Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Ba, 6 tháng 9, 2016

Lá Thư Úc Châu Trang Thơ Nhạc đầu Tháng 9 (7 Sept. 16) - TS Nguyễn Nam Sơn

1. Qua Miền Trung: Phạm Duy - Quang Lê - Lâm Thiên Vân - HX - Gs TranNangPhung - HungThe -   NNS
<!>
2.  Xuân Mong Chờ: Minh Châu - Như Quỳnh - Gs TranNangPhung - HungThe  - NNS
3.  Buồn Tàn Thu: Văn Cao - Ngọc Hạ - GsTranNangPhung - HungThe - NNS
4.  Mùa Xuân Nào Ta Về & Chiều Một Mình Qua Phố: Lam Phương - Trịnh Công Sơn - Như Quỳnh - Tường Nguyên - Tường Khuê - Võ Tá Hân - GS TranNangPhung - HungThe   - NNS
5.  Thu Sầu: Lam Phương - Thái Thanh - Gs TranNangPhung - HungThe  - NNS
Tình thân,
NNS
.............................. .............................. .............................. ...................
I. Chuyện Thời sự & Xã hội Việt Nam

(i) Đỗ Trường: Thái Bá Tân, không thể sống yên lặng
Có thể nói, kể từ ngày lập quốc, chưa có chế độ xã hội nào thối nát, con người vô cảm như hiện nay. Sự vô cảm ấy, làm con người trở nên yếu đuối, và đê hèn. Cả ngàn người viết, hàng vạn người mang danh học hành, bằng cấp, nhưng khó tìm ra một nhà văn, một trí thức đích thực. Vâng! Một đất nước có hồn khí như vậy, chắc chắn đang bước tới hố sâu, và ngõ cụt. Từ đó có thể thấy, thịnh suy dẫn đến sự đổ nát, suy tàn của một triều đại là điều khó tránh khỏi. Đó cũng là qui luật tất yếu của lịch sử. Bởi, cái cũ chắc chắn sẽ được thay bằng cái mới phù hợp với sự phát triển văn hóa, khoa học cũng như khát vọng của con người. Tuy nhiên, để làm được điều đó, cần phải có nhiều yếu tố. Thơ văn và nhận thức tư tưởng thi sĩ nói riêng và của con người nói chung là một trong những ngòi dẫn, yếu tố quan trọng.
Và trong cái gật gù, u mê ấy, nếu được phép chọn ra những nhà văn, thi sĩ ở trong nước gạt bỏ được tạp niệm, bùa chú đó, với tôi, người đầu tiên phải là Thái Bá Tân, Nguyễn Quang Lập, Bành Thanh Bần...
Từ trách nhiệm công dân đến chuyển biến tư tưởng
Nói đến Thái Bá Tân, có lẽ rất nhiều người biết, ông là một nghệ sĩ đa tài. Ngoài tài năng văn thơ, đàn ca sáo nhị, ông còn là dịch giả, một người thày đầy lòng nhân ái.
Thái Bá Tân sinh năm 1949 tại Diễn Châu, Nghệ An, trong một gia đình truyền thống khoa bảng. Ông tốt nghiệp trường Đại học ngoại ngữ Moskau, rồi về giảng dạy tại trường Đại học sư phạm ngoại ngữ Hà Nội, và Ủy viên đối ngoại của Hội nhà văn VN sau này. Có thể nói, ông là một trí thức, con cưng của chế độ CS, được đào cơ bản từ trong cho đến ngoài nước, hiện đang sống và làm việc tại Hà Nội.
Khởi đầu Thái Bá Tân đến với văn chương bằng dịch thuật, rồi truyện ngắn và thơ lục ngôn, bát ngôn... Tuy nhiên, những năm gần đây, ông được mọi người biết đến và yêu mến nhiều hơn với mảng thơ thế sự, xã hội theo thể ngũ ngôn. Thơ thời sự là mảng thơ khó nhằn, khó viết, cho nên rất ít người dám đi đến tận cùng. Bởi, ngoài tài năng, nó cần sự dũng khí, cũng như mất mát, hy sinh không chỉ riêng bản thân người viết, mà cho cả gia đình, dòng họ.
Khi đọc và nghiên cứu Thái Bá Tân, tôi thực sự khâm phục sự lòng dũng cảm, can trường của ông. Thơ ông gắn liền với thân phận đất nước và con người, cũng như phơi bày sự thối nát của chế độ xã hội đương thời. Để có những vần thơ, trang viết này, tôi nghĩ, ngoài tình yêu đất nước, lẽ phải, công bằng, Thái Bá Tân còn được đi nhiều, và hầu hết khắp các châu lục, nhất là các nước tự do dân chủ. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức, tư tưởng của ông. Ta có thể thấy, sự chuyển biến nhận thức, tư tưởng của ông thật rõ ràng về chân tướng cũng như sự lưu manh hóa của chủ nghĩa CS qua bài thơ Cộng Sản:
“...Elsin, ai cũng biết,
Trùm cộng sản Nga Xô:
Cộng sản không thể sửa,
Mà phải chôn xuống mồ.
     Rồi ông Gorbachev:
     Tôi bỏ nửa đời người
     Theo lý tưởng cộng sản,
     Tưởng nó đẹp nhất đời.
Thế mà giờ chua xót,
Phải tuyên bố điều này:
Cộng sản chỉ dối trá,
Luôn dối trá xưa nay.
     Tiếp đến, một trùm nữa,
     Ông Putin, người hùng:
     Ngu mới tin cộng sản.
     Theo cộng sản là khùng.
Từng sống với cộng sản,
Bà Merkel ngày nay
Là thủ tướng nước Đức
Thì phát biểu thế này:
     Cộng sản thật đáng sợ,
     Làm tha hóa con người,
     Biến họ thành dối trá,
     Thờ ơ và lõi đời.
Một người rất đáng kính,
Đức Dalai Lạt Ma
Của nước xưa Tây Tạng
Thì nói với chúng ta:
     Công sản là cỏ dại
     Trên đổ nát chiến tranh.
     Nó là loài trùng độc
     Trên rác đời hôi tanh...”
Đọc nhiều, đi nhiều đã cho Thái Bá Tân sự hiểu biết, để có thời gian nhìn lại mình, và nhận ra giá trị thật sự của đất nước, con người dưới chế độ cộng sản, mà bấy lâu nay từng được tô hồng, che đậy. Qua bài Tự Bạch, ta không chỉ thấy được sự thật nhục nhã ấy, mà còn thấy được tính khẳng khái, lòng dũng cảm của ông:
“...Chứ nói chung là nhục.
Nhục phải làm thằng dân
Một nước giỏi nói phét,
Lãnh đạo thì ngu đần.
     Riêng hai chữ “cộng sản”
     Đã đủ nói phần nào.
     Làm thằng dân cộng sản
     Có gì mà tự hào?
Mà tự hào sao được
Khi mấy triệu dân ta
Vượt biên, thà chết biển
Hơn phải chết ở nhà!
     Tự hào là yêu nước.
     Yêu nước phải biểu tình.
     Mà biểu tình nó oánh.
     Quân ta oánh quân mình.”
Nếu không có nhận thức và biến chuyển tư tưởng, thì có lẽ, thơ Thái Bá Tân không thể có cái đau cùng nỗi đau của dân tộc và đồng loại. Khóc là một bài thơ như vậy. Ngoài sự phơi bày tội ác đày đọa, giết người hàng loạt, một cách dã man của chủ nghĩa CS, nó còn cho người đọc thấy được diễn biến tâm lý của nhà thơ: “Vứt mẹ cái khẩu hiệu / Còn đảng là còn mình./ Thế mai kia đảng chết / Không lẽ mày quyên sinh?” Và từ diễn biến nội tâm ấy, đã đẩy tâm trạng từ ngạc nhiên lên đến sự phẫn uất căm hờn. Có thể nói, nhận thức tư tưởng của nhà thơ đi từ thấp đến cao, và nó đã hoàn toàn tháo bỏ được chiếc ách cộng sản quàng chặt trên mình từ bấy nay:
“Mười mấy năm về trước
Tôi đọc cuốn “Sách Đen
Về chủ nghĩa cộng sản”,
Rồi ngồi thừ, ngạc nhiên.
     Sách đen nhưng giấy trắng,
     Nói về chủ nghĩa này,
     Về số triệu người chết,
     Và người bị đọa đầy.
Khi đọc đến con số
Người Việt Nam, than ôi,
Đã phải chết vì nó,
Tôi khóc cho nước tôi.
     Con số là nhiều triệu,
     Nhiều triệu những mạng người.
     Rất có thể, ai biết,
     Thêm người nữa là tôi.
Gần mười năm sau đó,
Tôi đến Washington,
Và rồi tôi lại khóc,
Khi phẫn uất, căm hờn
     Tôi đứng bên bức tượng
     Nạn nhân chủ nghĩa này.
     Một trăm triệu người chết.
     Một trăm triệu xưa nay...” (Khóc)
Tuy nhiên, cũng cần phải nói thêm, Thái Bá Tân hay Bành Thanh Bần, Nguyễn Quang Lập... họ chỉ là những nhà thơ, nhà văn bình thường, và làm đúng nghĩa vụ công dân. Họ viết và nói lên những sự thật đang diễn ra hàng ngày, khi hàng ngàn nhà văn, trí thức khác lặng im, ngậm miệng ăn tiền. Chúng ta (người đọc) không nên nghĩ, ghép họ với những nhà dân chủ, hay phản kháng xổ toẹt Mác, ly khai cộng sản như các nhà văn: Võ Thị Hảo, Dương Thu Hương, Phạm Thành... để rồi đến lúc thất vọng, buông ra những lời nói, từ ngữ xúc phạm không đáng có, như thời gian vừa qua.
Có điều kỳ lạ, nhiều người không biết sống ở trong nước hay nước ngoài, tên đểu hay tên thật, luôn lớn tiếng cho tự do dân chủ. Thế nhưng chỉ cần một ý kiến, một bài viết khác ý, họ sẵn sàng mạt sát bằng những từ ngữ chợ búa. Tôi không rành về chính trị, nhưng thiết nghĩ, chính quyền rơi vào tay những người này, có lẽ họ còn sắt máu hơn cả CS Mao- Polpot.
Và với tôi, chỉ cần một nửa nhà văn VN, viết và có tư tưởng nhận thức như thi sĩ Thái Bá Tân, Nguyễn Quang Lập, Bành Thanh Bần... thì đất nước, con người có lẽ đã khác đi rất nhiều. Sự thối nát, độc quyền tư tưởng, độc quyền chân lý, độc quyền lãnh đạo của Đảng CS sẽ bị phơi bày. Nó góp phần không nhỏ cho sự nghiệp Dân chủ hóa đất nước.
Vâng! Đang sống dưới chế độ CS, làm được như vậy, đã là điều đáng kính, đáng khâm phục lắm rồi. Điều đó, không phải ai cũng làm được.
Nghệ thuật sử dụng con chữ trong ngũ ngôn thơ
Có thể nói, tôi đã đọc Thái Bá Tân khá nhiều. Thơ cũng như văn của ông từ ngữ mộc mạc, dễ hiểu. Truyện ngắn gây cho tôi nhiều ấn tượng, bởi nó gần với đạo giáo, cùng với lòng nhân đạo cao cả. Đôi khi nó chỉ là những câu chuyện vặt hàng ngày, nhưng mang thông điệp lớn, buộc người đọc phải suy nghĩ. Với tôi, Chuyện Làng Và Người Làng là một trong những truyện ngắn hay nhất của ông, và cũng là truyện ngắn hay của văn học Việt, trong thời gian gần đây. Có điều lạ, dường như Thái Bá Tân ít quan tâm đến đặt tên (tựa đề) cho truyện của mình. Chuyện Làng Và Người Làng là một ví dụ. Tuy chuyện kể về làng và người làng, nhưng hồn cốt là quá trình diễn biến nội tâm dẫn đến sự sám hối (tội lỗi) của một con người, hay của cả thế hệ... Do vậy, với cái tựa đề sơ sài trên, khó có thể là cái hom, cái giỏ chứa đựng hết hàm ý nội dung, ý đồ chuyển tải của tác giả.
Và những năm gần đây tôi được đọc, biết đến thơ thế sự, xã hội của Thái Bá Tân, viết dưới thể ngũ ngôn. Phải nói, nó đã gây cho tôi ấn tượng và cảm xúc mạnh. Bởi, ông không chỉ thổi hồn, mà còn làm mới ngũ ngôn thơ bằng nghệ thuật sử dụng từ ngữ, cũng như kỹ thuật vắt dòng, hay bắc cầu. Giống như lục bát, thơ ngũ ngôn dễ làm, nhưng khó hay, nếu nhà thơ không có tài. Theo dòng văn học sử, ta có thể thấy, ngoài Ông Đồ của Vũ Đình Liên, Em Đi Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp, Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư, Khi Chưa Có Mùa Thu của Trần Mạnh Hảo... thơ ngũ ngôn để lại cho đời không nhiều.
Có một điều thú vị, cả hai tác giả đương đại đưa khẩu ngữ vào văn và thơ đều xuất thân từ miền Trung (Quảng Bình, Nghệ an). Nếu khẩu văn Nguyễn Quang Lập gần gũi hài tính, gây cười, thì khẩu thơ của Thái Bá Tân là lời tự sự, truy vấn làm cho người đọc chìm vào nỗi đau của đất nước, con người, cũng như thế thái nhân tình.
Thái Bá Tân viết nhiều thể loại, dịch nhiều sách, tuy được nhiều người biết đến, kể cả độc giả ngoại quốc. Nhưng chỉ đến khi ông dùng ngũ ngôn thơ chọc thẳng vào ung nhọt của xã hội, nóng hổi tính thời sự thì tên tuổi ông mới đóng đinh vào lòng người đọc trong và ngoài nước. Và chính nó đã làm nên chân dung nhà thơ, nhà văn vạm vỡ Thái Bá Tân được nhiều người yêu mến của ngày hôm nay.
Có thể nói ngay, thơ Thái Bá Tân hay trước nhất ở cái tứ. Và dường như bài nào cũng vậy. Đến với ngũ ngôn thơ ta thấy ông đã thay đổi hoàn toàn cách viết, từ ngôn ngữ cho đến cách gieo vần. Tuy lời thơ dân dã, nhưng ông đã sử dụng kỹ thuật ngắt nhịp, vắt dòng làm cho bài thơ hay đến lạ lùng. Những Người Ở Lại là bài thơ điển hình như vậy. Nó không chỉ cho ta thấy sự ngơ ngác, mất niềm tin đi đến bế tắc của người dân lương thiện, mà còn thấy được sự lưu manh hóa của những ông quan cách mạng, dưới cái chủ thuyết xã hội không tưởng. Chúng ta đọc lại lời kể, hay của một lời than dưới đây để thấy rõ điều đó:
“...Quan, những người cách mạng,
Lặng lẽ tích đô-la
Để thành công dân Mỹ,
Tây Âu, Canada...
     Ta, những người ở lại,
     Đang thử hỏi còn gì?
     Còn lại một núi nợ,
     Một xã hội trái chiều.
     Những câu khẩu hiệu đỏ
     Và một mớ giáo điều.
Một môi trường hủy diệt.
Một đất nước, người dân
Mất niềm tin, ngơ ngác,
Đành tin vào thánh thần.
     Một dân tộc bất lực
     Nhìn cái ác lên ngôi.
     Bất lực chịu ngang trái
     Và đạo đức suy đồi.”
Tôi đã đọc, và viết khá nhiều về chân dung các nhà thơ, nhà văn đang sống trong cũng như ở ngoài đất Việt. Hai nhà thơLuân Hoán và Thái Bá Tân để lại trong tôi ấn tượng khá đặc biệt, bởi cái lối kể chuyện bằng thơ. Luân Hoán hiện đang cư ngụ tại Canada, là nhà thơ miền Nam, thuộc thế hệ đi trước. Nếu thơ của Luân Hoán là câu chuyện tình, chuyện đời, thì thơ ngũ ngôn Thái Bá Tân mang nặng tính thời sự, với những câu chuyện nóng hổi vừa xảy ra. Nó bám chặt lấy cuộc sống, bám chặt lấy những thăng trầm của đất nước, và con người. Đọc, nghiên cứu, ta cảm giác, Thái Bá Tân làm thơ cứ như đùa, như chơi vậy. Mộc mạc, thô ráp là thế, nhưng cái dí dỏm ấy sắc nhọn như mũi dao chích vào lòng người. Thật vậy, đọc bài Lại Phim Hăm Mốt Tỉ, ông viết cách nay không lâu, cho ta thấy, dù có đốt đến tiền tỉ, hút kiệt máu và nước mắt của nhân dân, cũng không thể che đậy được cái giả dối, bầy đàn, một cách kịch cỡm của những kẻ xu thời, nịnh thế: 
“...Một bộ phim hoành tráng,
Tốn hăm mốt tỉ đồng
Để ca ngợi tướng Giáp.
Thế mà rạp trống không.
     Là con người, ông Giáp
     Chết, tất nhiên tôi thương.
     Là lãnh đạo, thú thật,
     Tôi thấy cũng bình thường.
Chí ít không vật vã
Gào khóc như lên đồng.
--------------------------
Lạ, những người khóc ấy
Sao bây giờ lặng thinh?
Không xem phim ca ngợi
Người anh hùng của mình?
     Mà trước đấy tướng Giáp
     Bị làm nhục nhiều năm,
     Rồi ốm nặng, sao họ
     Không một lần đến thăm?
Bao giờ dân Đại Việt,
Vốn văn minh, khôn ngoan
Mới chợt tỉnh để thoát
Cái tâm lý bầy đàn?”
Ngược dòng văn học sử, ta có thể thấy từ thuở chưa có chữ viết, ông cha ta đã sáng tác, đúc kết truyền miệng những câu hoặc bài thơ châm ngôn về đạo đức và lối sống. Trải qua bao thăng trầm, nhiều câu, nhiều bài còn nguyên giá trị đến ngày hôm nay. Tuy nhiên, những năm gần đây, cùng với văn học dân gian, thơ châm ngôn ít được nhà chức trách và giới sáng tác, nghiên cứu quan tâm. Người sáng tác chuyên tâm, chuyên nghiệp dường như không có. Có lẽ, nó đòi hỏi một sự khắt khe chăng? Bởi, người viết thơ châm ngôn, ngoài tài năng, nhân cách, dứt khoát phải có kiến thức, vốn sống và từng trải về nhiều lãnh vực. Thế nhưng, khi đi vào nghiên cứu Thái Bá Tân, ta có thể thấy, riêng thơ châm ngôn của ông không dừng lại con số bảy tập. Đây là con số nói lên sức viết, khả năng sáng tạo đáng kính phục, bởi một người cùng lúc làm nhiều công việc như Thái Bá Tân. Và không đi theo thể lục bát truyền thống, thơ châm ngôn năm chữ (ngũ ngôn) của ông vẫn thủ thỉ, mang đậm tính triết lý của cuộc sống:
“Ta hay quá sốt sắng
Quan tâm đến mọi người,
Mà quên ta là người
Đáng được quan tâm nhất.
     Ta thường tìm hạnh phúc
     Ở đâu đó rất xa,
     Mà quên rằng hạnh phúc
     Ở ngay chính trong ta.
Nghe, ai mà chả thích
Nghe những điều ngọt ngào.
Vì mặt trời chói mắt,
Ta thích ngắm trời sao.
     Nhưng làm nên sự sống
     Lại chính là mặt trời,
     Không phải sao lấp lánh,
     Mờ ảo và xa vời.”
Ngũ ngôn là thể thơ có nhịp cũng như ngôn từ gần gũi với câu nói thường nhật, nên dễ nhớ, dễ thuộc đi vào lòng người, kể cả những đề tài khô khan như thời sự, xã hội. Tuy nhiên, do những đặc điểm như vậy, nên giữa thơ và vè luôn có khoảng cách rất mong manh, nếu nhà thơ thật sự không có tài. Và đọc Thái Bá Tân ta có thể thấy, dù là nhà thơ tài năng, luôn tìm tòi, sáng tạo, nhưng thơ ngũ ngôn của ông cũng còn một số câu, bài dở, nhất là mảng thơ châm ngôn. Có lẽ, do ông viết nhanh và nhiều chăng? Âu đó cũng là điều rất bình thường của bất cứ nhà thơ, nhà văn nào.
Bộ mặt thật của chế độ, và sự nhu nhược của con người
Hơn một lần tôi đã viết, Thái Bá Tân và Bành Thanh Bần là hai thi sĩ đang sống ở trong nước, viết về mảng thế sự, xã hội, mang lại nhiều xúc cảm cho người đọc. Tuy bút pháp, cũng như thể loại thơ hoàn toàn khác biệt, nhưng không ai có thể phủ nhận dũng khí của hai thi sĩ Thái Bá Tân và Bành Thanh Bần. Có lẽ, đây là hai cây bút hàng đầu của thi ca đất Việt dám đi đến tận cùng những vấn đề gai góc, nhức nhối nhất của đất nước, con người trong thời gian gần đây. Nếu Bành Thanh Bần, chỉ có vốn liếng của một gã thợ cày, với những câu lục bát dân dã, đã lật ngược bộ mặt thật của chế độ, thì Thái Bá Tân, một trí thức được đào tạo cơ bản từ trong đến ngoài nước, dùng “Ngũ ngôn thơ” chọc thẳng vào những ung nhọt của xã hội. Thật vậy, Thái Bá Tân luôn trăn trở cùng quốc gia, dân tộc. Mỗi biến cố, sự kiện dù lớn hay nhỏ, thơ ông đều ghi lại cùng với những câu hỏi, truy vấn làm quặn thắt lòng người. Dẫu biết rằng, câu hỏi ấy, ai cũng biết và có thể trả lời. Xin Nhường Cho Chính Quyền, tuy chưa phải là bài thơ hay nhất của Thái Bá Tân, nhưng tôi thích, không phải vì tiếng cười thích thú, hân hoan của dân chúng trước sự bắn giết nhau của đám quan tham, mà bởi tiếng súng ấy, đã báo hiệu ngày cận kề sụp đổ, đền tội của một chế độ đã mục nát:
“Dường như đang bung vỡ
Khối ung nhọt lâu nay.
Bí thư đảng Yên Bái
Bị bắn giữa ban ngày…
    Thủ phạm, cũng quan lớn –
    Trưởng chi cục kiểm lâm.
Còn một nạn nhân nữa,
Một quan ban phát quyền,
Là trưởng ban tổ chức,
Mà chức là có tiền.
     Mạng người nào cũng quí,
     Cả dân và cả quan.
     Sao nhiều người không xót,
     Thậm chí còn hân hoan?...”
Không chỉ quay ngược bút, chọc vào đám văn nô cùng trong Hội: “những Lũ văn nô, đĩ bút/ Mới là bọn bất lương/ Khóc mướn quan tham nhũng/ Lên mặt dạy dân thường.” mà Thái Bá Tân còn vạch trần bộ mặt ngu xuẩn, lộn ngược gia phong của những tên quan tuyên huấn: “Chắc có thằng tuyên huấn/ Vừa ngu dốt vừa lười/ Xưa tớn lên, chấp bút/ Đặt đảng ngang với trời.” Bởi, với chúng, chỉ có nấp sau đảng, sau cái thứ quyền lực đổi trác, bán mua ấy mới có thể đục khoét, làm giầu một cách bất lương:
“...Biệt thự tám mươi tỉ
Bên túp lều xác xơ
Là bất lương tột đỉnh
Đất nước ta bây giờ
     Quan xứ núi đã thế,
     Quan thủ đô thì sao?
     Chúng, quan của mọi xứ,
     Đang hút máu đồng bào...”
Không dừng lại mức độ đục khoét tham nhũng, mà bọn cường hào thống trị mới còn tàn nhẫn, man rợ hơn nữa. Thật vậy, chúng không từ bất cứ một thủ đoạn nào đối với đất nước, đồng bào, đồng đội. Hình ảnh những người lính gục ngã, bởi bị bán mua ngay nơi chiến trường là bức tranh thu nhỏ của đất nước hôm nay:
“...Chuyện kể rằng, lần ấy,
Khi đánh nhau với Tàu,
Quân ta và quân địch
Cách nhau một chiếc cầu.
     Bỗng từ trên có lệnh
     Một đại đội xung phong
     Vượt qua cây cầu ấy,
     Sang bờ bên kia sông.
Thế mà lạ, sau đó,
Hai bên đang đánh nhau,
Có lệnh từ trên xuống.
Lần này lệnh phá cầu!...” (Ballad về một đại đội bị bỏ rơi)
Võ Nguyên Giáp cũng là một bài thơ hay của Thái Bá Tân. Ông có một cái nhìn trung thực, và đánh giá một cách khách quan về một nhân vật của lịch sử. Bài thơ ra đời, có lẽ ông bị áp lực từ nhiều phía, nhất là những kẻ có hai bộ mặt trong một con người. Đọc bài thơ này, dường như có một sự đồng cảm nào đó, làm tôi nghĩ ngay đến một bài viết của mình, ngay sau ngày tang lễ cụ Võ Nguyên Giáp: “...Sau cái chết và lễ tang cụ Võ Nguyên Giáp, một nhóm, trong đó có cả một số nhà thơ tên tuổi, phát động, cùng nhau làm thơ, viết thơ về cụ Giáp. Tôi vui, buồn lẫn lộn, nhưng ông bạn nghiên cứu triết của tôi bảo, thơ ca gì, đọc lên sao thấy nó giống như dàn kèn tụng ca vua chúa thời phong kiến vậy… Và không hiểu sao, dạo này các bác hay đùa dai đến thế: Cứ bảo, cụ Giáp về với dân. Về với dân có nghĩa là như các bậc tiền nhân, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, dám từ bỏ quyền lực, trở về ngôi nhà cũ của gia đình dòng họ và làm lại đúng cái nghề gõ đầu trẻ của mình. Chứ ai lại về với dân, mà sau khi thắng giặc, cụ ngự Villa to vật vã giữa lòng thủ đô. Không phải ai muốn gặp cụ cũng được. Khi mất, lăng mộ cụ lại ngự nơi được cho có phong thủy đẹp, lưng là núi mặt tiền là biển và dường như có cả lính túc trực ngày đêm? Vậy là xa dân, chứ làm sao có thể nói, cụ gần dân, về với dân. Thôi thì, cụ cứ nằm chung với các đồng chí của mình giữa thủ đô, có người chăm sóc luôn thể, có khi lại giản dị, đỡ tốn kém hơn. Vâng! Người có công với chế độ như cụ Giáp, được hưởng thụ ở mức “đại Nhà Thờ, đại Tôn Đản“ là điều đương nhiên, khỏi bàn cãi. Nhưng các bác cứ cố gò ép, cụ về với dân, quả thật nó vênh, tội và oan cho dân lắm. Có lẽ, do quá yêu quí cụ, nên nhiều người, trong đó có cả những nhà văn, trí thức cho rằng, cụ Giáp không vướng vào những sai lầm cải cải cách ruộng đất, nhân văn giai phẩm...v..v… Dù là người dốt về chánh trị, cũng có thể nhận ra, chủ trương dẫn đến những sai lầm này, của cả bộ chính trị, không phải chỉ có riêng các cụ Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Hồ Viết Thắng gánh chịu, mà phải tính từ cụ Hồ trở xuống. Cụ Giáp lúc đó là ủy viên bộ chính trị, uy tín, tiếng tăm đang lẫy lừng, quyền hạn cao chót vót, nên không thoát khỏi trách nhiệm này...” (đoạn trích trong bài Sám Hối)
Và chúng ta hãy đọc lại bài Võ Nguyên Giáp để thấy rõ bộ mặt thật đê hèn, mà bấy lâu nay tưởng chừng cao đạo của giới chóp bu CS:
“Nhẫn nhục mưu việc lớn
Là việc rất đáng khen.
Nhẫn nhục để khỏi chết
Là thứ nhẫn nhục hèn.
-------------------------
Tôi không yêu, không ghét
Ông tướng cộng sản này.
Kính trọng cũng không nốt,
Vì ba điều sau đây.
Một, thua xa Trần Độ,
Đến trăm tuổi, mà rồi
Vẫn nghĩ cộng sản tốt,
Không hối hận, theo tôi,
Đó là sự mù quáng,
Là giáo điều nặng nề.
Riêng việc ấy cho thấy
Đầu óc có vấn đề.
Hai, người ta nhẫn nhục
Để phục quốc cứu người.
Ông thì hèn, chịu nhục
Để được sống hết đời.
Ba, tài năng quân sự.
Tôi không là chuyên gia.
Nghe đồn cái tài ấy
Là của người Trung Hoa.
Ông, như nhiều tướng khác,
Chiến tranh thì nhân dân,
Mà trận nào cũng thế,
Nổi tiếng nướng nhiều quân...”
Gần đây, nghe nói, Thái Bá Tân đã tìm đến Phật Pháp. Và có lẽ, đó là nơi trú ngụ hồn ông lúc về chiều. Và càng đi sâu vào Phật pháp mênh mông, dường như thơ của Thái Bá Tân đến gần hơn với luật báo ứng, nhân quả. Dân Đại Bái Chơi Đẹp là một bài thơ như vậy. Tuy chỉ là những thống kê qua lời kể, nhưng những cái chết đó như một lời cảnh tỉnh, đầy lòng nhân ái của người thi sĩ gửi đến những kẻ đang cỡi lên đầu, lên cổ người dân lương thiện:
“...Nghe nói đâu tháng trước
Cả gia đình sáu người
Của một quan địa chính
Từng vang bóng một thời
      Đã phải chết thảm khốc
      Vì tai nạn giao thông.
      Phải chăng là nhân quả?
      Dẫu sao cũng đau lòng.
Lại nữa, một cán bộ
Cũng liên quan đất đai,
Đã bị dân chém chết
Đâu đó ở Gia Lai.
     Chuyện như thế nhiều lắm.
     Chuyện ân oán giang hồ.
     Chắc quan tham cũng biết
     Và chắc cũng đang lo.”
Đọc thơ ngũ ngôn Thái Bá Tân, cho tôi cảm giác mỗi bài là một trang sử ký, mà ông đã cần mẫn ghi lại. Với tôi, đó là những trang thơ, trang sách sống. Và tôi tin, dù còn phải sống trong một xã hội mịt mù, u ám, cùng với nó, trái tim người nghệ sĩ đích thực Thái Bá Tân vẫn sống cùng thời gian. (Leipzig ngày 4-9-2015)

(ii) Tưởng Năng Tiến: Thím Ngân
Hồi nẳm, không hiểu thi sĩ Bùi Giáng si mê kịch sĩ Kim Cương ở cái điểm nào; chớ còn bây giờ thì tui chết mê chết mệt chỉ vì nhan sắc khuynh thành của thím Nguyễn Thị Kim Ngân. Chủ Tịch Quốc Hội ăn mặc cách chi tôi ngó cũng xinh, chụp hình kiểu nào tui coi cũng đặng. Ngay cả cái cách bà ấy đổ (mẹ) nguyên cả sô bắp xuống ao cá bác Hồ tui cũng thấy (sao) nhí nhảnh, ngây thơ và dễ thương hết sức! Một phụ nữ xinh đẹp và khả ái quá cỡ như vậy, tất nhiên, không thể nào tránh được lòng ghen ghét hay đố kỵ của bàn dân thiên hạ. Chả trách thím Ngân bị nhiều người (trong cũng như ngoài nước) mắng nhiếc và xỉ vả không tiếc lời, dù hổng có làm điều chi sai trật cả.
Coi: Quốc Hội khoá XIV tiếp tục lùi luật biểu tình thì có gì bất ngờ hay mới lạ đâu nào? Cả chục khoá trước cũng đều “bàn lùi” hết trơn hết trọi mà.
Thím Ngân chỉ nói lên là một sự thật hiển nhiên, khi bầy tỏ quan ngại về tình trạng “rối loạn đất nước” thôi. Chớ hơn bẩy mươi năm qua, kể từ khi mà cách mạng cướp được quyền bính, có ngày nào mà xứ sở này được an bình đâu mà không lo “rối loạn” ? Có xét nét lắm thì cũng chỉ nên phiền trách thím Ngân về một chuyện nhỏ thôi, nhỏ còn hơn con thỏ nữa, đó là việc Quốc Hội khoá XIV đã dùng phiên họp khai mạc để thảo luận về một dự luật mà tôi e là hoàn toàn không cần thiết – Luật Cảnh Vệ.
Dự thảo Luật gồm 5 chương, 29 điều. Xin trích dẫn vài khoản trong điều 10 để rộng đường dư luận:
Đối với Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ áp dụng các biện pháp, chế độ cảnh vệ sau đây:
a) Bảo vệ tiếp cận;
b) Bố trí lực lượng Cảnh vệ vũ trang tuần tra, canh gác tại nơi ở, nơi làm việc;
c) Kiểm tra an ninh, an toàn đồ dùng, vật phẩm, phương tiện đi lại, các tác nhân khác; kiểm nghiệm thức ăn, nước uống trước khi sử dụng;nắm tình hình, khảo sát xây dựng, triển khai phương án bảo vệ.
Thảo nào mà đã có lúc ông Tôn Đức Thắng la làng là trong nhà toàn là “lính kín” không hà: “Một người bạn tôi quen thân với cụ, cha anh trước kia là đàn em cụ, kể rằng một hôm anh đến thăm cụ, vào thời gian nghị quyết 9, thì cụ dắt anh vào phòng riêng thì thào: ‘mày có thấy lính kín theo mầy tới đây không mầy?’ Anh ngạc nhiên quá . Tưởng anh lo lắng cho cụ, cụ mỉm cười hiền hậu:’Là tao lo cho tụi bây, chớ tao hổng lo cho tao .Trong nhà tao nè, lính kín không có thiếu.” (Vũ Thư Hiên, Đêm Giữa Ban Ngày. California: Văn Nghệ, 1997).
Bác Tôn (chắc) bị bệnh hoang tưởng? Đảng bố trí lực lượng cảnh vệ vũ trang tuần tra, canh gác tại nơi ở, nơi làm việc của lãnh tụ mà ổng lại tưởng “lính kín” đang rình rập nhà mình.  Tổng Bí Thư Đặng Xuân Khu cũng vậy, cũng đa nghi dữ lắm: “Trường Chinh chết, Hồng Ngọc, vợ Hoàng Minh Chính và Hà, con gái cả đến nhà chia buồn. Hai mẹ con về, Đặng Xuân Kỳ tiễn. Kỳ vừa đi qua sân sỏi vừa nói: ông cụ tôi ngoài không dám ăn uống bất cứ thứ gì. Họp Bộ chính trị với Trung ương cũng uống nước của nhà mang theo và nếu không về nhà ăn trưa được thì ông cụ nhịn.” (Trần Đĩnh. Đèn Cù, tập II. Người Việt, Westminster, CA: 2014).
Cũng ở tác phẩm dẫn thượng, nơi trang 194, tác giả còn cho biết thêm là Thủ Tướng Phạm Văn Đồng có thói quen “thì thào” với khách quen ở ngoài vườn vì ổng sợ trong nhà ... có rệp!
Coi: Chủ Tịch Nước, Tổng Bí Thư, Thủ Tướng đều không dám ăn, cũng không dám nói, vì sợ bị đầu độc hay nghe lén. Nếu Dự Luật Cảnh Vệ có điều “ngăn cấm các đồng chí không được rình rập và hãm hại lẫn nhau” thì  hay quá. Hay nhất là qúi ông Dương Bạch Mai, Phạm Quí Ngọ, Nguyễn Bá Thanh, Phạm Duy Cường, Ngô Ngọc Tuấn ... đã không uổng mạng! 
Luật Cảnh Vệ chỉ chuyên chú vào việc bảo vệ các đồng chí lãnh đạo khỏi bị những thế lực thù địch ám sát thôi hà. Thiệt là suy bụng ta ra bụng người. Rảnh, xem qua vài đoạn trong cuốn hồi ký (Gió Mùa Đông Bắc) của bác sĩ Trần Ngươn Phiêu coi: Lúc Pháp chưa trở lại chiếm Sài Gòn, ngày 09-09-1945 người của Trần Văn Giàu là Lý Huê Vinh thuộc Quốc gia Tự vệ Cuộc, đã bao vây trụ sở Việt Nam Độc lập Vận động Hội để bắt Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo, Huỳnh Phú Sổ ở biệt thự đường Miche (tức Đường Phùng Khắc Khoan). Ông Huỳnh Phú Sổ đã thoát, nhờ sang được một nhà bên cạnh. Quốc gia Tự vệ Cuộc với sự trợ giúp của Mai Văn Bộ, đã dàn cảnh để bêu xấu Ông Huỳnh Phú Sổ bằng cách ngụy tạo chưng bày một rương đầy hình ảnh phụ nữ khỏa thân mà họ phao vu là đã bắt gặp trong khi lục soát nhà.    
Trong đêm 23 tháng 9 năm 1945, ngày lịch sử mở màn cuộc Kháng chiến Cách mạng Mùa Thu ở Nam bộ, người bị giết đầu tiên, thây phơi trên đường Albert 1er (Đường Đinh Tiên Hoàng) là ông Lê Văn Vững, bí thư vùng Sài Gòn-Chợ Lớn của nhóm Tranh Đấu và cũng là người phụ trách phát hành lại báo Tranh Đấu. Như vậy người Việt Nam đầu tiên đã bỏ mình trong cuộc Kháng chiến chống Pháp không do thực dân giết mà lại do Tự vệ Cuộc miền Nam thanh toán… Vài ngày sau 23 tháng 09, 1945 nhà giáo Nguyễn Thi Lợi phụ trách báo Tranh Đấu cũng bị thủ tiêu ở Cần Giuộc, Chợ Lớn. Cuộc khủng bố trắng, săn bắt, ám sát các nhân sĩ  ái quốc có uy tín nhưng không thuộc Đảng Cộng sản từ đó đã xảy ra hằng ngày, bắt đầu từ Bùi Quang Chiêu đến Hồ Văn Ngà, Trần Quang Vinh, Luật sư  Hồ Vĩnh Ký và vợ là Bác sĩ Nguyễn Thị Sương (nguyên Thủ lãnh Phụ Nữ Tiền Phong) v.v...
Đối với bọn tay sai Mỹ/Ngụy, bán nước cầu vinh thì Đảng còn mạnh tay hơn nữa. Báo Dân Việt, số ra hôm 30 tháng 4 năm 2011, có bài viết (“Tôi Ám Sát Người Sắp Làm Thủ Tướng Sài Gòn”) của chiến sĩ đặc công Vũ Quang Hùng. Xin trích dẫn đôi đoạn:  
Trưa 10.11.1971. Một tiếng nổ long trời tại ngã tư Cao Thắng - Phan Thanh Giản khiến ông Nguyễn Văn Bông - Giám đốc Học viện Quốc gia Hành chính, người chuẩn bị nắm chức thủ tướng (ngụy) chết tại chỗ...
Tôi nhớ dặn dò của đồng chí Tám Nam - Phó ban An ninh T4 (tức khu vực Sài Gòn-Gia Định): “Để bảo đảm bí mật, chúng ta sẽ đặt cho mục tiêu bí số G.33. Cần giữ bí mật đến phút chót và theo tin tức tình báo, G.33 đang chuẩn bị lên nắm ghế thủ tướng. Nếu G.33 đã nắm chức, sẽ rất khó hành động vì khi ấy việc bảo vệ ông ta sẽ khác hẳn. Và nếu tình huống này xảy ra, cách mạng có thể gặp khó khăn hơn bởi Nguyễn Văn Bông là một trí thức có uy tín và chính quyền ngụy chuyển từ quân sự sang dân sự mọi diễn tiến sẽ có lợi cho địch.
Giáo sư Nguyễn Văn Bông không phải là người “trí thức có uy tín” đầu tiên, hay duy nhất, bị cách mạng ... trừ khử bằng chất nổ và lựu đạn. Hai năm trước đó, G.S.  Lê Minh Trí ( Bộ trưởng Giáo dục) cũng bị giết chết theo cùng một cách.
Cách ám sát giáo sư Nguyễn Văn Bông và Lê Minh Trí, tuy thế, “văn minh” hơn thấy rõ nếu so với kiểu “trừ khử” học giả Phạm Quỳnh – theo lời kể của ông Phạm Tuân: “Thầy tôi bị giết trước, bị đánh vào đầu bằng xẻng, cuốc, sau đó còn bị bắn bồi thêm 3 phát đạn… Cụ Khôi cũng bị bắn 3 phát… ông Huân hoảng sợ, vùng chạy thì bị bắt lại và bị bắn một phát ngay vào đầu… Cả 3 thi hài bị xô xuống mương rồi vội vàng lấp đất.” 
Cuối bài tiểu luận (Những Cái Chết Tức Tưởi Của Nhà Văn, Chuyện Bây Giờ Mới Kể) nhà nghiên cứu văn học Thái Doãn Hiểu hạ bút: “Những người bị giết đều là những tinh hoa, là  danh sĩ đạo cao đức trọng, yêu nước thương dân, có thành tựu văn hóa sáng giá cống hiến cho nền văn hiến nước nhà. Họ chết mỗi người mỗi cách đau xót và hàm oan: Nhà văn Lan Khai bị xô xuống vực, văn hào Ngô Tất Tố bị bức cho treo cổ tự vẫn, Khái Hưng bị bỏ rọ trắn sông, Phạm Quỳnh đối thủ  đáng gờm của thực dân Pháp bị xử tử, Tạ Thu Thâu nhà yêu nước lớn bị tử bắn; nàng thơ  nữ sĩ Thu Hồng bị bắn lén từ sau lưng; Nhượng Tống dịch giả tài hoa số 1 bị ám sát; Dương Quảng Hàm vị giáo sư đáng kính ra khỏi nhà đi  mãi không về; vị bồ tát Thiếu Chửu bị bức hại nhảy xuống sông tự tận...”
Tính gồm luôn mạng sống của những thường dân vô tội bị xử tử trong Cải Cách Ruộng Đất (ở miền Bắc) Chiến Cuộc Mậu (ở miền Trung) và vô số viên chức xã ấp bị lôi ra khỏi nhà bắn chết giữa đêm (ở miền Nam) thì con số nạn nhân của cách mạng dám lên tới hàng triệu mạng. Thay vì bàn thảo về Dự Luật Cảnh Vệ, nếu Quốc Hội khoá XIV khai mạc phiên họp đầu tiên bằng dự luật phục hồi danh dự cho những nạn nhân kể trên thì chắc chắn thím Ngân sẽ để lại một dấu ấn tốt đẹp hơn trong lòng người.
Nói qua nói lại gì chăng nữa thì chuyện cũng dĩ lỡ hết trơn rồi.  Chủ Tịch Quốc Hội cùng các bạn đồng viện, nói nào ngay, cũng đã làm việc hết sức mình theo cái tâm và cái tầm của họ. Chúng ta không nên khắt khe và kỳ vọng nhiều quá vào một cơ quan lập pháp mà nhà nước hiện hành chỉ đặt ra để làm kiểng, ngó cho nó đẹp mắt thôi. Mà đã nói đến cái đẹp thì nhan sắc của phụ nữ là điều rất đáng quan tâm, mọi thứ khác đều là chuyện nhỏ và là đồ bỏ!
*** BVN: Ts Nguyễn Quang A & Giải Tulip Hòa Lan
Cho đến 9 giờ 00 phút giờ địa phương ngày 3/9/2016, Nguyễn Quang A, ứng viên người Việt Nam đầu tiên cũng là đại diện duy nhất của khu vực Đông Á và Đông Nam Á được đề cử giải thưởng Hoa Tulip về Nhân quyền (Human Rights Tulip) năm 2016, vẫn xếp thứ nhất với 6308 phiếu; so với ứng viên thứ hai Nighat Dad đạt 2607 phiếu và Pierre Claver Mbonimpa, người từng đứng ở vị trí thứ hai hôm 2/9/2016 đã tụt hạng xuống thứ ba với 2255 phiếu. Đua tranh thứ hạng đang trở nên quyết liệt, và cuộc bầu chọn sẽ kết thúc lúc 23g59 ngày thứ Tư 7/9/2016, nghĩa là chỉ còn 4 ngày nữa.
(Phạm Đoan Trang: Ts Nguyễn Quang A xứng đáng nhận "Hoa Tulib về Nhân quyền".
Có thể các bạn trẻ ít quan tâm đến chính trị-xã hội sẽ không biết “Quang A là ông nào”, “làm được cái gì cho đời”. Hoặc, nếu chẳng may bạn bị đầu độc bởi những trang web bẩn của dư luận viên – lực lượng đen tối và phản tiến bộ nhất hiện nay ở Việt Nam – có khi bạn còn tưởng ông Quang A là một lão già phản động, kẻ chống phá đất nước (!) Nhưng nếu bạn chịu khó tìm hiểu một chút, bạn sẽ hiểu ngay vì sao TS. Nguyễn Quang A xứng đáng nhận giải “Hoa Tulip về Nhân quyền” 2016 từ Chính phủ Hà Lan, vinh danh ông vì sự can đảm và những đóng góp để bảo vệ nhân quyền cho người dân Việt Nam – trong đó có các bạn.
Ông Nguyễn Quang A sinh năm 1946 tại Bắc Ninh. Thời trẻ, ông du học tại Hungary ngành điện tử-viễn thông, và là một sinh viên xuất sắc, được xem như “thần đồng” (*) trong khối du học sinh về khoa học kỹ thuật. (Nghe nói thời đó, dân du học Việt Nam ở Hung truyền nhau rằng “kỹ thuật có Quang A, xã hội có Hoàng Thắng” – tức là TS. Đinh Hoàng Thắng, cây viết về chính trị quốc tế ở Việt Nam hiện nay).
Có thể coi Nguyễn Quang A là “người đàn ông của những cái đầu tiên”. Ông luôn đi tiên phong, hệt như cái tên của ông luôn đứng đầu bảng chữ cái vậy. Và điều quan trọng là, tất cả những hoạt động mà ông đi tiên phong đó đều là những hoạt động đóng góp cực kỳ to lớn cho cộng đồng và xã hội.
– Ông là người sáng lập VP Bank – ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tiên (năm 1993).
– Ông là sáng lập viên, Chủ tịch Công ty cổ phần Máy tính-Truyền thông-Điều khiển 3C (năm 1989).
– Ông là sáng lập viên, Chủ tịch Viện Nghiên cứu Phát triển (IDS) – có thể được coi như một “think tank” (viện tư tưởng) đầu tiên độc lập với Nhà nước, phản biện chính sách mạnh mẽ và quyết liệt ở Việt Nam trong những năm 2007-2009, từ vấn đề xây dựng thị trường điện, ổn định giá điện/dầu, đến đương đầu với khủng hoảng kinh tế toàn cầu, bảo vệ môi trường, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên v.v.
– Ông là một trong những người đưa Internet vào Việt Nam (1997). Năm 2007, một cuộc bầu chọn của báo Bưu điện Việt Nam và CLB Nhà báo CNTT đã chọn ông Nguyễn Quang A là một trong 10 nhân vật ảnh hưởng lớn nhất đến Internet tại Việt Nam.
- Nhà hoạt động tiên phong: Và bây giờ cũng vậy, ông Nguyễn Quang A vẫn là người đi tiên phong. Ông đã 70 tuổi, không phải là thanh niên, nhưng ông vẫn luôn nhìn thấy những điều mà thanh niên Việt Nam đang vô cùng thiếu, đang rất khao khát… mà thậm chí một số người còn không hề biết là mình thiếu và lẽ ra phải khao khát nó. Đó là TỰ DO, NHÂN QUYỀN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN. Chỉ có tự do thì tư duy con người, đặc biệt người trẻ, mới phát triển. Thanh niên Việt Nam cần được tự do và cần phải được khuyến khích để tự do: học tập, suy nghĩ, phản biện, bày tỏ thái độ chính trị, quan tâm đến cộng đồng, du học, du lịch, tranh cử, tham gia chính trị…
Có lẽ trí thức nào cũng sẽ nghĩ và có thể nói được như thế. Nhưng Ts Nguyễn Quang A không chỉ nghĩ và nói như thế, mà ông còn luôn luôn LÀM như thế. Ông luôn nắm tay các bạn trẻ để kéo họ lên, nâng họ lên, một cách trân trọng nhất, để họ hiểu rằng ông thực sự muốn họ và đất nước này phát triển biết bao.
Nếu ứng viên Nguyễn Quang A được chọn trao giải “Hoa Tulip vì quyền con người” thì đó là một sự động viên rất lớn của quốc tế đối với phong trào xã hội dân sự ở Việt Nam.
Bạn có thể bình chọn cho ứng viên Nguyễn Quang A tại www.humanrightstulip.nl. Các bước lần lượt như sau:
· Bước 2: Nhấn nút VOTE màu đỏ bên phải màn hình.
· Bước 3: Nhập địa chỉ email của bạn vào ô E-mail address và nhập 4 số Captcha code vào ô bên dưới. Tích vào ô vuông Ceremory. Nhấn nút Vote.
· Bước 4: Mở địa chỉ mail và tìm đến thư có tựa đề Human Rights Tulip 2016: Verification link, nhấn nút Confirm Vote để hoàn tất bình chọn.
Về giải “Hoa Tulip vì quyền con người” năm nay, xin xem: http://www.boxitvn.net/bai/444 68.
Ranking của cuộc bầu chọn, xin xem: http://www.humanrightstulip.nl /ranking

(II) Chuyện Thời sự & Xã hội Thế giới
(i) Cánh Cò: Dấu chấm hết cho một nền Văn hóa tự ti
Sự kiện Chủ tịch Tập Cân Bình cho phép đàn em mình “làm nhục” Tổng thống Obama không những chiếm trang nhất của báo chí Mỹ mà hầu như các tờ báo viết bằng mẫu tự Latinh đều loan tải như một bản tin lạ lùng và đầy thích thú.
Lạ lùng vì thái độ của Trung Quốc, một nước đang tự khẳng định mình là lớn, là đang tiến dần đến tư thế bá chủ, là tự hào có nền văn minh dài nhất thế giới và trong cái tự hào ấy hôm nay chứng tỏ mình là nước có thái độ lớn trước bất cứ ai, kể cả đó là khách ngoại giao của hơn 1 tỷ dân Trung Quốc.
Ông Tập đã tự tay cầm chiếc kéo ngoại giao cắt đứt sự liên hệ với thế giới bên ngoài qua sự cố này. Và quan trọng hơn,hành vi khiếm nhã mà ông ta đại diện cho hơn một tỷ người Trung Quốc để làm đã cho thế giới thấy mặt thật của một nền văn hóa đã bị chế độ Cộng sản làm cho thối rửa, bắt đầu từ từng đảng viên một.
Văn hóa tự ti đã làm Trung Quốc nhỏ lại trước thái độ của ông Obama. Tổng thống Mỹ tuyên bố ngay sau đó không để ý đến chi tiết “nhỏ nhặt” này và thế giới một lần nữa tìm thấy trong đó tính cách “quân tử” của chính người Tàu đặt ra từ hàng ngàn năm trước. Khác biệt lớn nhất giữa người quân tử và kẻ tiểu nhân là thái độ sống cũng như từng mỗi cử động nhỏ nhặt và bất ngờ nhất. Người Tàu xưa nay cổ vũ cho hai chữ quân tử như thánh kinh của đạo Khổng và trải qua bao thăng trầm ý nghĩa của quân tử như kim chỉ nam chưa bao giờ có phản biện chính thức trong sách giáo khoa hàng ngàn năm qua. Và Tập Cận Bình đã cho thấy ý nghĩa của “quân tử” cần phải suy xét lại.
Cầm trong tay mớ đô la được kiếm ra từ thị trường Mỹ, Tập Cận Bình hình như vẫn còn rất tự ti với thành quả mà dân chúng Trung Quốc có được trong ngày hôm nay: Những giọt mồ hôi gia công, những cái đầu tận lực suy nghĩ để làm hàng giả, những mánh khóe nhằm giữ cho tỷ giá của đồng nhân dân tệ càng thấp càng tốt, những dự án đầu tư nước ngoài lấy hối lộ làm phương tiện, những đàn áp khốc liệt người có lương tâm lên tiếng cho các chà đạp, sách nhiễu đối với hàng chục triêu người dân của mình.
Văn hóa Cộng sản Trung Quốc phản chiếu ngay trên từng khuôn mặt người dân khi họ ra nước ngoài du lịch. Bao nhiêu nước đã tỏ ra khinh bỉ họ bằng những quy định, những tấm bảng bằng tiếng Trung xuất hiện mọi nơi khi họ đến: Nhà hàng, khách sạn, phi trường, các danh lam thắng cảnh yêu cầu họ cư xử phải phép và văn minh hơn. Ngay cả trong nhiều ngôi nhà của người bản xứ mà họ đi qua cũng treo bảng không tiếp họ. Thành quả này phải nói là nhờ Cộng sản mà điển hình nhất là Mao Trạch Đông, kẻ muốn toàn dân Trung Quốc chỉ có một suy nghĩ duy nhất: tôn thờ kẻ giết hại dân tộc mình.
Tập Cận Bình là người không giấu giếm sự tôn thờ ấy của ông ta không những bằng chính sách mà còn bằng hành động ngoại giao của một nước lớn. Tập đã áp dụng câu chữ “Trí thức không bằng cục phân” của Mao để hôm nay cho thế giới thấy “Tổng thống Mỹ không bằng cục phân” qua cách hành xử thô lỗ và thất học khi Tổng thống Obama đại diện cho nước Mỹ tới họp G20.
Không ai phủ nhận Tổng thống Obama là một trí thức. Hành vi vô học mà Tập ra lệnh cho bọn côn đồ cổ cồn làm tại phi trường Hàng Châu đã áp dụng triệt để câu nói của Mao. Thế giới thay vì nổi giận lại cười cợt với thái độ vừa trẻ con vừa ngu muội này.
Người dân Trung Quốc khi nhìn vào cách cư xử kỳ quái này chắc chắn sẽ có hai luồng đối chọi: Một là hồ hỡi và càng tôn sùng Tập Chủ tịch hơn vì đã trả được mối thù tự ti của họ trước nước Mỹ, một đất nước vừa được thành phần này thích thú vì giàu có lớn mạnh, vừa thù hằn vì thành tựu của họ không bao giờ Trung Quốc chạm tới được: một nền dân chủ tạo ra nhân cách sống đích thực.
Thành phần thứ hai, tuy ít và âm thầm hơn nhưng lại âm ỉ và chưa bao giờ bị tiêu diệt: những con người của thánh hiền Khổng Mạnh. Họ sẽ cảm thấy bị xúc phạm như chính họ bị Tập Cận Bình chà đạp. Nhưng sức họ yếu trước một tập thể đã được nhào nặn, uốn nắn từ những chủ thuyết phản lại tri thức con người. Họ khiếm liệt mọi hành động chống lại và đành lòng sống chung với sự ranh ma, ti tiện như sống chung với rác. Họ là nạn nhân trực tiếp của Mao qua chủ trương “Lấy nông thôn bao vây thành thị”. Bần cố nông Trung Quốc ào ạt tiến công đã cô lập và khoanh vùng họ, khiến thành phần này chỉ còn để làm kiểng thay vì góp tiếng nói xây dựng và giúp văn hóa Trung Quốc thoát hiểm
Bắt đầu từ sự cố Hàng Châu văn hóa Trung Quốc bước vào một hành trình mới: ngạo nghễ và lừng lẫy đạp trên các trang sách văn hóa của cha ông họ. Dân chúng và lãnh đạo đã tìm thấy tiếng nói chung: giá trị nước lớn của Trung Quốc là tối thượng và phải chiếm được vị trí này bằng bất cứ giá nào kể cả những bãi nước bọt. Như vậy thì bảo các em nhỏ Việt Nam học tiếng Hán để làm gì trong lúc này?
*** Mạnh Kim: "Văn minh G20" của Trung Quốc
Trung Quốc đầu tư rất nhiều cho Hội nghị thượng đỉnh G-20 lần đầu tiên tổ chức tại nước họ. Hàng Châu như được lột xác trước thềm G-20. Khoảng 225 nhà máy bị yêu cầu đóng cửa; ½ phương tiện giao thông bị cấm sử dụng từ ngày 28-8; lực lượng an ninh dày đặc với đội ngũ nữ an ninh đẹp như minh tinh màn bạc; thành phố được trang trí lộng lẫy, nhiều ngôi nhà được “nhà nước” đến lắp bồn cầu miễn phí để cư dân không ra ngoài “đi bậy”. Đây là lần đầu tiên sau nhiều thập niên mà một số ngôi nhà Hàng Châu mới cảm nhận được “ý nghĩa thực tiễn” của bồn cầu gia đình.
Các thành phố gần đó như Hoàng Sơn và An Khánh thuộc An Huy, Nghĩa Ô thuộc Chiết Giang và thậm chí Thượng Hải cũng bị yêu cầu đóng cửa nhà máy để môi trường trong sạch. Hàng ngàn cư dân tại các chung cư cao cấp gần trung tâm hội nghị buộc phải “đi du lịch” khỏi thành phố và căn hộ họ bị niêm phong vì sợ “khủng bố” có thể đột nhập vào để bắn tỉa từ các ô cửa. Hai tuần trước ngày khai mạc, tất cả các loại dao tại khu vực dụng cụ nhà bếp trong siêu thị Metro Trung tâm bị yêu cầu dọn sạch! 10 thợ nấu ăn người Duy Ngô Nhĩ tại một nhà hàng nổi tiếng cũng được cho nghỉ việc sớm từ tháng 6. Mọi khách sạn ở Hàng Châu được yêu cầu phải báo cảnh sát khi có bất kỳ người Duy Ngô Nhĩ nào đăng ký thuê phòng. Cũng từ tháng 6, cảnh sát đã yêu cầu khu Thất Bảo, cách trung tâm thành phố khoảng 30 km, phải đóng cửa tất cả cửa hàng tạp hóa, quần áo và quán ăn lề đường. Tờ The Guardian thuật thêm: tại một khu phố gần trung tâm hội nghị, một băng rôn to ghi: “Hãy đóng góp cho Hội nghị bằng cách diệt sạch “bốn thành phần” ruồi, muỗi, gián và chuột”.
Theo thông tín viên Đông Bắc Á Yaqiu Wang thuộc CPJ (Committee to Protect Journalists), nhiều nhân vật bất đồng chính kiến tại Hàng Châu cũng như các tỉnh lân cận đã bị giam lỏng vài tháng qua. Tất cả cơ quan truyền thông đều được lệnh kiểm soát chặt chẽ thông tin và phải có biện pháp xử lý tức thì khi có bất kỳ tin xấu nào liên quan công tác tổ chức G-20 lọt lên các trang mạng xã hội. Nói như Zhu Jiejin, giáo sư trợ giảng khoa quan hệ quốc tế Đại học Phục Đán, thì: “Việc tổ chức G-20 mang lại một cơ hội quan trọng để Trung Quốc trở thành người tạo luật chơi hơn là người chấp nhận luật chơi… Nó giúp khẳng định rằng chúng ta ngang bằng với các nước đã phát triển”.
Cách thức Bắc Kinh tổ chức G-20 đã làm lộ lên tất cả khiếm khuyết của mô hình phát triển Trung Quốc. Nó cho thấy một xã hội ô nhiễm cực kỳ nghiêm trọng, một nền chính trị chưa bao giờ mua được lòng người và một nền kinh tế chụp giật bất an. Hơn hết, nó cũng làm lộ lên mặt thật của văn hóa ngoại giao Trung Quốc. Việc không đưa xe thang đến chuyên cơ Air Force One đón Tổng thống Barack Obama, chắc chắn nhằm làm nhục tổng thống Mỹ, đã cho thế giới có thêm một bằng chứng nữa về “bản chất khó dời” của Trung Quốc: nhỏ nhen và ti tiện. Bắc Kinh luôn muốn chứng tỏ là “người lớn” nhưng họ chưa bao giờ trưởng thành. Họ thèm khát văn minh nhưng nền văn hóa cộng sản của họ chưa bao giờ chạm tay đến được mép rìa của thế giới hiện đại. Họ khao khát được công nhận như một “cường quốc” nhưng sự giới hạn văn hóa chỉ dẫn họ đến được một bên bờ của con sông văn minh mà có lẽ trong thâm tâm họ ao ước được tắm gội trong đó dù chỉ một lần.
*** VOA: Sẽ có hậu quả nếu Trung Quốc vi phạm luật quốc tế.
Hoa Kỳ cảnh báo sẽ có hậu quả nếu Trung Quốc vi phạm các luật lệ và quy tắc của quốc tế.
Trong cuộc phỏng vấn đặc biệt với CNN phát sóng hôm 4/9, Tổng thống Barack Obama khẳng định: ‘Nói tới các vấn đề liên quan đến an ninh, khi anh đã ký một hiệp ước kêu gọi sự phân xử trọng tài quốc tế xung quanh các vấn đề hàng hải thì chuyện anh lớn hơn các nước như Philippines hay Việt Nam không phải là lý do để anh thoái thác và giương oai diễu võ.’ ‘Anh phải tuân thủ luật quốc tế,’ ông Obama nhấn mạnh.
Nhà lãnh đạo Mỹ nói trước việc Trung Quốc vi phạm luật lệ và quy tắc quốc tế, như trong các trường hợp ở Biển Đông, hoặc trong cách hành xử của Trung Quốc về chính sách kinh tế, Hoa Kỳ đã tỏ lập trường cứng rắn. Ông Obama nói ‘Chúng tôi đã chỉ rõ cho họ thấy rằng sẽ có hậu quả.’
Tổng thống Obama nói thêm rằng ông đã cố gắng truyền tải thông điệp tới Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc rằng một phần trong sức mạnh Hoa Kỳ chính là sự tự chế.
Đáp câu hỏi về số phận của thỏa thuận Đối tác Thương mại Xuyên Thái Bình Dương TPP giữa bối cảnh cả hai ứng viên Tổng thống thuộc lưỡng đảng Dân chủ và Cộng hòa là Hillary Clinton và Donald Trump lẫn Chủ tịch Hạ viện Paul Ryan đều chống đối, ông Obama nói các yếu tố chính trị xung quanh vấn đề thương mại luôn luôn phức tạp, và theo ông, một số chỉ trích về TPP là sai trái.
Trong cuộc phỏng vấn với CNN trước chuyến công du cuối cùng của ông Obama tới châu Á, nhà lãnh đạo Hoa Kỳ cũng nói rằng Washington muốn Bắc Kinh đảm trách trách nhiệm lớn hơn ‘không chỉ đối với người dân của họ, mà còn đối với các vấn đề và các xung đột quốc tế, cho dù đó là vấn đề biến đổi khí hậu hay cứu trợ thảm họa hoặc đối phó với các vấn đề như Ebola.’

III. Thơ Luân Hoán
Hình Ảnh Vụn
1. đội nắng không đội mũ
    đi quanh khắp Xóm Chùa
    qua nhà Phương Lan ngó
    thấy Thủy Tiên đang đùa
sân nhỏ lồng chim lớn
mê chim thời đeo bùa
giờ mê chim lẫn gái
mắt lọt qua rào thưa.
2. nghe đồn em thơ thẩn
    có báo đăng đàng hoàng
    tôi nhiều lần lận đận
    đạp xe ngang nhà dòm
đường Nguyễn Du luôn vắng
sớm mai hay chiều tàn
chỉ thấy những vụn nắng
rớt vở nền hành lang.
3. em đi ngược chiều gió
    tà áo dài vắt nghiêng
    tôi biết không nên ngó
    nhưng con mắt thật phiền
rùa đâu sông Hàn rộng
vậy mà nổi lên bờ
tôi cầm bút nhớ mãi
không viết nổi bài thơ.
4. thường qua chơi An Hải
    dù chẳng ghé thăm ai
    thật tình ra, không phải
    tôi mê những áo dài
phà đông luôn có góc
trắng nõn những nữ sinh
nón trắng quần áo trắng
trắng cả thân lẫn tình.
5. chợ Hàn tuần một bận
    tôi ghé đến ngồi đồng
    trong sạp làm hàng mã
    của anh Ba, ngóng mong
các em đến đông lắm
cùng mẹ, chị, một mình
ngó tôi như hình giấy
tôi trở thành thần linh.
6. hình như tôi cũng học
    tại trường Phan Châu Trinh
    bởi vì tôi thuộc hết
    tên gọi và dạng hình
những em đẹp ôm cặp
thường che ngang ngực mình
tôi không ngắm cái cặp
mà tưởng cái xinh xinh.
7. không được ai yêu cả
    vẫn tự sướng hình dung
    tưởng tượng rất nhiều chuyện
    vượt trên cả hải hùng
đường phố bị quấy nhiễu
nhất là đường Quang Trung
lội bộ hay xe đạp
lững thững một gã khùng.
*
quá nhiều hình ảnh vụn
nhìn lại chỉ gặp thơ
bây giờ tạm ngưng gõ
ai bấm chuông cửa chào
    không phải o hàng xóm
    cũng chẳng một cô nào
    một người giao quảng cáo
    gọn nhẹ tiếng hello !
(Luân Hoán - 4.39 AM-30.8.2016)
.............................. .............................. .............................. ............
Kinh,
NNS

Không có nhận xét nào: