10 với Á khoa Nguyễn Xuân Phúc sau này nổi danh trong trận tái chiếm Cổ Thành Quãng Trị, Lực lượng Đặc Biệt, Biệt Động Quân, và các Sư Đoàn Bộ Binh từ Cà Mau ra đến Huế và Quãng Trị. Chỉ trong vòng 1 năm sau, số tử trận ngoài chiến trường lên đã gần 50 người.
Dù khóa chúng tôi đã được trui rèn thêm ở Trung tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân ở Dục Mỹ trước ngày ra Trường, khi đến đơn vị TQLC tôi cũng không được giao chỉ huy Trung đội. Ít nhất cũng phải 3 tháng mang súng đi theo học nghề từ các Hạ sĩ quan thâm niên vốn xuất thân từ các đơn vị Commando của Pháp.
Tôi thuộc mẫu người phản ứng chậm, theo phân tích tâm lý học. Lần đầu tiên, khi chính thức được làm Trung đội trưởng có hơn 40 TQLC với một số HSQ và hạ sĩ dày dạn kinh nghiệm chiến trường và đám lính ngỗ ngáo, tôi cũng tỏ vẻ mình cũng lì lợm như ai.
Trong cuộc hành quân tìm diệt địch ở vùng đồng ruộng Cai Lậy, Mỹ Tho, khi đang chỉ huy dàn quân tiến vào một bìa làng, với tấm bản đồ trên tay, tôi bị một loạt đạn Việt Cộng bắn xối xả về phía mình. Lính tráng đã đồng loạt nằm xuống nấp. Chỉ còn một mình tôi đứng lớ ngớ do phản ứng chậm. Tiếng súng im bặt ngay loạt đạn đầu. VC chỉ bắn dọa và đánh lạc hướng. Tôi quay nhìn sang bên phải. Người lính gốc Miên nằm dưới mương đã bị trúng đạn. Chiếc nón sắt của anh lật ngửa chứa đầy óc trắng hếu. Khẩu súng Garant vẫn dính trong tay gác trên bờ mương. Máu phun ra ướt cả ống quần phải của tôi. Tôi buộc miệng la lớn: “Y tá đâu?” Cùng lúc ý tưởng chạy nhanh qua đầu. Như thế là con người sống chết có số. Tôi còn đứng như trời trồng đây. Người lính của tôi đã nhanh nhẹn nằm núp xuống mương ngay bên chân phải của tôi. Anh chỉ ló đầu đội chiếc nón sắt. Nếu viên đạn hơi lệch một milimét cũng khiến cho chiếc nón sắt quay đi. Đằng này, viên đạn trúng ngay giữa tam tinh nên mới đi xuyên qua đầu làm vỡ óc. Trong khi ấy tôi là mục tiêu dễ trúng nhất. Lúc ấy, tôi mới thấy lạnh xương sống.
Nhưng từ đó tôi không sợ gì nữa với ý tưởng con người sống chết có số. Sau này, tôi mới biết đám HSQ và lính tráng bảo nhau “Ông Thiếu Úy Đà Lạt này chì lắm”. Từ đó, hình như lính tráng theo lệnh của tôi răm rắp. Đúng là thử lửa. Tây nói là Baptême de feu. Cũng từ đó, quả nói không ngoa, tôi đã “Vào sinh ra tử” hơn cả chục lần trong suốt cuộc chiến bảo vệ Miền Nam Tự Do cho đến cả cuộc di tản khốc liệt từ Quãng Trị về đến Hố Nai Biên Hòa vào cuối tháng 4 năm 1975.
Sau này tôi mới biết, qua sách vở của VC sau năm 75, Cộng sản Miền Bắc VN đã cho bọn VC tập kết năm 1954 vào lại Miền Nam từ năm 1958 cùng với quân chính quy ngoài Bắc. Vũ khí Nga Xô, Trung Cộng, Tiệp Khắc tuồn vào Nam trên bộ lẫn ngoài biển. Từ năm 1962, chúng đã có cả 100 ngàn quân với trang bị AK47, CKC, RPD và B40. Trong khi, Tiểu đoàn 4 TQLC lâm trận Bình Giả vào cuối năm 1964, lính còn sử dụng súng Garant M1, Carbine M1, súng phóng lựu của Mỹ thời Đệ Nhị Thế Chiến. TQLC lại là một đơn vị Tổng Trừ Bị tinh nhuệ của Miền Nam. Người ta đã thử hỏi mấy ông Tướng VNCH biết gì, đã làm gì và chỉ huy mặt trận ra sao. Hay ngu ngơ, tranh dành quyền lực, tham ô nhũng lạm, ăn chơi trác táng, phe đãng nịnh bợ sau ngày Tổng thống Diệm bị hạ sát, bỏ mặc cho lính chết ngoài mặt trận.
Chúng tôi đã đi vào cuộc chiến với tuổi trẻ đầy nhiệt huyết và đầy lãng mạn. Lãng mạn khi chàng hiệp sĩ xuống núi và túi bị mang đầy lý tưởng. Lý tưởng bảo vệ bờ cỏi non sông mang an bình ấm no cho dân chúng. Trong số những người bạn cùng khóa Võ Bị về TQLC, tôi có người bạn học cùng lớp từ thời học trường Trung học Quang Trung tại Đà Lạt là Trịnh An Thạch. Đầu năm 1963, khi rủ nhau cùng vào trình diện Bộ Tư Lệnh Liện Đoàn TQLC còn đóng ở Thị Nghè, chúng tôi đồng lòng cùng đi ra đơn vị tác chiến. Không biết Tư lệnh phó Nguyễn Bá Liên nghĩ gì đã chấm Thạch về Tiểu đoàn Yễm Trợ Thủy Bộ ở ngay hậu cứ.
Do Trưởng phòng Nhân Viên đã cho chúng tôi chọn đơn vị nhưng không ai đáp ứng nên đã quyết định phân phối theo mẫu tự ABC từ Tiểu đòan 1 tới TĐ4 TQLC. Đi TĐ1 có Trần Văn Hiển, TĐ2 với Nguyễn Văn Kim, Nguyễn Xuân Phúc. Ba chàng chử T về TĐ4TQLC là Nguyễn Đằng Tống, Đỗ Hữu Tùng và tôi. Thấy vậy, Trịnh An Thạch nhất quyết xin vào trình diện Tư lệnh phó và xin ra tác chiến. Cuối cùng Thạch được đi TĐ1 với Hiển.
Cuối năm 1963, Trịnh An Thạch đã tử trận trong trận chiến ở Tây Ninh lúc mới 23 tuổi với cấp bậc Thiếu Úy Trung đội trưởng. Thạch mồ côi cha từ bé và lại là con trai duy nhất trong gia đình. Đau thương để lại cho Mẹ già.
Làm sao có thể để cho sự hy sinh trọn vẹn như thế của Trịnh An Thạch rơi vào quên lãng được. Trong khi ấy, bên Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, chúng tôi mất thêm người bạn cùng khóa là Lý Văn Quảng vẫn còn Thiếu Úy độc thân cũng ngã xuống ở mặt trận Tây Ninh. Chúng tôi được tin khi đang tham chiến ở một mặt trận khác.
Hồi thời Tổng Thống Diệm, ra trường với cấp bậc Thiếu Úy, lương bỗng sống rất khuây khỏa. Từ hành quân trở về Sài Gòn, chúng tôi còn kéo nhau đi ăn cơm Tây và xem Ciné. Sau năm 1963, lương lãnh ra chỉ đủ ăn. Mặc đã có chiến phục rằn ri rồi lại độc thân. Sau này lên đến Thiếu tá, Trung tá cũng chật vật.
Sau này, tôi có nghe nói người ta ở đời có nhiều nghề để sống sao lại chọn cái gọi là binh nghiệp. Hình như ai cũng thích nói đến hòa bình. Ai cũng ghê tởm chiến tranh. Nhưng rõ ràng, suốt trong lịch sử loài người, chiến tranh như nỗi đau không rời. Người ta đánh nhau suốt cả hàng ngàn năm nay vẫn còn mãi đến nay. Quốc gia có lãnh thổ tất phải có quân đội để giữ gìn bờ cỏi. Thời bình cũng phải chuẩn bị chiến tranh. Không có quân đội như Tây Tạng đã bị Trung Cộng ngang nhiên xâm chiếm.
Quân đội phải chuyên nghiệp và hùng mạnh trong thời bình. Khi chiến tranh bùng nổ, toàn dân sẽ được động viện như Do Thái. Trừơng Võ Bị West Point của Hoa Kỳ không chỉ đào tạo những Tướng Lãnh như Mac Arthur mà còn Tổng thống Eisenhower nửa. Đội quân chuyên nghiệp chính là khung sườn vững chắc để cuộc tổng động viên của toàn dân cài vào mới chiến đấu hữu hiệu.
Riêng tôi, việc chọn binh nghiệp bắt đầu từ hoàn cảnh gia đình. Mẹ tôi mất khi tôi mới lên 9 tuổi với 3 anh em trai và đứa em gái mới sinh. Đứa em gái của tôi được đem cho người khác nuôi. Còn lại 4 anh em trai tôi. Hai năm sau, cha tôi tái giá với một người đàn bà có một đứa con trai riêng. Ở ngoài, người ta nói là ngũ qủy. Nhưng bên trong, chỉ có 4 anh em tôi phải chịu cảnh Dì ghẻ con chồng từ năm tôi lên 11 tuổi.
May mắn là anh em tôi đều thi đậu vào trường công lập nên không bị mất học. Cho nên khi đậu được Tú Tài tôi liền vội ly khai gia đình xin vào trường Võ Bị Quốc Gia với mộng ước học thêm lên Đại học và tự lực cánh sinh.
Từ đó, tôi trở thành một sĩ quan hiện dịch chuyên nghiệp của chế độ độc lập, dân chủ và tự do đầu tiên của Việt Nam. Tôi phải học tiếng Pháp từ thời tiểu học. Sau lên Trung Học mới học tiếng Anh. Ở Dalat, tôi đã từng thấy Hoàng Đế Bảo Đại chạy ca-nô trên hồ Dalat vì ông Nội tôi đem gia đình từ Huế vào Dalat lúc còn là Hoàng Triều Cương Thổ. Tôi sinh ra và lớn lên ngay ở Dalat.Tôi đã trưởng thành dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Thế mà sau này, chính đơn vị của tôi là Tiểu đoàn 4 TQLC, đã đão chánh Tổng thống Diệm vào trưa ngày 1 tháng 11 năm 1963.
Đão chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm 1-11-1963
Từ trước ngày 1/11/1963, các khóa Sĩ quan Trừ bị ở Thủ Đức, từ K6 đến k12 tốt nghiệp cùng lúc với chúng tôi, chưa có quy chế đương nhiên lên Thiếu Úy. Vài tháng sau khi chính thức được giao chỉ huy Trung đội, tôi được Trung úy Trần Văn Hoán bổ nhiệm kiêm Đại đội phó. Tuy đã tỏ ra có bản lãnh chỉ huy nhưng do tuổi còn quá trẻ nên tôi vô tư và ham chơi.
TQLC vốn là một lực lượng Tổng trừ bị của quân đội. Tiểu đoàn TQLC được tự trị về hành chánh với quân số lên đến 879 tay súng với 4 đại đội tác chiến và Đại đội Chỉ Huy & Hành Chánh. Do đó, nơi nào chiến trường sôi động, ngoài tầm tay của đơn vị địa phương, Tiểu đoàn TQLC được điều động đến để giải quyết mặt trận. Vào đầu năm 1960, đơn vị chúng tôi lội suốt từ Cà Mau qua Chương Thiện, Bến Tre, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Đồng Tháp Mười lên rừng núi Miền Đông, Pleiku, Kontum, xuống Bình định, An Khê, Đỗ xá….
Sau mổi cuộc hành quân kéo dài độ 1 tháng, chúng tôi được rút về Hậu cứ để bổ xung, chỉnh trang trong vòng từ 1 đến 2 tuần lễ.Hậu cứ của Tiểu đoàn chúng tôi ở Vũng Tàu nên tha hồ rong chơi. Có khi, chúng tôi cũng được lệnh về nằm ứng chiến trong Trại Thị Nghè. Hễ ứng chiến thì bị cấm trại. Tuy nhiên, đến chiều tối, thấy tình hình không có gì, bọn tôi rủ nhau ra phố Sài Gòn, Saigon là Thủ đô Hoa Lệ nên thượng vàng hạ cám đều có đủ. Đi hành quân miết nên tiền bạc cũng rủng rĩnh. Lần nào ghé Sài gòn tôi cũng mò vào mấy tiệm sách tìm mua sách báo mang theo trên đường hành quân.
Ở Hậu cứ tôi cũng có một ngăn tủ sách bừa bộn. Một lần, tôi ghé vào tiệm sách Khai Trí, trên đường Lê Lợi. Bước vào cửa tôi giật mình khi chợt nhận ra cô nàng Isabelle ĐTTM ngồi chểm chệ sau quày tính tiền. Vào những năm 56, 57 ở Đalat, trên đường cuốc bộ đến trường, tôi thường gặp một cô nàng gầy mong manh, có khi mặc áo dài, cởi xe đạp về hướng trường Lycée Yersin, trên con đường bờ hồ.
Cũng đôi lần, tôi tinh nghịch vờ chăm chú đọc bài trong tập vở để bước thẳng vào đầu xe đạp khiến cô nàng la oai oái. Về sau, mấy đứa bạn học bên Lycée mới cho biết tên là Isabelle ĐTTM. Lần này, tôi chọn xong một mớ sách báo rồi mang đến quày trả tiền. Tôi nhìn thẳng vào mắt cô nàng hỏi:
“Có biết tôi là ai không?”
Cô nàng tròn xoe hai mắt lúng búng: “Dạ, dạ không.”
“Tôi là người mấy lần suýt bị cô đụng xe đạp trên đường bờ hồ Đà Lạt đây.”
“Thế à. Tôi không nhớ.”
“Thế thì tốt rồi. Bây giờ, tôi mới hành quân về. Túi không có tiền. Cô cho tôi nợ lần sau tôi trả.”
Cô nàng há hốc nhìn tôi lấm lét xanh da mặt ú ớ không nói được gì. Tôi bảo:
“Isabelle cho tôi cái túi.”
Náng ta líu ríu làm theo. Tôi túm hết sách báo bỏ vào rồi quay ngoắt bước ra cửa. Nhìn lại, tôi thấy nàng ta đứng trố mắt nhín theo. Tôi bật cười quay lại móc túi lấy tiền trả và nói:
“Đùa nghịch tí thôi.”
Lúc ấy cô nàng đang làm Tiếp viên Hàng Không Quốc Ngoại. Khi nào rỗi ra ngồi chơi ở Nhà Sách Khai Trí. Nào ngờ sau này nàng ta thành phu nhân của Tướng Nguyễn Cao Kỳ xa vời vợi.
Có lần, ba đứa bạn cùng khóa Võ Bị ở cùng Tiểu đoàn rủ nhau đi ăn trên Chợ Lớn. Nửa khuya, đón xe Taxi con cóc hiệu Renault về Trại gặp chàng tài xế trẻ biểu diễn chạy bằng hai bánh trên Đại lộ Trần Hưng Đạo vắng xe. Chàng tăng tốc độ rồi lách mạnh tay lái cho chiếc xe nghiêng hẳn một bên và tiếp tục chạy cả vài trăm thước. Nào ngờ xe Cảnh sát lưu thông bất chợt xuất hiện hú còi inh ỏi. Bọn tôi phải làm mặt ngầu mới cứu được anh tài xế trẻ.
Những ngày vui của chúng tôi tuy vậy rất ngắn ngủi. Miệt mài ở các mặt trận ngày đêm. Lúc ấy, bọn VC còn đang tránh né để tái tổ chức nên cũng chỉ đánh nhau lẻ tẻ với bọn du kích trong xa xôi. Thiệt hại và tổn thất thường do bắn sẻ, mìn gài, hầm chông và bẫy sập. Đi hành quân Miền Tây tuy phải lội sình lầy ướt quần áo suốt ngày nhưng khi dừng quân có thức ăn đầy đủ và không đánh lớn.
Ra Miền Trung mới thấy khổ. Tìm tức ăn không ra mà gặp VC là đánh lớn. Vào hạ tuần tháng 10 năm 1963, Tiểu đoàn chúng tôi được về Hậu cứ Vũng Tàu sau những ngày lặn lội ở Bến Tre. Mới được một tuần xả hơi, bỗng có lệnh hành quân về Miền Đông. Sáng sớm ngày hôm sau, đoàn xe vận tải từ Quân đoàn 3 đến xếp hàng dài trước cổng Trại. Thầy trò chúng tôi lục tục lên xe. Gia đình binh sĩ, như thường lệ, chạy ra đứng đầy hai bên đường. Thấy mà lòng thương xót. Kiểm điểm xong quân số là đoàn xe lăn bánh. Quân số tham chiến buộc phải trên 70%.
Chuyến đi nào cũng thấy gay go nhưng cũng mặc. Thủy Quân Lục Chiến mà. Đến xế chiều, đoàn xe dừng lại ở một khu vườn cao su bát ngát ở Lai Khê. Lệnh cho xuống đóng quân qua đêm. Dàn quân và bố trí xong là lo đào hầm hố cá nhân phòng thủ. Trọn một ngày sau cũng yên tĩnh. Tôi nằm đong đưa trên chiếc võng nhà binh đọc sách. Nghe nói Tiểu đoàn trưởng đang họp với các Đại đội trưởng.
Rạng sáng ngày 1 tháng 11 năm 1963, lệnh cho thu xếp lên xe về Sài Gòn chống đão chánh. Nghe nói về Saigon lính tráng cười nói hể hả. Tôi in trí như thế. Quân đội chỉ làm theo lệnh thôi. Không thắc mắc. Đoàn xe về đến Xa lộ Biên Hòa vào trạm kiểm soát Cầu Xa lộ đã có ngay Quân cảnh dẫn đường. Thế là đúng rồi. Chắc có đám nào muốn đão chánh theo chân Tướng Nguyễn Chánh Thi đây. Chống đão chánh lại là phe ta đánh phe ta mới khó xử.
Đoàn xe chạy một lèo đến Ngả Bảy Chợ Lớn rồi quẹo đường Cộng Hòa. Đoàn xe bỗng dừng lại ngay trước Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia. Chưa biết chuyện gì đã thấy từ ngoài vào trong Cảnh sát bỏ chạy không còn một mống.
Đám lính ào ào nhảy xuống xe chạy vào Tổng Nha Cảnh Sát trước những cặp mắt ngơ ngác của dân chúng ngoài phố. Tôi nhảy xuống xe, sốc lại dây ba chạc mang khẩu Colt 45 rồi bất đắc dĩ đi vào cổng Trại. Vừa ngang sân cờ, Binh Nhất Sơn, đệ tử của tôi hớn hở chạy ra miệng nói lép xép:
“Thiếu úy ơi, em mới lấy được khẩu ru-lô trong phòng ông Đại Tá Y nè. Còn nguyên si hết à.”
“Đâu dắt tao vô coi.”
Doanh trại không còn một bóng người. Văn phòng của Đại tá Tổng Giám Đốc Nguyễn Văn Y còn nguyên vẹn với bảng tên trên bàn giấy. Tôi quay qua đám lính la lớn:
“Không được lấy đồ của người ta. Ra tập họp hết bên ngoài. Quay tìm ông Hạ sĩ quan Trung Đội phó “Trung sĩ nhất Lý Pit đâu, tập họp lại, chia các vọng gác ngoài cổng chính ngay”.
Tôi mường tượng chuyện gì không ổn đang xảy ra. Đại đội trưởng chỉ vắn tắt: “Mình chiếm giữ Tổng Nha Cảnh sát.” Tôi nghĩ không lẽ mình làm đão chánh.
Ngay sau đó, chúng tôi được lệnh tiến quân theo dọc hai bên đường Cống Quỳnh tiến ra bùng binh bến xe buýt để nhận lệnh. Lính TQLC với ba-lô và súng cầm tay đi hai hàng dọc trong kỹ luật. Khi vừa tới bến xe buýt, tôi vượt lên chợt nhìn ra Đại tá Nguyễn Văn Thiệu, trong bộ kaki vàng với nón hét mang cành lá liễu cấp tá, đứng bên cạnh chiếc xe Jeep nói chuyện với Đại Úy Lê Hằng Minh là Tiểu đoàn trưởng của tôi. Vừa lúc tôi nghe thoáng là TQLC phải chờ Thiết giáp của Đại úy Lý Tòng Bá đến mới đánh vào dinh Gia Long.Lúc ấy vào khoảng 1 giờ trưa ngày 1 tháng 11 năm 1963, tôi chợt nghĩ ra là mình đang tham gia đão chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Cũng vào tháng 11 năm 1960, trong trường Võ Bị, tôi đang làm Sinh viên sĩ quan Trực Liên Đoàn. Lúc ấy, Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh Nhảy Dù, làm đão chánh. Trường ra lệnh cấm trại ứng chiến. Tôi gặp ông Thi khi còn là Trung Úy, năm 1953, trong Liên đoàn Ngự Lâm Quân của Bảo Đại trên thành phố Đà Lạt. Sau đó, nhờ kéo quân về ủng hộ Tổng Thống Diệm đã được thăng nhanh lên tới Đại Tá và được giao làm Tư lệnh một lực lượng thiện chiến tín cẩn là Nhảy Dù. Qua một đêm nằm khèo nghe đài phát thanh Saigon tôi cũng không hiểu ất giáp như thế nào.
Sáng hôm sau, nhằm ngày Thứ Hai, tôi được lệnh điều khiển lễ Chào Cờ của Liên Đoàn SVSQ. Tự nhiên, tôi tuyên bố hôm nay chào cờ không hát bài Suy tôn Ngô Tổng Thống. Và Liên đoàn chỉ hát Quốc Ca rồi tan hàng. Gần đến trưa hôm ấy, một chiếc xe jeep An Ninh Quân Đội vào Trại rước tôi ra trình diện Trưởng Ty. Đến nơi, nào ngờ tôi gặp Đại úy Hợi là người quen trong gia đình. Ông làm mặt giận đập bàn la lớn:
“Ai cho lệnh mi không hát bài Suy tôn Ngô Tổng Thống?”
“Dạ không có ai hết. Tại nghe radio thấy đão chánh nên đã không cho hát thôi.”
“Răng mi ngu rứa. Mi có muốn ra Trung sĩ không?”
Ông còn la lối nhiều nữa nhưng rồi cuối cùng ông điểm mặt nói:
“Mi liệu hồn đó. Thôi về đi!”
Tôi mừng hết lớn đi vội ra xe về Trường. Bây giờ tôi làm đão chánh. Lỡ thua chắc không biết có phải chạy sang Miên không.
Ngay khi xe thiết giáp chưa tới chúng tôi được lệnh tiến về phía đường Công Lý và Lê Thánh Tôn để đánh vào dinh Gia Long. Trung Úy Trần Văn Hoán, Đại đội trưởng cho lệnh khẩu súng không giật 57 ly tiến lên. Phát 57 ly phá tung một lổ hỏng ngay góc Công Lý- Lê Thánh Tôn. Lính TQLC chạy ào qua đường vượt vào tường cao. Bên trong có vài phát đạn bắn ra lẻ tẻ nhưng TQLC không bắn trả. Chỉ trong chưa đầy nửa giờ, TĐ4 TQLC đã hoàn toàn chế ngự dinh Gia Long.
Khi tiến vào phía sau sân dinh tôi thấy lính đang lùa một số quân nhân trong Liên binh Phòng Vệ Phủ TổngThống ra ngoài. Tôi chợt nhận ra ông Thầy cũ trong Trường Võ Bị là Thiếu Tá Huỳnh Văn Lạc. Sau này ông lên Tướng làm Tư Lệnh SĐ9 BB. Tôi vội chạy tới đưa tay chào ông và nói lớn cho đám lính TQLC nghe: “Thưa Thiếu Tá, tôi là cựu SVSQ khóa 16 đây.” Ông giơ tay lên lưng chừng rồi buông thõng xuống với vẻ mặt buồn bã. Tôi không biết làm sao hơn chỉ bảo lính dưới quyền kiếm một chiếc ghế trong nhà ra mời ông ngồi.
Ngay sau đó người ta đưa ông đi đâu tôi không biết nhưng lòng tôi thật vô cùng xao xuyến như mình vừa phạm một tội lỗi gì đó. Tôi đi theo trông chừng đám lính đang đi xục xạo. Xuống tầng hầm tôi thấy phòng của Ngô Đình Lệ Thủy đã bị xáo tung lên hết. Có một người lính ôm một giàn máy quay đỉa chạy ngang, tôi nổi điên rút súng la lớn: “Bỏ xuống ngay không tao bắn.” Chàng ta vội bỏ xuống chạy lên tầng trên. Hình như họ đã lục lọi đến phòng của bà Nhu. Đảo một vòng thấy không còn người lính nào tôi quay trở lên.
Ngay đêm hôm ấy, TĐ2 TQLC đã ra dinh Gia Long bàn giao vị trí. Chúng tôi được chở về Trại Thị Nghè. Ngày hôm sau, nghe nói có phái đoàn Phật giáo xin vào để ủy lạo cho Tiểu đoàn đã có công lật đỗ Tổng Thống Diệm nhưng Thiếu Tá mới thăng cấp Lê Hằng Minh từ chối.
Lòng tôi trăm mối ngỗn ngang. Lần đầu tiên, tôi nằm lặng trên võng suy nghĩ về thế sự.
Từ đó, tôi không còn vô tư nữa. Cho đến ngày phải buông súng tức tưởi. Sau đó, chỉ còn bọn cầm súng chiến đấu ngoài mặt trận phải trải máu và xương để chống lại bọn Cộng sản.
Sau cuộc đão chánh 1-11-1963, Tiểu đoàn của tôi, như các TĐ còn lại của TQLC, đã bị cuốn hút vào cơn phong ba chính trị. Sau ngày trở về Hậu cứ để chỉnh đốn chúng tôi được lệnh tăng phái cho Quân Khu 4 ở Miền Tây. Đoàn xe gồm 35 chiếc xe GMC chạy suốt từ Vũng Tàu qua Sài Gòn rồi trực chỉ xuống tận Cà Mau.
Mỗi lần, đoàn xe luân phiên xuống phà qua sông Tiền và Hậu giang, tôi thấy đám lính hè nhau chạy trước qua sông. Tò mò tôi rảo bước đi theo. Phía sau những quày rạp bán đầy trái cây hai bên bến Phà, luồn lách trên bờ mương có những chòi lá mong manh. Lính TQLC đứng sắp một hàng dọc trước cửa trò chuyện om sòm. Tôi lách vào xem chuyện gì. Lúc ấy mới té ngửa ra là “Ổ nhện” dã chiến. Hình như chỉ có 2 người đàn bà. Thì ra, lính tráng lợi dụng cơ hội để giải quyết của nợ. Tôi quay ra và nói lớn:
“Trả tiền đàng hoàng nghe tụi mày.” Cả đám đồng thanh:
“Trả chớ, Thiếu úy.”
Đúng là tiền lính tính liền. Bọn tôi cũng không hơn gì.
Đi hành quân về Hậu cứ hay Saigon cũng chỉ có 1 hay 2 tuần lễ. Ngoài công việc đơn vị, chiều tối ra phố chẳng gặp được mấy cô gái. Con gái thấy quần áo rằn ri với mủ nồi xanh ngỗ ngáo đã phát sợ rồi. Cha mẹ bạn gái cũ rỉ tai coi chừng sớm trở thành góa phụ. Phải hồi đó đi lính Không quân hay Hải quân dễ cua gái hơn. Mãi đến chiều tối hôm ấy chúng tôi mới đến phi trường dã chiến Cà Mau. Lệnh cho chuẩn bị sáng sớm mai đổ bộ trực thăng Mỹ vào Thới Bình, sông Ông Đốc.
Tờ mờ sáng hôm sau, đoàn trực thăng Mỹ từ Cần Thơ đáp xuống. Mổi chuyến chỉ tải 1 Đại đội. Đơn vị tôi được nhảy trước. Bãi đáp là một vườn trái thơm khá rộng. Vừa gom quân đã nghe tiếng súng VC nổ chát chúa... Tôi và trung đội cứ nhắm hướng súng nổ nhào lên. Vừa chạy lum khum vừa nổ súng. Tôi cũng không có thì giờ móc khẩu súng Colt. Cứ thế mà chạy theo lính.
Khi vượt tới bờ ruộng, vừa nằm xuống tôi thấy một tên VC giơ khẩu súng trường lên ngang khỏi đầu chạy về hướng chúng tôi. Tôi vội la lên:
“Đừng bắn nó”. Không ngờ, từ bên phải tôi, tên đệ tử người gốc Miên cầm lưởi lê nhào tới toan đâm tên VC đầu hàng. Tôi phóng người lên nhào tới đạp té tên đệ tử. Nó còn vùng vằng mắt tóe lửa, nói:
“Tụi VC giết cha tui. Tui thù tụi nó.” Tôi nguôi ngoai dổ dành:
“Nó đã đầu hàng rồi. Dầu gì nó cũng là người Việt Nam”.
Lần đầu tiên, cuối năm 1963, tôi thấy khẩu súng trường CKC của Tiệp khắc mà VC gọi là súng trường bá đỏ vì bá súng làm bằng gỗ đỏ.
Sau đó, trực thăng đã đáp xuống đưa tên tù binh VC về Cần Thơ. VC đã tháo lui chỉ còn vết máu và một số dép râu.
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi được lệnh bố trí chờ trực thăng chở một cấp trên đến. Chừng một giờ sau, trên trực thăng bước xuống là một SQ cấp Thiếu tá rắn chắc người với gương mặt cương nghị và đẹp trai. Ông xuống để bàn giao Tiểu đoàn với đương nhiệm Thiếu tá Lê Hằng Minh, ngay tại mặt trận.
Đó là Thiếu tá Nguyễn Kiên Hùng, cựu TĐT TĐ 3 TQLC tham dự cuộc đão chánh 11-11-1960 thất bại phải chạy sang Kam-pu-chia với Đại tá Thi. Ông xuất thân từ khóa 7 của trường Võ Bị Liên Quân tại Dalat. Ông tỏ vẻ rất điềm đạm và đầy tự tin.
Ngay sau khi bàn giao, ông họp các Đại đội trưởng để tiếp tục hành quân. Tuy nhiên, ông cho biết là đơn vị phải lùng địch dọc theo bờ sông Ông Đốc về đến Cà Mau ngay trong ngày để sáng hôm sau phải lên xe về ứng chiến tại Saigon. Không rõ thế nào, ông đã cất nhắc tôi lên làm Quyền Đại đội trưởng ĐĐ Chỉ Huy. Thiếu Úy Phan Như Đơn lên thay tôi ở ĐĐ2.
Từ đó, với 2 cánh quân tiến song song, đơn vị tôi ì ạch băng đồng lội mương mãi cho đến gần 9 giờ đêm mới đặt chân lên thành phố Cà Mau không gặp bất cứ kháng cự nào của VC. Tờ mờ sáng hôm sau, lính tráng hớn hở leo lên đoàn xe trực chỉ Sài gòn. Ngay đêm hôm ấy, TĐ chúng tôi vào trú đóng trong Trại Thị Nghè. Được một bữa ăn khá đầy đủ với vài chục chai bia Con Cọp Larue.
Được dịp nói chuyện với Thiếu tá Hùng tôi được biết thêm trong nhóm chạy sang Miên có 2 người khóa Võ Bị đàn anh của tôi là Trung úy Nguyễn Quang Minh và Trung úy Thái Trần Trọng Nghĩa vốn là Á khoa của K14 trường Võ Bị Liên Quân Dalat. Vào năm 61, hai SQ này đã theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam từ Nam Vang.
Sau này, không ai rõ số phận hai SQ này. Có tiếng đồn, sau năm 75, có người thấy Thái Trần Trọng Nghĩa mặc quân phục Bộ đội VC. Tôi e rằng họ đã chết đâu đấy trên chiến trường Miền Nam.
Nằm ứng chiến dưỡng quân chừng 10 ngày là có lệnh hành quân nhảy trực thăng vào Đức Hòa và Đức Huệ. Đoàn xe vận tải đưa chúng tôi từ Saigon lên tập trung ở một sân bay dã chiến tại Trảng Bàng, Tây Ninh. Từ đây, trực thăng Mỹ bốc từng Đại đội thả xuống ngay giữa rừng Mía cao lút đầu và rộng mênh mông. Theo bản đồ, chúng tôi nhảy xuống ngay bìa Đồng Tháp Mười. Nơi quân số VC đông đảo mò sang từ địa phận của Miên. Ranh giới không thấy có gì làm chuẩn. Dân chúng bảo xóm nhà nào có cây Thốt Nốt là thuộc đất của Miên. Quân chúng tôi tiến theo kế hoạch hành quân của Quân Đoàn.
Ngay xóm làng đầu tiên đã khám phá ra 2,3 tên VC ngậm ống đu đủ nấp dưới ao với cả súng đạn loại CKC. Phá các cây rơm chúng tôi bắt được một số ba-lô Trung Cộng còn mới. VC đã tránh né do thấy không chắc ăn. Bỗng người lính mang máy vô tuyến của Tiểu đoàn chạy đến gặp TĐT. Cuộc điện đàm khá dài trong khi T/T Hùng đuổi người lính vô tuyến ra xa.
Sau nay, tôi mới biết nguyên Trung Úy Nguyễn Quang Minh chỉ huy quân "giải phóng" đã liên lạc với Cấp chỉ huy cũ. Sau đó, suốt năm ngày lùng diệt địch chúng tôi không hề gặp sự kháng cự nào từ phía VC, cho đến ngày chúng tôi băng qua Tha La xóm Đạo về Trảng Bàng, Tây Ninh. Được hai tuần lễ nằm ứng chiến dưởng quân, chúng tôi được lên C120 của Quân Đội Mỹ bay ra Quy Nhơn. Từ đấy, đoàn xe vận tải GMC đưa Tiểu đoàn chúng tôi về nằm dọc theo bải biển Sông Cầu để chờ tham dự cuộc hành quân vào đèo An Khê. Chỉ một tuần sau lại lên xe trở ra phi trường Quy Nhơn để bay về Sài Gòn ứng chiến chống đão chánh.
Sau ngày đão chánh 1/11/63, nhiều xáo trộn và thay đổi diển ra trong Liên Đoàn TQLC. Trung tá Lê Nguyên Khang nguyên Tư Lệnh lên cấp Đại Tá nhưng rồi phải bàn giao cho Trung Tá Nguyễn Bá Liên và Thiếu Tá Trần Văn Nhựt để qua Phi Luật Tân làm Tùy Viên Quân Sự. Đến màn “Chỉnh lý” ông Khang lại về nắm lại chức Tư Lệnh và thăng cấp Thiếu Tướng. Lúc ấy, chưa có cấp Chuẩn Tướng. Rồi Thiếu Tướng Khang kiêm nhiệm luôn Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô và Quân Đoàn III.
Trong khi ấy, Đại Úy Bùi Thế Lân, sau 6 tháng làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ4 TQLC đã trở về làm Tham Mưu Trưởng Liên Đoàn TQLC, với lý do sức khỏe kém, dưới quyền ông Khang. Ngày 1/11/63, Ông BTL đang du học Khóa Amphibious Warfare ở San Diego California, được lệnh triệu hồi về nước. Ngay sau đó, ông lên cấp Thiếu Tá. Chỉ vài năm sau, cũng trong chức Tham Mưu Trưởng Liên Đoàn TQLC ông lên đến cấp Đại Tá. Trong khi, Thiếu Tá Nguyễn Kiên Hùng, Tiểu đoàn trưởng của tôi ở TĐ4 TQLC nguyên cùng thời Tiểu Đoàn Trưởng khi ông Khang làm TĐT Tiểu đoàn 1 TQLC do theo Đại Tá Thi đão chánh 11/11/60, từ Kampuchia trở về vẫn còn mang lon Thiếu Tá. Từ đó, người ta buộc phải cho ông đi học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu ở Đà Lạt.
Trung tá Nguyễn Thành Yên nguyên là Tiểu đoàn trưởng TĐ2 TQLC được giữ làm Tư Lệnh Phó Liên Đoàn nhưng quyền hành đều nằm trong tay của ông Khang và ông Lân. Ông LĐQ nguyên là Trung Úy ở Phòng 2 Liên Đoàn được bổ nhiệm làm Chánh Văn phòng cho Tư Lệnh LNK cũng lên cấp Trung Tá chỉ trong vòng 2,3 năm. Từ đó, các cấp chỉ huy cũ lần lượt phải ra đi khỏi binh chủng như Thiếu Tá Hoàng Tích Thông, Cổ Tấn Tinh Châu, Trần Văn Nhựt về sau lên làm Tư Lệnh SĐ 22 BB.
Riêng Đại tá Tôn Thất Soạn vốn là một SQ đầy bản lãnh, đạo đức và rất điềm đạm, ông từng chỉ huy đơn vị chiến đấu suốt từ chức vụ Trung đội trưởng lên Đại đội trưởng đến Lữ đoàn trưởng với hàng chục tuyên dương công trạng trước Quân Đội và huy chương Silver Star với chữ V mà ngay cả hàng ngũ Tướng lãnh Quân đội Hoa Kỳ cũng hiếm có. Là một người có thừa tư cách làm Tư Lệnh TQLC, ông đã bị khai trừ ra khỏi binh chủng để dọn đường cho Tham Mưu trưởng BTL.
Riêng ở TĐ4 TQLC, Thiếu Tá Nguyễn Văn Nho về bàn giao đơn vị với Thiếu Tá Nguyễn Kiên Hùng đi học. Chỉ có mấy ông Tướng là không cần đi học thôi. Đơn vị chúng tôi được lệnh hành quân bình định vùng Tân Niên Tây và Tân Niên Đông ở Gò Công, vào đầu năm 1964. Thiếu Tá Nho tổ chức lại nhân sự trong TĐ. Đại Úy, lên lon sau ngày 1/11/63, Trần Văn Hoán được giao chức vụ Tiểu Đoàn Phó và bàn giao Đại đội lại cho Thiếu Úy Đỗ Hữu Tùng. Từ Đại đội Chỉ Huy tôi được bổ nhiệm quyền Đại đội trưởng Đại Đội 1 cho Đại Úy Nguyễn Thành Trí đi du học Hoa Kỳ. Sau này, trở về ông tiếp tục lặn lội ngoài hành quân cho đến ngày lên Đại Tá Tư Lệnh Phó Sư Đoàn TQLC. Lúc ấy, tôi còn mang cấp Thiếu Úy nhưng không còn non choẹt nữa.
Nhân cuộc hành quân lùng địch ngoài bờ biển Tân Niên Tây, Trung đội do Thiếu Úy Trần Xuân Quang chỉ huy đã chạm súng nhẹ với du kích quân và khám phá ra Khẩu súng 75 ly không giật. Đại đội chúng tôi được huy chương và được cho về Mỹ Tho dự cuộc diễn hành. Anh em chúng tôi chẳng bận tâm và bất cần chuyện gì. Miễn sao được về phố ăn nhậu một bữa cho đã thôi.
Lòng vòng ngoài phố chợ Mỹ Tho, tôi chợt gặp người bạn cùng khóa phục vụ ở Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Lê Hữu Cừ trông vẫn không mấy thay đổi la lớn khi thấy tôi:
“Ê, Toàn Cao Bồi, mày đi đâu lang thang đây?”
“Tao về dự cuộc diễn binh. Còn mày ra sao rồi?”
Lê Hữu Cừ chậm rải trả lời:
“Tao đổi qua Đại đội 7 Trinh Sát. Nhưng bây giờ tao phải đi bay thám thính với tụi Mỹ hàng tuần.”
Bọn tôi mừng rỡ choàng vai nhau ghé tiệm Tầu góc phố. Đó là lần gặp nhau cuối cùng. Vài tháng sau, tôi được tin bạn tôi đã mất tích trong một phi vụ thám sát. Lê Hữu Cừ cũng chỉ mới 24 tuổi đời và đã hy sinh ngoài trận địa khi còn độc thân. Thật tình, tôi chỉ xót xa cho số phận của bạn bè. Tôi không hề nghĩ tới phận mình. …. “Chí làm trai da ngựa bọc thây” mà!...
Sau ngày Tổng thống Ngô Đình Diệm bị hạ sát, chương trình Ấp Chiến Lược bị bỏ rơi. Trong khi, ngày đêm Cộng sản Ngoài Bắc, với viện trợ của Liên Xô và Trung Cộng, liên tục tuồn người và vũ khí vào Nam, trên bộ lẫn ngoài biển. VC quấy phá khắp nơi. Trong cuộc hành quân càn quét từ Mỹ Tho qua Bến Tre, khi tiến quân vào một xóm Giồng, đơn vị tôi khi không bị trực thăng của Mỹ xả súng Đại liên bắn xuống. Đơn vị tôi bị chết và bị thưong 4,5 người. Tôi định cho lính bắn hạ máy bay. Nhưng Tiểu đoàn trưởng đã kịp ngăn chặn nhờ Cố vấn TQLC Hoa Kỳ bắt được liên lạc. Do ở cấp nhỏ nên tôi không hề tiếp xúc với Cố Vấn Hoa Kỳ. Mãi đến lúc ấy tôi mới để ý.
Cố Vấn TQLC Hoa Kỳ
Hồi năm 1963, tôi nghe nói Đại Úy TQLCHK làm Cố vấn cho TĐ4 TQLC đã bị tử thương khi về nghỉ ở Khách sạn Majestic, Saigon khi nơi này bị VC đặt bom nổ. Về sau, khi hành quân ở Tầm Vu, Vĩnh Long, tôi thấy anh chàng Cố Vấn hớt hãi chạy về Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn nói:
“Thật khủng khiếp quá! Tao thấy lính của tụi mày treo ngược một con chó trên cành cây rồi cầm lưỡi lê cắt cổ nó. Dã man quá!”
Chúng tôi chỉ cười không nói gì khiến chàng ta càng bực tức. Do cuộc hành quân đã kéo dài cả hơn tuần lễ nên thức ăn cũng thiếu thốn, ngay cả với Tiểu đoàn trưởng và Cố Vấn Mỹ. Nên chiều tối hôm ấy, bữa ăn của Thiếu Tá Minh và Cố Vấn có thêm món thịt ngon miệng do mấy đệ tử dọn lên.
Mãi đến khi ăn xong, chúng tôi mới tinh nghịch hỏi chàng Cố Vấn:
“Hôm nay, ông ăn thịt thấy ngon không?”
“Thiệt quá ngon.”
“Thế ông có biết thịt gì không?” Chàng lắc đầu mở to mắt nhìn chờ câu trả lời.
“Thì thịt con chó ông thấy tụi lính treo cổ đó.”
Thế là chàng ta chạy ra sau hiên nhà móc cổ moi họng ọe cho ra. Nhưng vô hiệu. Chắc là kỷ niệm khó quên cho một nhiệm kỳ tham chiến ở Việt Nam.
Thật ra, từ nhỏ tôi đã được học lịch sử Việt Nam tới nơi tới chốn ở trường Việt nên tôi ghét Tàu và Pháp thậm tệ. Tất nhiên, tôi cũng không thích người Mỹ vì họ cũng là người ngoại quốc. Một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây. Ý thức bài ngoại như đã ăn sâu trong tâm trí của tôi.
Thế hệ trước tôi rất sính nói tiếng Tây. Tôi nghe mấy ông Tướng chỉ nói chuyện với nhau bằng tiếng Tây. Có khi là tiếng Tây Bồi. Lớp chúng tôi chỉ học lý thuyết tiếng Anh. Còn nói được chẳng có mấy người, trước năm 1963. Nhờ hồi còn học Trung học Việt, tôi theo chân đứa bạn vào học lớp Anh Văn của một ông Mục sư Tin Lành giảng dạy nên tôi cũng lắp bắp được. Trong binh chủng TQLC nhờ thường xuyên gởi SQ sang Mỹ du học ở khoá Basic, tại Quantico, Virginia nên có nhiều người liên lạc được với Cố Vấn Mỹ.
Các SQ Hoa Kỳ sau khi tốt nghiệp Trường Võ Bị Hải Quân Annapolis, tại Maryland, hay từ ROTC chuyển sang TQLC đều phải trải qua khóa Basic School tại Quantico, Virginia. Đa số SQ Quân đội HK không biết gì nhiều về Việt Nam khi họ sang tham chiến.
Từ sau cuộc chiến thắng quân Trục Đức và Nhật, họ đến VN với lòng đầy cao ngạo và nghĩ chẳng bao lâu sẽ dẹp tan “Đám dân quân du kích mặc xà lỏn đi chân trần trốn chui trốn nhủi như hình ảnh mô tả trên Truyền Hình Hoa Kỳ”. Mãi cho đến ngày lâm trận Bình Giã, 31/12/1964, tôi mới có kỷ niệm sâu sắc về người SQ Cố Vấn TQLC Hoa Kỳ.
Người bạn Mỹ đầu tiên cho đến nay vẫn còn liên lạc là Trung Úy Phil O Brady. Sau cùng anh lên Đại Úy tại mặt trận Bình Giã rồi giải ngũ. Gần cuối năm 1964, khi tôi làm Đại đội trưởng ĐĐ1 của TĐ4 TQLC, Cố Vấn Mỹ là Đại Úy Frank Pete Eller. Nhân một ngày đem Đại đội ra ứng chiến tại Phi trường Biên Hòa, tôi được Cố vấn đưa đi theo một anh chàng Trung Úy TQLCHK cao to hơn tôi cả cái đầu. Lúc ấy tôi còn mang lon Thiếu Úy. Chàng ta đến gặp tôi với vẻ mặt nghiêm nghị và tự xưng:
“Tao là Trung Úy Brady, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ.”
Tôi đưa tay chào và nói:
“Tao là Thiếu Úy Toàn.”
Thế thôi. Theo thói thường khi đi hành quân, xuống đoàn xe tải, thầy trò chúng tôi cứ kéo nhau đi ngổn ngang trên sân bay. Chợt Trung Úy Brady chạy tới nói lớn với tôi:
“Sao mày không tập họp Đại đội rồi đi đều bước đàng hoàng mà để lính đi lộn xộn như vậy?”
Tôi nổi nóng định xì nẹt nó một trận nhưng nghĩ lại không nói gì mà chỉ cười khẩy. Tôi thầm nghĩ thằng này mới ra Trường đâu biết gì. Không hiểu sao, từ đó chàng ta thích tìm tôi nói chuyện. Lúc ấy, tôi mới nói với chàng ta rằng tao cũng xuất thân từ trường Võ Bị Quốc Gia và cũng đã từng đi diễn hành ở Sài Gòn nhiều lần. Cơ bản thao diễn là nghề của tao mà. Tao đi chiến đấu đã gần 2 năm rồi. Nếu mày thắc mắc gì cứ hỏi tao, OK. Điều quan trong nhất là từ nay mày cố giữ liên lạc với Quân Đội Mỹ để yễm trợ và tải thương cho tụi tao thay vì bắn lầm vào quân bạn.”
Có một hôm, sau khi đi lòng vòng thăm chở đóng quân, Brady ghé đến chổ tôi nói:
“Tao đi lòng vòng thấy tụi lính đứa nào cũng ôm một chiếc Radio nghe nhạc gì tao khộng biết. Tao nghe tiếng e é lên xuống trầm bỗng.”
Tôi cố gắng giải thích:
“Chắc mày thấy tụi nó nghe Cải Lương Vọng cổ đó. Giống như Mỹ nghe Country Music đó mà”.
Ba- lô của Brady lúc nào cũng đầy các thức ăn lạnh và đồ hộp Mỹ với chai rượu Whisky mỏng dẹp. Cho đến ngày Tiểu đoàn chúng tôi nhảy Trực thăng vào mặt trận Bình Giã, Phước Tuy, Brady hầu như không rời tôi một bước.
Có khi, tôi nói nửa đùa nửa thật:
“Mày cao lớn quá, lại mang theo máy truyền tin gắn ăng ten cao ngồng nên tránh xa tao ra không lỡ VC bắn sẻ trúng tao đó.”
Sau khi Thiếu Tá Eller, cố vấn trưởng bị trúng đạn lúc tiến quân vào rừng Cao su Long Giao, Phil Brady lên thay thế. Chàng đã nhanh chân chạy thoát khỏi trận địa vào ngày 31/12/1964.
Trở ra làng Bình Giã, chàng đã cố gắng phối hợp quân bạn để lập lại chủ động trên chiến trường cũng như tản thương những người lính sống sót. Chàng cũng đã liều lĩnh theo chân quân bạn trở vào chiến địa tìm tôi nhưng không kết quả. Bởi 3 ngày sau, tôi mới một mình bò về lại làng Bình Giã với 3 vết đạn thù trên ngực và chân phải. Trong khi ấy, Brady được gọi về Sài Gòn để được trao tặng huy chương Silver Star với chữ V và thăng cấp Đại Úy. Tôi cũng mới được đương nhiên lên Trung Úy ngày 22/12/64 sau 2 năm ra Trường.
Hết nhiệm kỳ 1 năm, Brady xin giải ngũ. Ngay sau đó, chàng ta xin trở lại VN làm việc cho USAID rồi phóng viên cho hệ thống truyền hình NBC cua Hoa Kỳ. Chàng còn lập gia đình với một cô gái Bình Dương và chung sống cho mãi đến nay. Sau này, vào năm 1972, khi theo học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu của TQLCHK, tại Quantico, Virginia, tôi được mời dự cuộc họp mặt của các cựu Cố Vấn TQLCHK tại Woodbridge, VA, từ đó, tôi mới biết thêm về ý nghĩ của các SQ đã từng làm Cố vấn cho TQLCVN.
Với họ, chúng tôi đối xử không thân thiện như các quân binh chủng khác và thậm chí còn thù nghịch nữa. Như trường hợp Đại tá Nguyễn Thành Yên, Thiếu Tá Hồ Quang Lịch cầm súng rượt đánh CV Mỹ vì không làm theo yêu cầu tản thương cho lính dưới quyền. Đại Tá Nguyễn Thế Lương bỏ đói Cố Vấn. Trung Tá Đỗ Hữu Tùng đuổi CV Mỹ về lại Sài Gòn..v.v..
Tôi đã phải cố soạn một bài viết ngắn để lên diễn đàn giải thích cho họ hiểu và được vổ tay tán thưởng nồng nhiệt khi tôi lấy trường hợp của tôi với Phil Brady. Cho đến nay, trong số hơn 360 SQTQLC Hoa Kỳ đã từng làm Cố Vấn đã có 52 người lên Tướng của Quân Đội Hoa Kỳ. Trong số có Đại Tướng Boomer và Đại Tướng Joe Hoar.
Trong suốt cuộc chiến Việt nam, từ năm 1960 đến 75, nhờ Phái Bộ Cố Vấn TQLC Hoa Kỳ sát cận nên chúng tôi luôn nhận viện trợ trực tiếp của TQLC Hoa Kỳ, vốn là một binh chủng lừng danh. Nguồn tiếp vận không qua tay Bộ Tổng Tham Mưu của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Tuy nhiên, đối với Quân Đội Hoa Kỳ, ngân sách của TQLC nằm trong Bộ Hải Quân và tương đối nhỏ so với Lực lượng Hải Quân. Dù sao, nguồn tài trợ hay quân dụng và quân cụ cũng không bị thất thoát qua guồng máy tham nhũng. Người Cố Vấn TQLCHK sau cùng của tôi là Trung Tá Joey Strickland. Thực ra Strickland cũng không phải là CV mà là bạn học cùng khóa Chỉ Huy và Tham Mưu TQLC Hoa Kỳ, tại Quantico, VA, với tôi.
Sau ngày mãn khóa, Joey tình nguyện sang phục vụ bên Việt Nam. Strickland nguyên là Tiểu đoàn trưởng Trinh Sát của TQLCHK. Năm 1973, Strickland đảm nhận công tác trong phái bộ Quốc Phòng HK bên cạnh Sư đoàn TQLCVN, đương nhiên là Cố Vấn làm việc trực tiếp với Tư Lệnh SĐTQLC. Lúc ấy, hệ thống Cố Vấn Hoa Kỳ đã giải tán trong kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh cho Mỹ rút quân. Khi ra thăm TQLC trấn đóng ngoài Quảng Trị, Strickland đã một mình tìm ra tận nơi đóng quân của TĐ4TQLC ở Chợ Cạn để gặp tôi. Do tình bạn đã hình thành khi học trong Trường, chúng tôi khá thân với nhau.
Sau năm 75, nhờ Strickland tôi mới còn có được một số hình ảnh chụp ngoài chiến trường Quãng Trị. Tôi đã thẳng thắn cho Strickland biết rõ tình hình mặt trận. Ngược lại, Srickland cũng không ngại cho biết về tình hình chính trị bên Mỹ và cuộc rút quân Mỹ ra khỏi VN.
Dù sao, tôi cũng không tin CS có thể dễ dàng tiến chiếm Miền Nam như đã xảy ra. Chúng tôi cũng sẽ đánh nhau tới cùng. Vào tháng 10 năm 1974, Strickland được triệu hồi về Mỹ.
Trước ngày về nước, Strickland thu xếp ghé thăm tôi và khuyến cáo tôi nên lo cho gia đình vì chắc chắn Mỹ sẽ bỏ Việt Nam. Tôi không làm gì được vì trong tay còn trách nhiệm cả gần 800 tay súng. Bạn bè chúng tôi cũng trao đổi rằng nếu cùng lắm sẽ phải tử thủ Miền Tây Nam Phần của VN. Tất cả đều tan trong mây khói.
*****
Sang Mỹ, sau chuyến vượt biên vào tháng 5 năm 1984 đến Galang, tôi được gặp lại Joey Strickland trong một chương trình 20/20 của ABC vào năm 1986 khi họ làm một phóng sự về các cựu chiến binh sống sót sau cuộc chiến Việt nam. Từ Hawaii, lúc đang dạy học ở một trường Đại Học, Strickland bay qua Virginia và trao cho tôi một chiến phục TQLC VN với đầy đủ huy hiệu. Strickland cho biết khi trở về làm việc tại Bộ Tư Lệnh TQLCHK tại Hoa Thịnh Đốn đã nghe tin Miền Nam thất thủ, vào khoảng tháng 5 năm 1975, từ viên Trung Tá TQLCHK bàn giao chức vụ ở Việt Nam. Về nước, ông này còn được thăng lên Đại Tá. Tức giận về việc cả hàng trăm ngàn chiến binh Việt Nam bị bỏ rơi, Strickland xin giải ngũ và về Hawaii đi học lại. Strickland dò hỏi tin tức về tôi và nghe nói tôi đã tự tử vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Trong suốt cuộc chiến, tôi chỉ có 2 người bạn Mỹ đúng nghĩa bạn là Phil Brady và Joey Strickland.
Ngày nay, tại Viện Bảo Tàng của TQLC Hoa Kỳ, trong căn cứ Quantico, tại Virginia Tổ chức thân hữu cựu Cố Vấn Hoa Kỳ đã trưng bày khá nhiều di vật quý giá của binh chủng TQLC Việt Nam cho các du khách thăm viếng. Một vị Trung Tướng nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ tại Okinawa đã đọc một bài diễn văn bằng tiếng Việt, trong một Đại Hội TQLCVN, tại vùng Phụ Cận Hoa Thịnh Đốn. Tướng Smith nói rằng ông rất cảm phục tinh thần và khả năng chiến đấu của TQLCVN và ông đã học hỏi rất nhiều từ các cấp chỉ huy khi ông làm Cố Vấn trên chiến trường.
Hầu như, ngày nay, các Tướng Lãnh của Hoa Kỳ đều đã từng tham chiến tại Việt Nam. Nhiều giải huy chương của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn trên ngực áo Đại lễ của họ. Dù sao, Quân Đội Hoa Kỳ cũng đã tổn thất hơn 58 ngàn quân sĩ trong cuộc chiến bảo vệ Miền Nam Việt Nam.
Trong hình: Thiếu Tá Trần Ngọc Toàn và Trung Tá George Strickland thời chinh chiến; và sau này tại Hoa Kỳ, hai người chiến binh TQLC lại tay bắt mặt mừng trong ngày hội ngộ.
NHỮNG SỰ THẬT VỀ TRẬN BÌNH GIÃ
Từ sau ngày Đão chánh 1/11/63, Tiểu Đoàn của chúng tôi thường bị điều động về nằm ứng chiến ở Sàigòn do những biến động chính trị, sau mỗi cuộc hành quân. Một lần, khi mới về nghỉ tại Hậu Cứ Vũng Tàu 2 ngày, chúng tôi được khẩn cấp tập họp hành quân. Xe của đơn vị phải chạy vòng quanh phố kêu gọi. Cuối cùng, chỉ tập trung được đầy đủ hai Đại đội tác chiến do tôi và người bạn cùng khóa Nguyễn Đằng Tống chỉ huy.
Chúng tôi được xe tải cơ hữu của Đơn vị chở ra Phi trường Vũng Tàu. Nhìn lại chúng tôi mới bật ngửa ra là loại máy bay C47 của Hàng Không Việt Nam với ghế ngồi cho hành khách đâu ra đó. Chúng tôi chỉ nhận lệnh vắn tắt của Thiếu Tá Nho là “Về Sài Gòn để bảo vệ Phi Trừơng Tân Sơn Nhất để chống đão chánh”. Lính tráng nghe nói vui thích lắm. Không lội hành quân mà nằm ngay Sài Gòn.
Xuống phi cơ, tôi được Tư Lệnh Lê Nguyên Khang cho lệnh trấn giữ cổng Phi Long. Bạn tôi nằm giữ Bộ Tư Lệnh Không Quân. Do quá cấp bách không kịp tiếp tế, chiều hôm ấy Đại đội của tôi được xe PX của Mỹ cho ăn sandwich và uống coke. Tôi được Trung tá Nguyễn Ngọc Loan giao cho một giàn hỏa tiển vốn để trang bị trực thăng võ trang để chống xe tăng của Trung Tướng Dương Văn Đức.
Cũng may là mấy ông dàn xếp êm. Nếu không tôi cũng rất đau lòng khi phải bắn quân bạn. Được hai ngày sau, chúng tôi được xe tải chở về lại Vũng Tàu.
Vài hôm sau, tôi được Tiểu Đoàn Trưởng gọi lên ra lệnh đem quân ra trấn đóng từ Bãi Dâu đến Bạch Dinh ở Núi Lớn. Chúng tôi chỉ lo canh gác bên vòng ngoài. Bên trong, tại ba biệt thự, các ông Tướng bị cầm giữ là Trung Tướng Đỗ Cao Trí, Dương Văn Đức, Lâm Văn Phát, Đại Tá Dương Ngọc Lắm. Chiều hôm ấy, tôi thấy chiếc trực thăng Alouette chở Tướng Nguyễn Khánh đáp xuống sau tòa nhà Bạch Dinh.
Trời chạng vạng tối, khi đi lòng vòng kiểm soát lính, tôi nghe tiếng cãi nhau khá lớn ở một căn chòi thưởng nguyệt, bằng tiếng Pháp. Tò mò tôi lần tới mới thấy hai ông Tướng Khánh và Trí qua lại tiếng Pháp với nhau. Chưởi bới thì đúng hơn, nhờ lúc nhỏ tôi có học tiếng Tây.
Vài ngày sau tôi được lệnh rút quân về để chuẩn bị hành quân. Do kế hoạch phối hợp giửa Bộ Tư Lệnh Lữ Đoàn và Phái Bộ Cố Vấn TQLCHK, đơn vị chúng tôi được tập trung ra Bãi Trước, Vũng Tàu, xuống tàu LCU đưa ra cửa biển lên chiến hạm đổ bộ của TQLCHK. Chỉ trong vòng vài giờ hải hành xuôi Nam, chúng tôi nhận kế hoạch hành quân hỗn hợp với Sư đoàn 7 Bộ Binh và Hải Quân Việt Nam. Cuộc hành quân Thủy bộ từ ngoài biển bất ngờ đánh thẳng vào Mật Khu Thạnh Phú của Bến Tre.
Rẻo đất giáp biển Đông được sông lạch bao quanh và rừng cây Đước ngập nước lầy lội như một ốc đão. Quân bộ muốn tiến ra từ đất liền phải trả giá rất đắt do địa thế cản trở và VC phát giác ngay từ xa. Với cả Tiểu đoàn TQLC với hơn 700 tay súng một loạt đổ bộ từ ngoài biển vào đã khiến cho địch quân phải bỏ chạy với một ít loạt đạn cầm chân.
Cơ sở hậu cần của VC còn nguyên vẹn, luôn cả bệnh xá. Ngoài một số VC mặc quần đùi áo bà ba đen với AK 47 và CKC bị toán quân phía trước bắn hạ, doanh trại dã chiến bằng tre gỗ và lá dừa trống vắng không một bóng người trên một diện tích non 10 cây số vuông. Trực thăng Võ Trang đang truy nả đám VC ẩn núp trong rừng câu Đước, về hướng đất liền. Một đàn bò gồm cả mấy trăm con chạy nháo nhác trước tiếng súng nổ.
Đây là một cơ sở của VC để nhận tiếp liệu từ ngoài Bắc VN chuyển vào bằng ghe tàu, luôn cả quân lính chính qui xâm nhập. Ngôi làng đánh cá ven biển cũng không còn một bóng người. VC cũng mở vuông ruộng trồng lúa để vừa nuôi quân vừa đánh lạc hướng phi cơ trinh sát.
Chiều hôm ấy, sau khi đã giải tỏa và chiếm giữ mục tiêu, thầy trò chúng tôi tự thưởng một bữa ăn có thịt bò. Chỉ cần 1 trong số gần 500 con bò mập thịt.
Ngày hôm sau, đơn vị tôi truy lùng địch xuyên khu rừng Đước ngập trong sình lầy. Phải lội ì ạch trọn cả ngày mới được đặt chân lên giồng đất khô của Giềng Trôm, Ba Tri. VC đã tìm mọi cách tránh né. Khi lội qua những vườn Dừa bát ngát, dù được giải khát bằng nước Dừa tươi ngọt lịm, thầy trò chúng tôi cũng lã người với những then ngang và hố dọc, trong tiếng súng bắn cầm chừng lách cách của đám du kích VC. Giày sô và quần áo trận ướt sũng nước từ sáng đến tối. Đêm dừng quân nằm trên võng mắc trên hai gốc Dừa mà quay quắt với đàn muổi nhiều đến ớn lạnh cả người.
Vài ngày sau, chúng tôi thu quân lên xe vận tải về Sài gòn ứng chiến trong tiếng reo hò mừng rỡ của đám lính mệt mỏi... Nghe nói ứng chiến để chống mấy ông Tướng đão chánh và chỉnh lý. Chỉ có anh em chúng tôi chịu gian khổ cho đến khi trúng đạn nằm xuống ngoài chiến địa.
Vào thượng tuần tháng 10 năm 1964, Tiểu đoàn chúng tôi được lệnh di chuyển lên Doanh trại Dĩ An, Biên Hòa, để làm lực lượng trừ bị cho Quân đoàn 3. Thiếu tướng Cao Văn Viên là Tư Lệnh Quân Đoàn. Đầu tiên hết, chúng tôi được thả vào Chiến khu D của VC. Từ đó, đơn vị mở cuộc truy lùng địch về Tân Uyên. Chúng tôi vượt qua đồn điền Cao su của ông Nguyễn Đình Quát là người sau này đã ra ứng cử Tổng thống của nền Đệ Nhị Cộng Hòa.
Ngoài những cuộc chạm súng lẻ tẻ với du kích quân khiến một vài quân sĩ bị thương, chúng tôi lội suốt cả tuần lể xuyên rừng cây và trảng cỏ rậm rạp không gặp kháng cự nào của VC.
Một tuần lễ trước, một toán chiến binh TQLCHK đến từ Okinawa, Nhật Bản, được đưa đến Tiểu đoàn để làm toán OJT thực nghiệm chiến trường Việt Nam. Trưởng toán là Đại Úy (USMC) Pete Cook và 4 Hạ sĩ quan mang cấp từ Trung sĩ đến Thượng sĩ. Họ là những chiến binh đã từng tham chiến ở Nam Hàn.
Khi đơn vị hành quân lùng diệt địch họ được phân phối đi theo 4 Đại đội chiến đấu. Họ tỏ ra gan dạ và thích thú khi cùng binh lính TQLCVN xung phong rượt đuổi VC khi chạm súng.
Chúng tôi hết sức bàng hoàng và lo lắng khi tiến quân qua những ngôi Ấp Chiến Lược được thành hình từ thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm chấp chánh. Nay, các ấp vốn là nơi định cư của giáo dân Công giáo từ Bắc di cư vào Nam đã bị tan rả dưới sức công kích của VC, từ sau ngày 1/11/1963. Một số lớn đã bỏ vườn hoang nhà trống chạy về thành phố do an ninh bị đe dọa ngày đêm. Quân VC xâm nhập với vũ khí tối tân của Nga và Tàu tràn lan khu rừng Miền Đông qua tận biên giới Việt Miên.
Toán OJT của Sư Đoàn 3 TQLCHK dự trù sẽ theo chân đơn vị chúng tôi 1 tháng. Họ được tiếp tế rất đầy đủ.
Khi đơn vị chúng tôi trở về căn cứ Dĩ An tức thì họ được xe đón về nghỉ tại Sài Gòn cho đến khi có lệnh bất thần tập họp ra phi trường Biên Hòa vào ngày 23 tháng 12 năm 1964. Họ đã trở về kịp tham dự hành quân sau những ngày xốn xang với không khí chuẩn bị Mùa Lễ Giáng Sinh.
Tại Thủ đô Sài Gòn, mấy ông Tướng với quyền lực và của cải thu lượm trong tay, còn đang mãi mê trong men chiến thắng sau cái gọi là cuộc cách mạng 1/11/63. Trên tờ Nhật báo Chính Luận, chúng tôi thấy hình ảnh ông Tướng Tôn Thất Đính, mặc chiến phục Nhảy Dù, đang xoay mình trong điệu nhạc Be Bop. Trong khi, ông Đính chưa hề phục vụ trong lực lượng Nhảy Dù và xuất thân từ một Hạ sĩ quan của Quân Đội Viễn chinh của Pháp trong một đơn vị bộ binh. Các phòng trà và khiêu vũ trường đã được phép hoạt động lại. Các ông Tướng đang bận rộn lo tổ chức đình đám mừng lễ Giáng sinh với một kịch bản thật đầy màu sắc.
Trong khi ấy, tại Ấp Chiến Lược Bình Giã, Long Giao, Phước Tuy, gồm các giáo dân Công giáo di cư từ Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh, quân chính qui VC bất thần mở cuộc tấn công tràn ngập. Chi khu quân sự gần đó cũng bị kềm chặt tứ phía. Dân quân tự vệ của giáo xứ phải cùng Cha Xứ rút xuống hầm bí mật. Họ vẫn giữ liên lạc được với bên ngoài nhờ sự bao che tích cực của dân chúng.
Bình Giã là một Ấp Chiến Lược với một ngôi Nhà Thờ chính nằm giữa trên một dải đất cao gồm khoảng 400 thước bề ngang và 1000 thước chiều dọc, về hướng Đông Tây của Bình Ba. Bao quanh là hàng rào kẻm gai với bãi mìn. Người dân phải mở vài đường mòn để ra ngoài trồng trọt cây trái như Chuối, Mía, Đu Đủ....
Hai cổng chính Đông Tây đều có rào và người gác. Lúc ấy, theo tài liệu từ cuốn “Hai ngàn ngày đêm dưới địa đạo Củ Chi” của Dương Đình Lội, VC đã thành lập Sư Đoàn 9, với quân chính qui xâm nhập từ Miền Bắc và tuyển mộ trong Nam, gồm 3 Trung đoàn với bí danh là 261, 262 và 263 do Tư Lệnh Việt Cộng Trần Đình Xu chỉ huy. Trước đây, VC gặp sự chống trả quyết liệt của dân làng Bình Giã khi chúng chuyển quân và tiếp liệu nhận từ biển vào mật khu. Lần này chúng đưa cả Trung đoàn tiến chiếm với mục đích phá vỡ một chướng ngại đáng kể.
Hồi đó, báo chí còn tung tin VC có cả tên Tướng họ Dương chỉ huy nhưng thật ra chỉ có tên Trung đoàn trưởng về sau đã bị bom từ phi cơ sát hại nhờ vào chỉ điểm của dân làng về vị trí đóng quân của Bộ Chỉ Huy VC trong làng. Tin tức từ toán dân quân, dưới hầm bí mật của làng Bình Giã, cho biết quân số của VC lên đến cả Trung Đoàn.
Các ông Tướng bận lo tổ chức tiệc tùng và chia nhau quyền lực nên phó mặc việc hành quân cho những cấp dưới. Khổ một nỗi là những thuộc cấp này gồm toàn những người tay chân bộ hạ thân thuộc chưa hề tham chiến và hiểu biết về tham mưu hành quân. Họ là những kẻ thân tín được thăng cấp vùn vụt từ Đại Úy lên Đại Tá với chức vụ này nọ nhưng chưa hề chỉ huy đơn vị tác chiến, dù chỉ đánh nhau với du kích VC. Thế là, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 cho lệnh 1 Thiết Đoàn Chiến Xa với một Đại đội Biệt Động Quân tùng thiết, từ Phước Tuy lên giải vây.
Đến Bình Ba, khi còn cách Bình Giã non 10 cây số, đoàn quân này bị VC phục kích trong một khu rừng Cao su nằm hai bên trục tỉnh lộ 15. Đoàn xe Thiết Giáp bị đánh tan tành. Thương vong lên đến cả 100 chiến sĩ. Xe tăng bị bắn cháy bởi B40, là vũ khí mới của Trung Cộng trong khi bên này còn dùng súng từ thời Đệ II Thế Chiến của Mỹ. Vũ khí và đạn dược đều bị thu đoạt. Ngay cả người lính tử thương cũng bị VC lột cả quần áo và giày cùng vũ khí cá nhân.
Ngày hôm sau, Tiểu đoàn 4 TQLC là đơn vị trừ bị cuối cùng của Quân đoàn được trực thăng Mỹ bốc từng Đại đội thả vào khu đất trống ở phía Đông của làng Bình Giã. Từ sáng sớm đến xế chiều mới hoàn tất cuộc đổ quân. Lúc ấy, quân VC đã rút lui. Dân làng mừng rỡ đổ xô ra đón quân TQLC. Họ đứng đầy hai bên con lộ trải đá và dúi vào tay mỗi người lính đi ngang một gói thuốc hay một chiếc bánh, trái cây. Thật đúng nghĩa là tình quân dân thắm thiết. Khi ấy, chúng tôi được lệnh tiến nhanh qua làng về hướng quân ta bị phục kích ở Bình Ba, ngay trong đêm.
Ra đến ngả ba tỉnh lộ 15 và Xuân Sơn, Thiếu tá Nho, TĐT, đã quyết định bố trí quân nghỉ qua đêm khi trời đã sụp tối hẳn. Đêm ấy, không hề có dấu hiệu quấy rối của VC. Tờ mờ sáng hôm sau, Tiểu đoàn 4 TQLC lấy trục Nam của tỉnh lộ 15, mở rộng hai cánh quân mở đường về Phước Tuy.
Chưa đầy 2 tiếng đồng hồ sau, Đại đội 1 phát giác nơi Thiết giáp bị phục kích giữa vườn Cao su già bỏ hoang lâu đời. Cỏ mọc cao ngang ngực người lớn. Mùi cháy khét còn quyện lẫn trong sương mù buổi sáng. Xác xe Thiết vận M113 mở toang cửa sau và pháo tháp. Chân càng súng Đại liên chơ vơ mất súng. Xác chiến binh nằm ngả nghiêng ở đủ tư thế. Lòng tôi không kềm được đau xót và căm hận khi thấy các xác tử sĩ đều bị bọn VC dã man lột trần hết quần áo và giầy trận. Tất nhiên vũ khí và trang bị cá nhân đều bị chúng tước đoạt.
Lập tức, tôi ra lệnh bố trí quân và cho người lấy poncho cá nhân bọc lại hết các xác tử sĩ. Đơn vị chúng tôi mở rộng cánh quân lục soát để ngừa phục kích. Nhưng, bọn VC như con thú rừng đã no mồi nên không thấy tăm dạng. Tiểu đoàn phải nằm tại chổ chờ quân xa từ Phước Tuy lên tản thương. Không còn ai sống sót. Mãi đến sau bữa ăn trưa dã chiến, đơn vị chúng tôi tiếp tục mở đường về Bà Rịa, dọc theo trục lộ gần 20 cây số. Do phải mở rộng cánh quân lục soát sâu vào hai bên đường nên Đơn vị về đến ven thành phố khi trời đã sụp tối hẳn.
Cả Tiểu đoàn gồm hơn 700 tay súng phải lùa hết vào một sân banh đá để dừng quân, dựng bếp nấu nướng rồi tìm chổ ngả lưng qua đêm. Tôi ngồi trên một ghế băng gỗ nhìn lính tráng lăng xăng nổi lửa, chạy quanh tìm nguồn nước nấu cơm mà lòng thấy thương xót cho họ. Trong khi, ở Sài gòn người ta mải mê tiệc tùng đón Giáng Sinh.
Rạng ngày hôm sau, chúng tôi lại nhận được lệnh mở đường từ Phước Tuy về Long Thành, dọc theo Quốc Lộ 4 đi Vũng Tàu. Vốn là Lực lượng Tổng trừ bị của Quân Đội, và là đơn vị tự trị về hành chánh, Tiểu đoàn TQLC được đưa đến những nơi mặt trận nóng bỏng nhất để giải quyết chiến trường. Từ đó, các nơi nhận được tăng phái của TQLC sẽ tận dụng tối đa gần như vô tội vạ cho giảm bớt gánh nặng cho họ. Ngoài ra, họ còn được dịp khoe công và đạt thành tích với huy chương và thăng cấp bậc.
Đoạn đường từ Phước Tuy về Long Thành dài cả 50 cây số. Hành quân mở đường trên bộ cũng phải mất cả tuần lễ. Xuyên rừng và lội suối được một ngày, chúng tôi được lệnh tập họp ra đường QL chờ đoàn xe của Quân đoàn chở đến Long Thành. Nghỉ quân một đêm trong vườn Cao su ngoại ô để ngày hôm sau Đơn vị mở cuộc hành quân truy lùng địch từ Long Thành xuyên rừng về hướng Rừng Sát.
Từ phía Nam Quốc lộ, chúng tôi dàn đội hình mở rộng xuyên rừng tiến chậm về hướng Nam. Vài tiếng đồng hồ sau nghe một tiếng súng nổ tôi vụt chạy lên xem mới biết toán lính đi đầu bắn được một con mễnh chạy đâm sầm vào đoàn quân. Chiều nay, hứa hẹn có một bữa thịt tươi ngon.
Mãi đến trưa, chúng tôi dàn quân sẳn sàng vượt qua trảng trống để tiến vào một xóm nhỏ ở bìa rừng. Bỗng từ trong, tiếng súng chát chúa của VC nổ ran, chẳng ai bảo ai, chúng tôi nhào lên tấn công vào xóm nhà. Cuộc xung kích quá nhanh nên Đại đội chúng tôi đã nhảy qua giao thông hào phòng thủ của VC. Trong khi địch còn lúng túng dưới mương đào, cả Tiểu đội VC bị bắn hạ ngay tại chổ. Có lẽ, chúng không ngờ phải đối đầu với một quân số quá đông.
Trung sĩ Nguyễn Văn Trì là Tiểu đội trưởng trong Đại đội của tôi bị trúng đạn VC tử thương. Ông đang chờ đơn vị về lại Dĩ An để nghỉ phép về Hậu cứ Vũng Tàu thăm vợ mới sanh. Tôi rất đau lòng và tự hứa từ nay sẽ cho cấp dưới đi phép ngay trước ngày hành quân. Lục soát và chiếm xong mục tiêu chúng tôi xin tản thương trong khi bố trí quân qua đêm. Thịt con mễnh được chia ra cả Đại đội nhưng chẳng ai vui.
Ngày hôm sau, chúng tôi lên xe trở về lại Dĩ An để tiếp tục ứng chiến. Tình hình chiến sự đã trở nên sôi động. Bên ngoài phố xá vẫn tưng bừng. Chẳng mấy ai quan tâm đến số phận của hàng trăm người lính đã chết tức tưởi trong trận hành quân giải tỏa về làng Bình Giã cách đây chỉ vài ngày, trên tỉnh lộ 15 Phước Tuy đi Long Giao. Thấy trên Nhật báo bán ngoài chợ mấy ông Tướng vẫn còn mặc Đại lễ trắng tinh với lon lá và huy chương đầy ngực ở Sai Gòn.
Đã có người bảo TQLC là kiêu binh. Khi hành quân trở về Hậu cứ lính ra quán ăn nhậu say sưa rồi đập phá, đánh lộn. Có ai từng trải qua gian khổ và sống chết trong gang tấc sẽ hiểu tại sao họ bất mãn. Tuy nhiên, vốn là người chỉ huy đơn vị chiến đấu TQLC tôi biết rõ một điều về người lính trận.
Khi tôi đến đơn vị vào đầu năm 1963, Đại đội của chúng ta gồm gần một nửa là người lính Commando gốc Nùng và Miên. Số còn lại là một ít người Thượng Cao nguyên và những trai trẻ theo gia đình lánh nạn sống khó khăn ở Sài gòn, Gia Định và các thành phố khác. Sau khi được huấn luyện thành người lính chiến, họ không trở nên vô kỷ luật nếu cấp chỉ huy nêu gương cho họ. Thường những tay đi hành quân về ra quán xưng hùng xưng bá, quậy phá lại là những kẻ hèn nhát khi chạm súng.
Ngoài mặt trận, khi súng nổ, tôi luôn đảo mắt tìm những tay quậy phá này lật tẩy khi khám phá ra chàng đang trốn chui trốn nhủi. Với giác quan tôi nhận ra ngay những tay gan lì và trung tín ở đơn vị tác chiến.
Cho mãi đến nay, hơn 40 năm sau cuộc chiến, tôi rất tự hào và hãnh diện rằng mình luôn lo lắng và che chở cho thuộc cấp và đàn em.
Chỉ có mỗi vấn đề là hay chống lại cấp trên. Không thượng đội và hạ đạp.
Từ Long Thành trở về căn cứ Dĩ An, tôi rủ hai người bạn cùng khóa Võ Bị, vốn là Đại đội trưởng ĐĐ2 và ĐĐ4, ra đường đón xe đò về Sài gòn chơi. Theo bảng cấp số, Đại đội trưởng có cấp xe Jeep. Tiểu đoàn đi hành quân xa chỉ có Tiểu đoàn trưởng và Tiểu đoàn phó được mang xe theo. Bọn chúng tôi cũng không thấy phiền lòng mà vô tư ra đứng đường đón xe. Tất nhiên là trốn cấp chỉ huy và định chỉ đi đến chiều rồi trở về. Kéo nhau vào hẻm Casino ăn rồi ra ngồi Quán Kem Mai Hương nhìn con gái Saigòn qua lại. Người đẹp nào đi ngang cũng sợ hãi lấm lét.
Mới chỉ hơn một năm đi trận mà bọn tôi trông già trước tuổi. Lại thêm trách nhiệm chỉ huy gần 140 người lính. Trong ấy, có vài ông Thượng, Trung sĩ bằng tuổi cha của mình. Lang thang một lúc lại vào rạp Lê Lợi xem phim “Cầu Sông Kwai” về đám lính Đồng Minh bị quân Nhật bắt tù binh đưa sang Miến Điện mở đường Xe Lửa. Ra về, bọn tôi lòng buồn man mác rủ nhau ghé quán ăn rồi lên xe Đò trở về đơn vị.
Vừa đứng lúc, Thiếu tá Nho gọi lên họp hành quân. Tiểu Đoàn 4 TQLC, là đơn vị trừ bị cuối cùng của Quân Đoàn 3, sẽ được Trực thăng Mỹ đổ bộ vào sáng sớm hôm sau để giải tỏa làng Bình Giã và bắt liên lạc với Tiểu đoàn 33 và 38 Biệt Động Quân đang bị VC cầm chân bên ngoài vòng đai Ấp Chiến Lược.
Ngày 28/12/1964, Tiểu đoàn 33 BĐQ được trực thăng vận vào mặt Đông Nam làng Bình Giã sau tin VC đã chiếm đóng. Tin tức từ điện đài dưới hầm bí mật của Cha Xứ Làng Bình Giã đã cho biết quân số VC lên cả Trung đoàn. Nhưng Cấp Trên chẳng ai tin và cũng chẳng ai bận tâm. Quân số BĐQ đổ bộ chỉ hơn 100 tay súng. Cũng chỉ còn sử dụng Garant M1 và Carbine. VC đã đào hầm bố trí quân dọc theo khuôn vườn Chuối nằm giữa khu đất trống làm bãi đáp Trực thăng và hàng rào Bình Giã.
Ngay sau khi Trực thăng cất cánh, khi BĐQ còn đang lóng ngóng thu quân, VC đã đồng loạt xung kích. Tiểu đoàn 33 BĐQ vừa phải chống trả vừa dạt vào làng. Nhờ sự hổ trợ tích cực và gan dạ của dân làng, BĐQ bám được ngôi Nhà Thờ Chính. Dù với cả trăm tay súng đều bị thương tích nhưng BĐQ đã cầm cự suốt qua đêm, trong khi Tiểu đoàn trưởng và Cố Vấn Hoa Kỳ đều bị thương nặng. Cuộc cầm cự này chính là nhờ sự hổ trợ của dân làng. Họ vừa di tản người bị thương vừa tiếp tế súng đạn bị rơi rớt và tiếp tế thức ăn cho người lính chiến BĐQ.
Giá mà làng nào ở Miền Nam Việt Nam cũng đều mang tinh thần chiến đấu chống Cộng quyết liệt như Bình Giã chắc chắn không còn một mống Cộng sản. Còn nói gì đến ngày mất nước 30 tháng 4 năm 1975.
Ngày 29/12/64, Tiểu Đoàn 38 BĐQ được Trực thăng vận xuống phía Tây Nam của Bình Giã rồi mở cuộc tấn kích bắt tay với TĐ33 BĐQ. Họ đánh nhau trọn ngày nhưng bị địch cầm chân không nối được với TĐ33. Ngày ấy, Pháo binh 150 Ly được đặt mãi tận tỉnh lỵ Phước Tuy nên vô hiệu. Phi cơ không yểm từ Biên Hòa với các Khu trục cánh quạt không làm gì được vì quân bạn quá gần làng dân và VC.
Trước ngày hành quân trực thăng vận vào tiếp cứu Bình Giã, Tiểu đoàn trưởng, theo thông lệ hiện hành, đã cho một số quân nhân đi phép thường niên. Riêng Sĩ quan trong Đại đội, tôi cắt cử Thiếu Úy Trần Xuân Quang, Đại đội phó, và Thiếu Úy Nguyễn Đình Định đi phép. Nhờ đó họ đã thoát trận Bình Giã.
Ngày 29 tháng 12 năm 1964, khi Sài gòn tưng bừng đón Tết Dương Lịch, TĐ4 TQLC được xe vận tải đưa ra Phi trường Biên Hòa. Phi hành đoàn Trực thăng Hoa Kỳ đã nằm sẳn trên phi đạo. Đại đội 1 của tôi được đáp chuyến đầu tiên để thiết lập an ninh bãi đáp cho Tiểu đoàn, ở phía Tây Bắc của Bình Giã. Mỗi đợt chuyển quân chỉ được một Đại đội gồm 120 tay súng. Mỗi phi vụ dự trù mất 1 tiếng đồng hồ, từ Biên Hòa bay về Phước Tuy. Như thế, với 5 Đại đội, đơn vị chúng tôi phải chờ cả 5 giờ mới gom quân đầy đủ. Tôi linh cảm trận đánh này sẽ dữ dội hơn trước đây.
Ngay từ ngày rời Hậu cứ Vũng Tàu vào cuối tháng 11, với cảm quan này, tôi đã ra lệnh cho các SQ, gồm 5 Thiếu úy, đều phải mang khẩu súng Carbine thay vì khẩu Colt 45 như trước đây để ứng phó với trận đánh lớn. Riêng tôi mang khẩu AR15 mới được Phái bộ Cố Vấn TQLCHK đưa xuống thử nghiệm chiến trường. Tại phi trường Biên Hòa, tôi tập họp Đại đội đề cử T/U Võ Văn Song kiêm nhiệm chức vụ Đại đội phó. Thiếu Úy Song đã ngã xuống trên chiến trường Bình Giã khi đang cầm khẩu Carbine điều động Trung đội tiến chiếm cao địa trong rừng Cao su Quãng Giao.
Ngồi giữa đám lính trên chiếc trực thăng, nhìn xuống cánh rừng xanh thẫm bao la, lòng tôi bỗng rung động khi nhận ra quê hương mình thật đẹp. Tự dưng, tôi nhớ hai câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm:
…“Chàng từ đi vào nơi gió cát,
Đêm trăng này nghỉ mát nơi nao...”
Quay nhìn lại những người lính thân thương đang cúi nhìn xuống dưới đất, tôi lại chợt nhớ hai câu thơ của Epicure học được trong giờ Đano đức học do Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị Trần Ngọc Huyến dạy:
“Seigneur, j’ai vécu puissant et solitaire
Laissez moi m’endormir dans le soleil de la terre...”
Tôi chỉ mới là một Sĩ quan mới 24 tuổi đầu đã mang gánh nặng trách nhiệm chỉ huy 120 quân lính. Ai rồi cũng chỉ chết có một lần. Bọn chúng tôi đi vào chiến trận đầy ắp những mẫu chuyện lãng mạn của Tự Lực Văn Đoàn, bài thơ của Thế Lữ, Quang Dũng.
Trực thăng ào ạt đổ Đại đội tôi xuống khu vườn chuối nằm ngoài vòng đai ấp chiến lược Bình Giã, về phía Tây Bắc. Trong khi, Tiểu đoàn 38 BĐQ đang bám đất phía Tây Nam. Đồng loạt, Đại đội tôi bung ra tứ phía để mở rộng Bãi Đáp. Tôi hạ lệnh hạ cây chuối và đào hầm phòng thủ. Tuyệt nhiên không thấy dấu hiệu nào của VC. Sau đợt đổ bộ Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn, Phil Brady là Cố Vấn phó chạy lên tìm tôi chuyển lệnh mở đường vào làng. Đúng lúc, một vài thanh niên trong làng chạy ra theo đường mòn xuyên bãi mìn la lớn:
“Đừng bắn! Chúng em là dân làng. Việt Cộng đang rút quân!”
Chúng tôi chạy vào làng theo sự hướng dẫn của mấy thanh niên, rồi bung rộng cánh quân về hướng Nhà Thờ Chính. Cùng lúc, Biệt Động Quân vượt lên bắt tay với chúng tôi. Từ đây, chúng tôi tiến nhanh qua làng. Tiểu đoàn 33 BĐQ đang cố thủ đã bắt được liên lạc với chúng tôi. Không ai bảo ai, Tiểu đoàn 4TQLC và BĐQ cùng mở rộng cánh quân, lần lượt tái chiếm lại làng Bình Giã. Không có sức kháng cự nào của VC. Dân làng túa ra reo hò mừng rỡ.
Theo tin, VC đã lặng lẻ rút lui từ tờ mờ sáng về phía làng Xuân Sơn và vườn Cao Su Quảng Giao.
Trực thăng Mỹ đáp xuống với một đám Phóng viên và Nhiếp ảnh viên chiến trường ngoại quốc. Khi tiến quân lục soát ra phía Bãi Đáp đổ TĐ33 BĐQ đã bị phục kích hôm trước, tôi bàng hoàng khi nhìn thấy một số tử sĩ đã bị lột hết quần áo và giày trận còn nằm ngổn ngang trên chiến địa. Thấy một chàng phóng viên Mỹ đi ngang đưa ống kính máy ảnh lên chụp lia lịa, tôi bỗng nổi nóng đưa tay định gạt phắt. Bỗng Phil Brady chận tay tôi lại và nói:
“Để tụi nó làm công việc của tụi nó.” Cũng từ dó, danh từ “Business’ theo tâm tư tôi mãi.
Sau này, tôi mới thấy ở Mỹ dạy học, hoạt động Hướng Đạo, công tác thiện nguyện, truyền đạo, và làm chiến tranh đều là “Business” cả.
Cho mãi đến bây giờ, trên báo chí tiếng Việt trên đất Mỹ, tôi bật cười khi phải đọc đi đọc lại bài viết của những người cứ tự xưng là Phóng viên Chiến trường cho oai. Thật ra, trong suốt cuộc chiến, họ chỉ quanh quẩn, nghe ngóng ở Sài Gòn hoặc cùng lắm ra Pleiku, Đà Nẵng, Huế rồi viết phóng sự đăng báo kiếm tiền. Chắc Phil Brady cũng xúc động mạnh vì lần đầu tiên thấy cảnh chết chóc ngoài mặt trận, từ ngày ra trường Basic của TQLCHK tại Quantico, Virginia.
Sau khi tản thương và cùng dân làng dọn dẹp chiến trường, Tiểu đoàn 4 TQLC đã phối hợp với Tiểu đoàn 38 BĐQ rải quân chia nhau cùng dân làng bố trí phòng thủ chờ lệnh.
Nửa khuya ngày 30 tháng 12 năm 1964, chợt tiếng phèng la và còi trống nổi lên vang dậy trong làng. Liền tức khắc, tiếng súng nổ rền từ ngoài phía Đông của Bình Giã. VC bất thần mở trận tấn kích vào làng. TQLC và BĐQ đồng loạt hợp đồng với dân làng tỏa ra bìa làng phản công quyết liệt. Một vài căn nhà ở sát hàng rào phòng thủ bị bắn cháy. Dân làng không nao núng hè nhau cứu hỏa trong luồng đạn giao tranh. Trực thăng võ trang của Lục Quân Mỹ từ Vũng Tàu bay lên bắn yễm trợ dữ dội. Sau gần một giờ giao chiến, VC đã rút lui trong đêm tối. Trực thăng Mỹ truy đuổi theo sát. Do còn thiếu kinh nghiệm chiến trường nên một phi cơ với 4 phi hành đoàn đã bị trúng đạn VC rơi trong khu vườn Cao su Quãng Giao.
Dàn SQ Tiểu Đoàn 4 TQLC trước Trận Bình Giã. Tác giả Trần Ngọc Toàn đứng thứ hai từ trái sang.
TĐ4 TQLC tử chiến với Trung đoàn 276 vc
Chi tiết về Trận Bình Giã, hồi ức của Trung Úy Trần Ngọc Toàn, Đại Đội Trưởng ĐĐ1/TĐ4 TQLC.
Vì biết phía VNCH sẽ cho quân vào kiếm xác phi hành đoàn trực thăng Hoa Kỳ vừa bị rớt tại Quảng Giao, cộng quân đã đem cả trung đoàn đào hầm hố mai phục, cùng pháo binh chấm sẵn tọa độ chờ quân ta vào ...
Lệnh từ Quân Đoàn 3 đưa xuống, Tiểu Ðoàn 4 hành quân vào trận địa tìm xác chiếc trực thăng với phi hành đoàn gồm 4 người Mỹ đã tử thương như tin tức ghi nhận.
Dù hôm trước, vị linh mục của làng đã cho biết quân số của Việt Cộng lên đến cả trung đoàn (sau này được biết là Trung Ðoàn tân lập Q276) khi tiến chiếm Bình Giã, Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Văn Nho đã ra lệnh cho Ðại Ðội 2 do Trung Úy Đỗ Hữu Tùng chỉ huy, tiến quân vào Quảng Giao.
Khoảng cách đường chim bay từ làng Bình Giã đến Quảng Giao độ chừng hai cây số với rừng thưa, đồi thấp và vườn cao su già bỏ hoang. Ðại Ðội 2 với quân số khoảng 120 người mở đường vào mục tiêu.
Khoảng một tiếng đồng hồ sau, trên hệ thống màu vô tuyến ANPRC10, Trung Úy Tùng báo cáo đã thấy xác chiếc trực thăng bị bắn rơi và cả bốn tử thi người Mỹ. Tức thời, từ phía mục tiêu, tiếng súng nổ ran xen lẫn với lựu đạn và đạn pháo ầm ĩ vang vọng về làng Bình Giã.
Đại Đội Trưởng Ðại Ðội 1 tức tốc ra quân sau khi gặp người sĩ quan bạn đồng khóa ở Trường Võ Bị là Trung Úy Nguyễn Đằng Tống, Đại Đội Trưởng Ðại Ðội 4. Họ quyết định cùng nhau lên đường tiếp cứu quân bạn, trong khi chưa có lệnh hành quân của Tiểu Đoàn Trưởng ban ra chính thức.
Với hai đại đội mở rộng hai bên trục lộ rải đá, từ Bình Giã đến Quảng Giao, và Ðại Ðội 3 làm trừ bị, Tiểu Ðoàn 4 TQLC xua quân lên trận địa. Đề phòng chiến thuật “công đồn đả viện” của Việt Cộng, hai đại đội tiền phong của Tiểu Ðoàn 4 đã mở rộng hơn cánh quân lục soát vào sâu trong rừng hai bên trục lộ. Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn và Ðại Ðội Chỉ Huy di chuyển ở đoạn giữa. Ðại Ðội 3 do Thiếu Úy Nguyễn Văn Huệ bọc hậu làm trừ bị.
Nữa đường tiến quân, Ðại Ðội 1 gặp cánh quân của Ðại Ðội 2 đang rút lui từ rừng cao su Quảng Giao trở ra. Một số binh sĩ của Ðại Ðội 2 tình nguyện hướng dẫn vào nơi chạm súng để thu hồi xác chết đồng đội và phi hành đoàn Hoa Kỳ. Trung Úy Tùng cho biết quân số của Việt Cộng rất đông và có cả một số mặc quân phục chính quy của quân đội Cộng Sản Bắc Việt. Họ dùng cả pháo bắn vào trước khi bộ đội xung phong.
Như vậy, lần đầu tiên trên chiến trường Việt Nam, Việt Cộng đã tập trung lên đến cấp Trung Ðoàn để tấn kích. Trong khi ấy, Tiểu Ðoàn 4 TQLC hành quân vào trận địa không có phi cơ lẫn pháo binh yểm trợ. Nơi xảy ra trận đánh nằm ngoài tầm pháo binh 105 ly tại Phước Tuy, Bà Rịa.
Cuộc tiến quân dè dặt của hai cánh quân đầu chỉ phát hiện một vài cán binh Việt Cộng thấp thoáng trong vườn cao su bỏ hoang với cỏ tranh cao ngang ngực người lớn. Các sĩ quan đại đội trưởng phải kềm quân không cho rượt đuổi sợ địch dụ vào ổ phục kích.
Giữa vườn cao su già Quảng Giao, trung đội do Thiếu Úy Nguyễn Văn Hùng, vừa tốt nghiệp Khóa 19 Võ Bị, chỉ huy đã ngã gục dưới lằn đạn của địch nằm rải rác dài một hàng ngang của đội hình đang xung phong. Tiểu Ðoàn ra lệnh dừng quân bố trí, chờ trực thăng đến tản thương và lấy xác. Lúc ấy vào khoảng 2 giờ chiều ngày 31 tháng 12 năm 1964.
Độ một giờ sau, một chiếc trực thăng Hoa Kỳ từ Vũng Tàu bay lên đáp xuống ở bìa rừng. Họ chỉ nhận 4 tử thi người Mỹ rồi cất cánh. Còn lại mười mấy xác của Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam đều được gói trong poncho chờ chuyến bay khác đến. Mãi đến 4 giờ chiều, sốt ruột vì chờ đợi, Thiếu Tá Nho đã cho lệnh Ðại Ðội 3 và Ðại Ðội 2 còn lại trở về làng Bình Giã.
Công tác chuẩn bị vừa xong thì đợt pháo đầu tiên rớt xuống vị trí của Tiểu Ðoàn 4 rầm rầm. Đạn nổ cả trên ngọn cây cao su làm gẫy cành đổ xuống. Ở phía trước trục tiến quân, Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn gồm Thiếu Tá Nho, Đại Úy Hoán và y-sĩ của tiểu đoàn Trương Bá Hân vội di chuyển về phía làng Bình Giã.
Nhưng đã quá muộn, vòng vây của Việt Cộng bên ngoài đã khép kín.
Tiểu Đoàn Trưởng và viên y-sĩ tiểu đoàn trúng đạn ngã chết tại chỗ. Tiểu Đoàn Phó bị thương ở ngực được người lính gốc Nùng vực cõng lên lưng. Với khẩu súng trường và chiếc ba-lô lủng lẳng trên hai tay, anh đã cõng người chỉ huy chạy thoát về đến tận làng Bình Giã. Khi đặt Đại Úy Hoán xuống, người hạ sĩ này mới phát giác ông đã chết từ lúc nào. Trong thương tiếc đớn đau, anh đã quỳ xuống một bên xác của cấp chỉ huy cả tiếng đồng hồ.
Tại trận địa rừng cao su Quảng Giao, sau đợt pháo mở màn, quân Việt Cộng reo hò xung phong trong tiếng kèn thúc quân giục giã từ tuyến đầu của Ðại Ðội 1 và Ðại Ðội 4 thuộc Tiểu Ðoàn 4 TQLC. Do việc dừng quân bố trí tạm thời, quân lính Thủy Quân Lục Chiến chỉ ẩn sau từng cây cao su, trên mặt đất. Một số đã bị thương vong sau đợt pháo mở đầu.
Phòng tuyến của Ðại Ðội 4 bên mạn Bắc đã bị xuyên thủng. Từ trên đồi trong vườn cao su, Trung Úy T. thấy quân Việt Cộng lẫn lộn cả lính mặc quân phục chính quy Bắc Việt với cây lá ngụy trang cài trên người chạy lúp xúp. Dù vậy, Việt Cộng đã ngưng xung kích để nã pháo vào vị trí của Ðại Ðội 1 và mở cuộc xung phong lần thứ ba nhưng không chọc thủng được phòng tuyến của quân lính nằm rải trên đồi.
Dưới áp lực của Việt Cộng, các binh sĩ Ðại Ðội 3 đành phải rời những xác chết của các đồng đội và kéo rốc lên đồi để tăng cường phòng tuyến của Ðại Ðội 1. Trên đường, Thiếu Úy Huệ, Ðại Ðội Trưởng và Thiếu Úy Dương Hoành Sơn, Đại Đội Phó đã bị trúng đạn tử thương tại chỗ. Phòng tuyến của Đại đội 1 cũng được nối dài ra tận bìa rừng giáp với vườn cao su.
Trong lúc ấy, Đại Úy Cook (sĩ quan được điều đến quan sát chiến trường của Sư Ðoàn 3 TQLC Hoa Kỳ) đã bị trúng đạn ở đùi. Trung Úy Đại Đội Trưởng Đại Ðại Ðội 1 lấy băng cá nhân cột vết thương rồi gọi người lính cận vệ là Binh Nhất Nguyễn Văn Hai giao phó việc đưa Đại Úy Cook tìm đường về làng Bình Giã trước.
Sau này được biết, Binh Nhất Hai và Đại Úy Cook đã ra khỏi trận địa an toàn sau đó và đã bị vòng vây thứ nhì của Việt Cộng chận bắt sống ở bìa rừng. Trong lúc bị dẫn giải ban đêm, Binh-nhất Hai đã tự cởi trói, một mình chạy thoát về lại làng Bình Giã ngày hôm sau. Tin tức được Hà Nội xác nhận vào ngày trả tù binh năm 1973, Đại Úy Cook bị giam giữ luân chuyển ở Miền Nam Việt Nam, đến năm 1968 đã chết vì bệnh. Trong khi ấy, đối với quân đội Hoa Kỳ, Đại Úy Cook vẫn được thăng cấp lên trung tá cho đến ngày được xác nhận đã chết.
Tại mặt trận, sau ba đợt tấn công bất thành, Việt Cộng đẩy mũi nhọn công kích từ phía sau lưng phòng tuyến của Ðại Ðội 1 và Ðại Ðội 3 còn lại. Người xạ thủ súng không-giật 75 ly sống sót đã tự một mình nạp đạn và nã liên tục vào hàng ngũ quân Cộng Sản khiến đội hình của họ nhiều lần tan vỡ, rối loạn. Được biết, sau này người hạ sĩ xạ thủ này đã một mình vác khẩu đại bác 75 ly không-giật chạy thoát về đến làng Bình Giã vào rạng sáng ngày 1 tháng 1 năm 1965.
Phòng tuyến của Ðại Ðội 1 vẫn giữ vững trước nhiều đợt xung phong của Việt Công, dù một số lớn quân sĩ đã bị thương vẫn nằm nguyên tại chỗ. Y tá đại đội Nguyễn Em đã bất chấp hiểm nguy, xông xáo trong màn lửa đạn, chạy quanh lo cấp cứu đồng đội bị thương. Cuối cùng, anh cũng ngã xuống trước lằn đạn dày đặc của quân thù.
Sau gần hai tiếng đồng hồ giao tranh ác liệt, màn đêm chợt phủ chụp xuống khu rừng già và vườn cao su Quảng Giao. Trong thời gian ấy, khi quỳ gối thủ thế bắn, Trung Úy Đại Đội Trưởng Ðại Ðội 1 đã xử dụng khẩu AR-15 lần đầu tiên được Hoa Kỳ đưa đến thử nghiệm tại chiến trường, tỉa hạ ngã gục từng tên lính Việt Cộng chạy lúp xúp với cây lá ngụy trang dắt trên người. Anh đã bị trúng đạn vào bắp chân phải nhưng không còn băng cá nhân để rịt vết thương. Hơn nữa, anh cũng không còn đầu óc đâu để bận tâm đến vết đạn.
Khi trời đã tối xụp, trong bóng đêm đạn lửa của cả hai bên xuyên xỉa như mưa lưới. Một số hạ sĩ quan và binh sĩ từ trên tuyến đầu của đại đội đã rút về quanh Bộ Chỉ Huy và cho biết hầu hết quân sĩ đã nằm gục chết tại tuyến phòng ngự, luôn cả bốn sĩ quan trung đội trưởng. Trung Sĩ Nhất Nguyễn Văn Khiên, Trung Đội Phó, vừa nhìn quanh kiểm điểm, vừa nói: “Đại đội của mình chỉ còn hơn một chục người rút về quanh đây thôi!”.
Trung Úy T. cho lệnh tất cả sẳn sàng để cùng nhất loạt đứng lên, mở đường máu thoát ra bìa rừng về hướng làng Bình Giã. Tất cả vừa chạy vừa bắn và ném lựu đạn bừa tới phía trước. Còn lại theo chân Đại Đội Trưởng chỉ còn Binh-Nhất Nguyễn Văn Khanh mang máy truyền tin liên lạc cấp đại đội và Hạ Sĩ Nguyễn Tú, hiệu chính viên cấp tiểu đoàn.
Vừa chạy cà nhắc do bị thương, vừa bắn về phía trước gần đến bìa rừng, Trung Úy T. bị thương phát đạn thứ hai trên đùi phải kiến lao chao ngã sấp xuống. Đồng thời Hạ Sĩ Tú kêu “hự” một tiếng cũng té xuống theo.
Dưới ánh lửa đạn, Trung Úy T. vội tháo máy truyền tin trên lưng Hạ Sĩ Tú rồi nã súng phá hủy. Binh Nhất Khanh vội ngồi thụp xuống một bên Trung Úy T. hốt hoảng hỏi:
– Sao Mai có sao không? Để tôi cỏng Sao Mai chạy.
Trung Úy T. xua tay nói lớn:
– Tôi bị thương nặng lắm. Chú chạy đi. Về làng Bình Giã. Để mặc tôi.
Binh Nhất Khanh khẩn khoản:
– Tôi không bỏ Sao Mai được đâu. Để tôi ráng cõng Sao Mai đi.
Đại Đội Trưởng Ðại Ðội 1 đã quyết định, với tay đẩy xua Binh Nhất Khanh và nói trong tiếng súng nổ ran không ngừng của tiền quân Cộng Sản:
– Chạy đi! Chạy đi!
Nghe tiếng chân chạy lẫn tiếng réo gọi lao xao của Việt Cộng, Trung Úy T. nằm úp xuống giả chết bên xác đồng đội. Vừa đúng lúc, một tên Việt Cộng ôm khẩu tiểu liên K50 trờ tới, dùng chân đạp vào người Trung Úy T. rồi nổ một loạt súng kết liễu. Một viên đạn sớt qua ngực trái làm cháy xém áo trận của Trung Úy T. Anh vẫn cố trấn tỉnh nằm im giả chết. Lúc đó, quân Cộng Sản gọi nhau ơi ới rút quân. Bổng chốc, tiếng súng ngưng bặt, trả lại sự thanh tĩnh của rừng núi về đêm. Tiếng côn trùng rên rỉ vang lên thay tiếng súng.
Sau đó, trong hai ngày và ba đêm, với hai vết thương được băng bó, Trung Úy T. ôm khẩu súng AR-15 và một băng đạn 15 còn lại, đã bò xuyên rừng về đến phía ngoài cổng vào hướng đông của làng Bình Giã, một mình trơ trọi. Hai vết thương đã ung thối với giòi và kiến bu đầy đặc.
Rạng ngày 1 tháng 1 năm 65, tại làng Bình Giả, với Tiểu Ðoàn 30 bị hao hụt và Tiểu Ðoàn 38 Biệt Động Quân, Trung Úy Nguyễn Đằng Tống đã cùng Trung Úy Đỗ Hữu Tùng gom quân sống sót của tiểu đoàn được suýt soát hơn một trăm tay súng. Họ đã phối hợp lập vị trí phòng thủ chờ quân tiếp viện, dù không còn có dấu hiệu hoạt động của Việt Cộng quanh quẩn. Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù thuộc lực lượng tổng trừ bị của quân đội Miền Nam đã được trực thăng vận xuống Bình Giã.
VẾT THƯƠNG CHIẾN TRANH
Một mình với khẩu súng AR15 còn 15 viên đạn, rạng ngày 3 tháng 1 năm 1965, tôi bò về tới bìa làng Bình Giã. Trên người, tôi bị ba phát đạn K50. Một phát trúng bắp chân và một phát xuyên bắp đùi phải. Loạt đạn “ân huệ” của tên VC tràn lên mục tiêu, khi hắn đạp vào người tôi rồi nổ súng, đã suốt qua ngực trái làm cháy xém áo trận của tôi.
Do tập trung ý chí sống còn, tôi không hề thấy đau đớn tí nào cả. Khi gặp lại quân bạn, từ trong làng Bình Giã kéo nhau vào thu lượm xác trên chiến trường Quãng Giao, tôi mới nhìn lại hai vết thương ở chân phải. Giòi bọ và kiến bu lúc nhúc trên hai vết thương đã ung thối.
Một số dân làng tình nguyện theo đoàn quân tản thương đã bỏ tôi lên chiếc chỏng tre kiệu vào làng. Binh I Nguyễn Văn Hai, là đệ tử của tôi hốt hải chạy theo, hỏi:
“Sao Mai thấy sao? Có khỏe không?”
Tôi trả lời:
“Tao đuối lắm vì mệt và không ăn uống 3 ngày.”
Hai nhanh nhẩu:
“Để tui mua sữa hộp quậy cho Sao Mai uống đỡ”.
Chợt nhớ Đại úy Pete Cook tôi quay sang hỏi:
“Đại úy Mỹ đâu rồi mà mày còn đây?” “Dạ, sau khi Sao Mai dặn đưa ổng về làng trước, em kè ổng vượt qua vườn cao su rồi băng rừng nhắm hướng Bình Giã. Không ngờ gặp vòng đai VC bên ngoài chận bắt. Ổng bị thương ở đùi nên chịu chết không chạy đi đâu được. Tụi nó trói tay dắt đi. Ổng bị kè lên phía trước một mình. Lợi dụng đêm tối em lủi vào bụi rậm, nằm yên cho tới sáng hôm sau em mới chạy về làng.”
Trước ngày lâm trận, Pete Cook đã móc ví lấy hình vợ và đứa con gái nhỏ xíu khoe với tôi. Bây giờ, Cook đã rơi vào tay VC với thương tích trên đùi. Mãi đến năm 1972, trong cuộc trao trả tù binh Mỹ, tin tức mới xác nhận Đại Úy, nay đã thăng lên Trung Tá, Peter Cook đã chết trong một trại giam của VC ở gần biên giới Cam Pu Chia, vào năm 1968.
Trong Tiểu đoàn TQLC, lính gọi Đại đội trưởng là Sao Mai và Tiểu đoàn trưởng là Đại Bàng.
Tôi được chuyển về Bộ Chỉ Huy Hành quân. Đại Tá Nguyễn Thành Yên, Tư lệnh phó Lữ đoàn TQLC từ đâu chạy tới nắm lấy bàn tay tôi lắc lắc nói lập bập:
“Em khỏe không?”
Tôi mỉm cười nhìn ông gật đầu. Trong khi, Binh I Hai đang khuấy ly sữa nóng và đút cho tôi uống từng muổng. Tôi nghe tiếng nói bên tai trong tiếng kinh cầu nguyện của người dân làng:
“Trung úy này lì thiệt. Ai cũng tưởng ổng chết rồi.”
Về sau, tôi mới biết gia đình của tôi trên Đà Lạt đã nhận được tin tôi tử trận từ công điện của Tiểu khu. Ba tôi đã cho dựng rạp trước nhà để chờ mang xác về. Thiếu trưởng Thiếu đoàn Hướng Đạo cũ của tôi cũng cho giăng trướng liễn với người túc trực tại nhà. Ly kỳ hơn nữa là có hai cô gái mặc áo tang ngồi chờ tang lễ. Một cô là người yêu khi còn học Trung học. Một cô mới quen khi còn trong trường Võ Bị Đà Lạt. Bây giờ cả hai cô đều rơi vào dĩ vãng.
Không bao lâu, chiếc trực thăng tản thương Mỹ đáp xuống. Tôi được tản thương về Quân Y Viện Đại Hàn tại Vũng Tàu. Bạn tôi nói sau này là tôi may mắn được chuyển về Vũng Tàu. Nếu về Tổng Y Viện Cộng Hòa, chắc tôi đã bị cưa chân vì vết đạn xuyên đùi đã lở loét thối như mùi chuột chết. Xe cứu thương vừa vào cửa Quân Y viện, tôi nhìn nghiêng qua khung cửa đã thấy lố nhố vợ con gia đình binh sĩ chạy theo nhốn nháo: “Ai vậy? Còn sống hay chết?” Chưa bao giờ lòng tôi thấy chua xót và đau đớn đến thế. Thêm vào đấy là vết thương của tôi gây đau nhức lên tận óc.
Những người lính Quân Y Đại Hàn túa ra giăng tay quanh sau cửa xe cứu thương khi tôi được kéo ra. Tôi nghe tiếng kêu khóc vang lên của gia đình binh sĩ. Tôi mệt mỏi đưa tay vẫy họ. Sau khi, được đưa vào phòng lạnh, Trung Úy điều dưỡng Chun Do Lin vào xem xét. Tôi ra hiệu xin cô tờ giấy và cây viết rồi ghi xuống bằng Anh ngữ tên họ và cấp bậc cùng đơn vị của tôi để nhờ cô chuyển tin cho đơn vị của tôi bên ngoài. Chuyển tin ra ngoài xong cô Lin nhanh nhẹn trở vào và đẩy tôi sang phòng quang tuyến.
Tôi mệt rả rời. Sau ba ngày đêm bò xuyên rừng, bụi gai mắc cỡ đã cào nát khuôn mặt của tôi đến máu khô đen nên chẳng ai nhận ra, kể cả ông Hạ sĩ quan Văn phòng trưởng ở Hậu cứ. Sau khi lột trần tôi ra, Trung úy Chun Do Lin ra sức dùng cồn và xà phòng rửa sạch vết thương mặc cho tôi quằn quại với đau nhức. Vết đạn xuyên qua đùi phải mở rộng bên kia một lổ rộng bằng bàn tay.
Sau này, Y Sĩ Đại Úy Kim Ki Young bảo đấy là một phép mầu. Nếu viên đạn nhích lên 1 độ, xương đùi của tôi đã gảy nát. Trệch xuống 1 độ, động mạch máu của tôi đã vỡ ra và tôi đã bị mất máu chết trong rừng. Lạ thêm nữa, vết đạn bắn phá rộng như thế mà tôi không bị đứt gân chân. Tôi đã thoát chết và không bị cưa một giò để làm người thương phế binh trở về nhà với đôi nạng gỗ. Viên đạn do VC bắn bồi vào ngực chỉ làm phỏng da bên ngực trái gần quả tim. Vết đạn dưới bắp chân trái xuyên qua thịt làm mất luôn một mảng bắp chuối chân.
Rõ ràng, người ta sống chết có số cả. Lúc mở đường máu xuyên vòng vây của VC, ở Bình Giã, chúng tôi, cả thầy lẫn trò, vừa chạy vừa nổ súng và ném cả lựu đạn về phía trước mặt. Trong đêm tối, vết đạn lửa của VC xuyên qua dày đặc như mưa. Thế mà, sau này khi tôi gặp một đệ tử cũ là Hạ sĩ Nguyễn Hiệp mới biết Hiệp bị tất cả 12 phát đạn trên người trong trận Bình Giã.
Khi được tản thương về TYV Cộng Hòa, Y tá tưởng Hiệp đã tử trận, do quá nhiều thương binh và tử sĩ chuyển về, nên đã ném Hiệp vào Nhà Xác. Nửa đêm, tỉnh dậy, Hiệp hoảng hốt bò ra ngoài kêu cứu. Thương binh ngồi gần tưởng ma hiện về bỏ chạy cả. Một lúc sau mới có Hạ sĩ quan Quân Y đến đưa Hiệp vào phòng cấp cứu. Sau gần một năm nằm viện, Hiệp được đưa ra Hội đồng Giám định Y Khoa cho giải ngũ và ăn tiền Phế binh.
Ở Quân Y Viện Đại Hàn Vũng Tàu, ngày nào tôi cũng được nữ Trung úy Chun Do Lin chăm sóc. Cô nàng mới ngoài 20 tuổi và khá xinh xắn. Chúng tôi trò chuyện bằng Anh Ngữ hạn hẹp nhưng cũng đủ thắm tình. Chiều chiều, tôi còn được nàng cho lên xe lăn đẩy quanh khu vườn dưới sân bệnh viện. Tôi còn dám nghĩ mình là nhân vật lãng mạn trong chuyện “Farewell to Arms” của Hemingway. Tuy thế, vốn là Sĩ quan hiện dịch xuất thân từ Trường Võ Bị tôi đeo đẳng binh nghiệp cho đến ngày thua trận mất nước 30 tháng 4 năm 75.
Trong hình: Thiếu Tá Trần Ngọc Toàn và Đại Úy Cook, người được nhắc đến trong bài.
Đại Úy Cook sau khi bị bắt vẫn lần lượt được thăng cấp lên đến Trung Tá (1968).
Sau này, một bạn tù với Đ/U Cook, SQ Hoa Kỳ tên Douglas Ramsey, được thả về trong đợt trao trả tù binh đã viết một lá thư cho Tướng TQLC Robert Cushman. Lá thư kể về hành động anh dũng bất khuất của Đ/U Cook trước sự hành hạ, tra tấn của vc trong chốn tù đày.
Theo Ông Ramsey thì đó là một thái độ bất hợp tác, chống đối toàn diện; và Ông đã dùng một hình tượng ví von thật khôi hài "đến nỗi nếu anh ta (Đ/U Cook) biết phân người được bọn vc làm phân bón trồng rau quả cho chúng thì anh đã không đi cầu".
Trung Tá Cook chết vì bệnh sốt rét trong lao tù cs năm 1967.
Vì lòng dũng cảm đó, Trung Tá Cook được ân thưởng Huy Chương Danh Dự (Medal of Honor), huy chương cao quý nhất của QĐ Hoa Kỳ. Ông là chiến binh TQLC duy nhất được ân thưởng huy chương này xét theo cách hành xử quả cảm trong khi bị địch quân giam cầm.
Trần Ngọc Toàn, cựu Tiểu đoàn trưởng TĐ4 Thủy Quân Lục Chiến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét