Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 15 tháng 2, 2025

“Quần Đảo Ngục Tù” Liên Xô & Việt Nam - Vương Trùng Dương

              A. Solzhenitsyn 
Năm 1974, Cộng Sản Liên Xô “trục xuất” văn hào Alexander Solzhenitsyn “lưu đày hải ngoại” vì xem nhà văn thuộc thành phần cầm bút phản động nguy hại cho chế độ. Trong thời gian đó, nhiều tác phẩm của A. Solzhenitsyn đã được chuyển ngữ và phổ biến lan rộng ở Việt Nam như Một Ngày Trong Đời Ivan Denitsovitch (One Day in The Life of Ivan Denitsovich), Khu Ung Thư (Cancer Ward), Tầng Đầu Địa Ngục (The First Circle), Quần Đảo Ngục Tù (The Gulag Archipelago)... Bài viết “Solzhenitsyn, Chiến Hữu Văn Nghệ” của tôi đăng trên Đặc San Ức Trai của Trường ĐH.CTCT Đà Lạt, giới thiệu tổng quát về giá trị tác phẩm của người cầm bút đã trải qua trong gông cùm của guồng máy cai trị độc tài đảng trị được phổ biến trên văn đàn quốc tế.
<!>
Alexander Solzhenitsyn ra đời trong giai đoạn đất nước loạn ly, đẫm máu giữa phe Cộng Sản Bolshevik và phe Bạch Nga Menshevik. Dòng họ Solzhenitsyn vốn được xem thuộc gia đình Cossak trí thức nên bị liệt kê vào thành phần tiểu tư sản vì vậy thân mẫu của Solzhenitsyn phải dọn về sống ở Rostow-in-Don trong túp lều tồi tàn để sống qua ngày. Solzhenitsyn trưởng thành trong hoàn cảnh khó khăn nhưng rất kiên trì và thông minh nên được học bổng để theo toán học tại đại học Rostow. Ông tốt nghiệp về Toán Học và Vật Lý, kết hôn với Reshetovskaya năm 1941.

Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ, năm 1941 ông bị gọi nhập ngũ. Phục vụ trong binh chủng Pháo Binh, lập được nhiếu chiến công vì vậy tháng 2-1945, Solzhenitsyn mang cấp bậc Đại Úy với nhiều huy chương khen thưởng. Thời gian chiến đấu ở mặt trận Âu Châu, Solzhenitsyn viết thư cho người bạn ở Moscow, bày tỏ mối ưu tư về chính sách độc tài Stalin đưa đẫy đất nước vào vòng khổ đau, thư bị kiểm duyệt. Solzhenitsyn bị ngưng chức và giải giao về Moscow. Tòa án với cơ quan mật vụ NKVD xét xử, Solzhenitsyn bị kết án với tội trạng phản động. Ông mang số tù 232, lao động khổ sai tại khu xây dựng Lenin. Năm 1946, ông bị chuyển sang khu vực khác bên ngoài thành phố Moscow. Trải qua 4 năm lao tù ở đó, ông lãnh thêm 3 năm lao động khổ sai ở Kazakhstan, phía Tây Nam của miền Siberia (Tây Bá Lợi Á) rộng mênh mông, băng giá và đầy khắc nghiệt.

Trong 8 năm (1945-1953) đó, sau nầy Solzhenitsyn ghi lại hình ảnh kinh hoàng, đau thương đó trong các tác phẩm đã đề cập ở trên.

Tác phẩm đầu tay One Day in The Life of Ivan Denitsovich của ông gởi đến tạp chí Novy Mir - tạp chí văn chương hàng đầu cùa Liên Xô – được sự hỗ trợ của Kruschev cho vấn đề phổ biến tác phẩm, tên tuổi Solzhenitsyn được biết đến.

Trước đó, những nhà văn công cụ của chế độ để tuyên truyền như Gorky, Katayev, Aleksey, Shklovky... ca ngợi “công trình sáng tạo” của nhà nước qua nông trường, công trường tập trung cải tạo đã bưng bít thảm cảnh của “tù nhân cải tạo”, hình ảnh Ivan Denitsovich bằng xương bằng thịt mang số S-854 xuất hiện trên tác phẩm của Solzhenitsyn gây cơn chấn động trong lòng người với bao nỗi kinh hoàng, xúc động.

Trong thời kỳ của Khruschev, Solzhenitsyn đã hình thành được nhiều tác phẩm nhưng chỉ ấn hành có ba tác phầm: Matryona’s Home (Căn Nhà của Matryona), The Incident at Krechetvoskaya Staion, 1963 (Sự Thể Tại Trạm Krechetvoskaya), For The God of The Cause, 1964 (Lý Do Chính Đáng). Tác phẩm đầu tay One Day in The Life of Ivan Denitsovich của ông gởi đến tạp chí Novy Mir, tạp chí văn chương của Liên Xô, được phổ biến nhưng không ấn hành.

Tháng 10 năm 1964, Khruschev bị hạ bệ, Brezhnev lên cầm quyền, không khí độc tài, đảng trị lại bao trùm trên lãnh thổ Liên Xô, nhiều mũi dùi quay sang công kích trong Hội Nhà Văn Liên Xô tấn công Solzhenitsyn. Từ đó, tác phẩm của Solzhenitsyn bị các nhà xuất bản từ chối nên ấn hành lén lút trong nước và gởi chui ra ngoại quốc. Quyền tự do của Solzhenitsyn đã bị xâm phạm, công an, mật vụ xâm nhập tư gia, tịch thu gíấy tờ, bản thảo của ông. Solzhenitsyn viết thư phản kháng lên Hội Nhà Văn Liên Xô nhưng rồi tháng 11 năm 1968, ông bị trục xuất ra khỏi Hội.

Người bạn đời qua một phần tư thế kỷ nạp đơn ly dị. Trong thời điểm đó, hai tác phẩm The First Circle và Cancer Ward của Solzhenitsyn được xuất bản bằng tiếng Anh, đồng thời những bức thư của ông cũng được phổ biến ở Âu Châu đã gây tiếng vang lan rộng trước diễn đàn quốc tế. Tác phẩm Tầng Đầu Địa Ngục, bản dịch của Hải Triều, ấn hành ở Sài Gòn năm 1972. Văn Bút Quốc Tế và nhiều nhà văn danh tiếng viết thư gởi đến Chủ Tịch nhà nước Liên Xô Nikolai Pogonny để phản đối tình trạng khống chế, đàn áp tiếng nói trung thực của nhà văn Solzhenitsyn.

Ngày 10 tháng 12 năm 1970, Hàn Lâm Viện Thụy Điển tuyên bố trao tặng giải Văn Chương Nobel trong tình trạng vắng mặt nhà văn Solzhenitsyn. Năm 1958, tác phẩm Doctor Zhivago của nhà văn Boris Pasternat được trao tặng giải thưởng Văn Chương Nobel nhưng nhà văn bị đe dọa nên không dám nhận lãnh. Lần nầy, Solzhenitsyn bị rơi vào tình trạng đe dọa trầm trọng hơn, ông muốn ở lại quê hương để chứng kiến, chiến đấu với sứ mệnh của người cầm bút, ra đi, không có dịp trở về. Tên tuổi ông sáng chói nhưng tình trạng quản chế, kìm kẹp trong nước vẫn đè nặng trên bản thân ông. Năm 1971, tác phẩm August 1914 (Tháng Tám 1914) được phổ biến ở hải ngoại. Tác phẩm One Day in The Life of Ivan Denisvovich được Great Britain - Norway - U.S dựng thành phim, trình chiếu rộng rãi khắp năm châu.

Cuối năm 1973 và đầu năm 1974, tác phẩm The Gulag Archipelago (cuốn I & II) xuất bản ở Pháp, Quần Đảo Ngục Tù The Gulag Archipelago do Ngọc Thứ Lang chuyển ngữ, ấn hành ở Sài Gòn cuối năm 1974. Theo ông: “Tôi đã trải qua 11 năm trong quần đảo Gulag... nhờ đó, may ra, tôi có thể kể lại phần nào chứng tích thịt xương của chính con thằn lằn may mắn thay, còn sống sót”.

Tác phẩm The Gulag Archipelago là một công trình ghi chép, sưu tầm rất công phu của Solzhenitsyn để phơi bày hệ thống công an, mật vụ, lao tù quy mô và kinh hoàng dã man nhất trên thế giới. Theo ông, tất cả sự kiện trong quần đảo Gulag đều có thực, thấy sao viết vậy. Đó là bức tranh khổng lồ của hàng chục triệu Zek (gọi tắt của chữ Zecklychenny: tù nhân) trong guống máy cai trị, đàn áp của Cộng Sản Liên Xô. Con số ước tính của giới quan sát quốc tế, trong 4 thập niên từ 20 đến 60, có khoảng 20 triệu người chết trong “quần đảo Gulag”.

Gulag viết tắt các chũ Glavnoe Upravlenie Lagerei, Cơ Quan Giám Sát Các Trại Tù. Archipelago (từ gốc Hy Lạp có nghĩa là hòn đảo), vì vậy Gulag Archipelago gọi là Quần Đảo Ngục Tù.

Ngày 10 tháng 12 năm 1970, Hàn Lâm Viện Thụy Điển tuyên bố trao tặng giải Nobel Văn Chương trong tình trạng vắng mặt nhà văn Solzhenitsyn vì còn bị giám sát ở Liên Xô.

Tháng 12 năm 1974, Solzhenitsyn đến Stockhom, Thụy Điển để nhận giải thưởng trước đây của mình. Nhờ sự vận động của chính phủ Tây Đức cùng các cơ quan truyền thông, hiệp hội báo chí, văn bút... tận tình can thiệp nên Liên Xô “trục xuất”.

Các trại tù Liên Xô bị bưng bít trong bức màn sắt nhưng nhờ các tác phẩm của nhà văn Solzhenitsyn được ấn hành qua nhiều thứ tiếng (trong đó có tiếng Việt) nên cả thế giới mới biết rõ chốn lao tù Cộng Sản là địa ngục trần gian. Với tôi, lúc đó khi đã đọc những tác phẩm của Solzhenitsyn mới hiểu được chốn lao tù trong chế độ Cộng Sản.

*
Sau khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, thảm cảnh lại xảy ra với “Quần Đảo Ngục Tù”! GS Trần Gia Phụng (tác giả bộ sử Việt Sử Đại Cương) trong bài viết Những Trại Tù Học Tập Cải Tạo Sau Ngày 30-4-1975:

“… Sau ngày 30-4-1975, nhà cầm quyền mới ở Nam Việt Nam là Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam do đảng Lao Động tức đảng CS điều khiển, bắt giam tất cả những sĩ quan, công chức cao cấp của chính thể Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) nhằm các mục đích chính: 1) Triệt hạ vĩnh viễn quân đội và chính thể VNCH. 2) Giam giữ, bạo hành, trả thù, làm cho tù nhân sợ hãi, không dám chống đối chế độ mới. 3) Tiêu diệt tiềm lực VNCH, vì những người bị bắt học tập cải tạo ở độ tuổi trung niên để làm việc, sản xuất hay tranh đấu, có trình độ văn hóa trung bình cao so với trình độ văn hóa chung của toàn dân. 4) Bóc lột sức lao động của tù nhân, đưa đi canh tác những vùng đất bỏ hoang thời chiến tranh. 5) Đe dọa, trấn áp những gia đình có thân nhân bị tù. Nếu gia đình chống đối, thì tù nhân khó được trở về đoàn tụ gia đình. 6) Làm gương cảnh cáo dân chúng NVN, nếu vọng động thì sẽ bị số phận học tập cải tạo dài hạn không xét xử, làm ai cũng khiếp sợ.

Kế hoạch của CSVN nhằm tiêu diệt hoàn toàn quân đội VNCH rất tinh vi, chia thành hai phần: 1) Thứ nhứt, vào giữa tháng 6-1975, CSVN ra lệnh cho hạ sĩ quan và công chức cấp thấp VNCH học tập tại chỗ các khóa chính trị tử đến 7 hay 10 ngày tùy địa phương. 2) Thứ hai, CSVN ra lệnh sĩ quan VNCH từ cấp thiếu úy trở lên và công chức cao cấp VNCH phải trình diện từ 13-6 đến 16-6-1975 và chuẩn bị lương thực 30 ngày, để học tập chính sách của “chính phủ cách mạng” trong một tháng. (Bác sĩ Trần Vỹ, “Đời Sống Trong Trại Giam ở Miền Bắc”, đăng trong Vàng, Máu và Nước Mắt, sđd. tt. 239-250.)

Khi đại đa số sĩ quan, công chức VNCH trình diện, thì tất cả bị đưa đi giam trong các trại tù mà CS gọi là trại học tập cải tạo trên các vùng rừng thiêng nước độc, không tuyên án và không thời hạn. Nếu bỏ trốn, không trình diện mà bị CS bắt, sẽ bị án phạt nặng nề.

Sau những tuyên truyền huyễn hoặc thời chiến tranh trước năm 1975, đây là cuộc lừa phỉnh công khai vĩ đại của CSVN sau năm 1975 tại Nam VN, ghi đậm thành tích lừa dối phỉnh gạt của CSVN.

Người tù phải học tập chính sách của nhà nước CS, chủ nghĩa Mác-Lê, phải lao động từ sáng đến tối, dọn mìn, phá rừng, sản xuất, trồng trọt, làm gạch ngói, dựng nhà... Người tù đau ốm không thuốc thang, ăn uống thiếu thốn, đói quanh năm, khẩu phần rất thấp, so với khẩu phần của một tù nhân CS dưới chế độ VNCH. (Bác sĩ Trần Vỹ, bài đã dân.)

Theo bộ Encyclopedia of the Vietnam War, sau năm 1975, số lượng sĩ quan, công chức và cán bộ VNCH bị bỏ tù khoảng hơn 1,000,000 người trên tổng dân số NVN lúc đó khoảng 20 triệu người. Tất cả bị giam tại trên 150 trại giam; theo đó khoảng 500,000 được thả về trong 3 tháng đầu; 200,000 bị giam từ 2 đến 4 năm; 250,000 bị giam ít nhất 5 năm, và năm 1983 (tức sau 8 năm) còn khoảng 60,000 người bị giữ lại. (Spencer C. Tucker, Encyclopedia of the Vietnam War, a Political, Social, and Military History, Vol. two, Santa Barbara, California: 1998, tr. 602. Sách trích tài liệu của Sagan, Ginette and Stephen Denney, Violations of Human Rights in the Socialist Republic of Vietnam, Palo Alto, California: Aurora Foundation, 1983.)

Trong số trên 1,000,000 người bị tù sau năm 1975, theo những cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Âu Châu, có khoảng 165,000 nạn nhân đã từ trần trong các trại tù “cải tạo”. (Anh Do & Hieu Tran Phan, “Millions of lives changed forever with Saigon's fall”, nhật báo Orange County Register, Chủ Nhật, 29-4-2001, phụ trang đặc biệt về ngày 30-4, tt. 2-3.). Cộng Sản hứa hẹn sẽ thả ra khỏi tù những ai học tập cải tạo tốt, nhưng không có tiêu chuẩn xác định thế nào là cải tạo tốt, nên chẳng ai hiểu thế nào là học tập cải tạo tốt để được thả ra. Và cứ thế, CS tùy thích giam cầm quân nhân, công chức VNCH không thời hạn theo sáng kiến của CS”.

Cộng Sản Việt Nam đã lập khuôn Cộng Sản Liên Xô với Quần Đảo Ngục Tù mà họ gọi “trại học tập cải tạo” để đánh lừa dư luận quốc tế. Trải qua gần hai thập niên những tù nhân đã trải qua các trại tù từ Nam chí Bắc đã viết lại qua các tác phẩm (hồi ký):

Đáy Địa Ngục (Tạ Tỵ), Đại Học Máu (Hà Thúc Sinh), Cùm Đỏ (Phạm Quốc Bảo), Tầng Cuối Địa Ngục (Đỗ Văn Phúc), Hồi Ký Trại Ái Tử & Bình Điền (Dương Viết Điền) Vùng Đất Ngục Tù (Nguyễn Vạn Hùng), Những Người Tù Cuối Cùng (Phạm Gia Đại), Thép Đen (Đặng Chí Bình), Hối Ký Người Tù Cải Tạo của Đại Tá Nguyễn Huy Hùng, Trại Tập Trung của Duyên Anh, Tù Cải Tạo Hồi Ký (Nguyễn Đức Cung), Một Cuộc Đổi Đời KALE (Lê Anh Kiệt, Hồi Ký 17 năm trong các trại tù cải tạo của Cộng Sản), Vết Nám: Hồi Ký Tù Cải Tạo (Hoàng Long Hải), Đóa Hồng Gai (Nguyễn Thanh Nga), Hồi Ký Cải Tạo & Vượt Biên (Nguyễn Duy Chính), Lao Tù Cải Tạo & Những Phần Đời Của Định Mệnh (Nguyễn Kỳ Dzương, năm 2024)… Trong số tác phẩm bằng tiếng Việt, có hai tác phẩm của Đỗ Văn Phúc và Phạm Gia Đại do chính tác giả dịch ra tiếng Anh.

Năm 2003, nhật báo Viễn Đông mở cuộc thi viết Chuyện Người Vợ Tù Cải Tạo (CNVTCT), hơn 150 tác giả tham dự cuộc thi nầy, tuyển tập CNVTCT gồm 3 tập dày trên 1,300 trang được ấn hành trong năm 2004. Tôi được ở trong Ban Giám Khảo để tuyển chọn. Sở dĩ dùng chữ “cải tạo” cho đúng với “danh xưng” của Cộng Sản đã gọi nhưng thực tế là trại tù khắc nghiệt chẳng khác gì Liên Xô.

Sau đó, nhật báo Viễn Đông mở tiếp cuộc thi viết Chuyện Người Tù Cải Tạo. Gần một trăm bài viết xa, gần từ Ontorina, Canada (Trần Bá Đàm), Alberta, Canada (Nguyễn Văn Đặng), Hawaii (Ngô Xuân Tâm), Chicago (Thiên Lý), Oregon (Nguyễn Thế Thăng), South Carolina (Nguyễn Đình Hoài), Florida (Trường Giang), Washington DC (Phạm Ngọc Hoàng), Massachusetts (Nguyễn Thanh Ty), Tennessee (Joseph Nguyễn), Pensylvania (Lưu Quang Đức), Texas (Hoàng Duy Năng), Oklahoma (Lê Xuân Trường) Arizona (Hồ Hoàng Hạ)... đến Bắc, Nam California đã gởi bài về tham dự, ghi lại hình ảnh đau thương, khốn cùng... trong chốn lao tù từ nam ra bắc sau tháng 4 năm 1975 đến cuối năm 1990.

Tuyển tập Chuyện Người Tù Cải Tạo, do nhật báo Viễn Đông ấn hành vào tháng 6 năm 2007 gồm 2 tập, dày trên 850 trang, với 63 bài viết của tác giả là nạn nhân, chứng nhân...

Với nhiều tác giả, không phải là người cầm bút, nhờ cuộc thi viết về chuyện TNCT nầy để có cơ hội ghi lại tháng ngày đen tối, thảm khốc, hình ảnh người đã mất, tấm lòng của người bạn tù trong hoàn cảnh nghiệt ngã, bất hạnh, cảnh tử sinh mà trải qua bao thập niên còn kinh hoàng trong giấc mơ! Với người thật, cảnh thật, nói lên sự thật... cho thế hệ con em biết được thế hệ đi trước đã vùi chôn cuộc đời qua danh xưng “cải tạo”. Nói như Maurice Maéterlinck “Quá khứ lúc nào cũng hiển hiện” mà người rơi hoàn hoàn cảnh đau thương, khó thể quên được, nó như chiếc bóng canh cánh với cuộc đời.

Bài viết đầu tiên trong tuyển tập: Niềm Đau của Nguyễn Hữu Của, và hình ảnh tác giả trong xà kim: “Tôi cố chịu đựng, cơn khát kéo dài dằng dặc. Mắt tôi hoa lên, những giọt mồ hôi bắt đầu rịn ra trên trán, thân thể tôi mỏi nhừ, tay chân tôi rũ liệt không còn muốn cử động. Những vết đau nhức do những trận đòn thù thi nhau kéo về hành hạ thể xác vốn đã rã rời vì khát. Tôi lịm đi lúc nào không hay...”.

Bài viết cuối cùng trong tuyển tập: Cánh Hoa Tan Tác Của Sinh Ly của Hoài Hương, hình ảnh tác giả vừa mới sinh con đã ngậm ngùi chia cắt để vào trại tù: “Ngày về mừng mừng, tủi tủi, gặp lại mẹ già con thơ. Tóc mẹ đã đầy tuyết sương, con tôi nay đã 3 tuổi, chạy nhảy vô tư như không biết gì hết, chồng tôi vẫn nằm trong ngục tù cải tạo”. Vừa đoàn tụ với mẹ con thì nhận được giấy báo lên phường trình diện nhận lệnh đi khẩn hoang vùng kinh tế mới! “Nghe những câu đó, tôi nghẹn ngào không nói lên lời... Đầu óc tôi quay cuồng...” rồi hai tuần sau “Khăn gói quả mướp xuống vùng kinh tế mới để biến “sỏi đá thành cơm”“. Trong lao tù, ngoài lao tù... toàn bức tranh đen tối, sống còn để viết lại chia sẻ cho nhau, rất trân quý”.

(Trích Giới Thiệu Tuyển Tập Chuyện Người Tù Cải Tạo, 16/6/2007 của tôi còn lưu trữ trên trang web). Tuy đã trải qua chốn lao tù và có vợ tù cùng 3 đứa con thơ dại gánh chịu bao nghịch cảnh nhưng tôi nhiều lần chia sẻ cùng với Ban Giám Khảo, nhiều lần khi đọc những bài viết, không cầm được nước mắt! Và rất khó chọn tác giả nào trúng giải.

Thật không may mắn như tác phẩm của Solzhenitsyn, nếu toàn bộ tác phẩm trên được dịch ra tiếng Pháp, tiếng Anh thì cả thế giới hiểu rõ chốn lao tù của CSVN chẳng khác gì Liên Xô. Nhà văn Solzhenitsyn chỉ đề cập đến người tù, còn ở Việt Nam có cả người vợ tù, con tù… Cả mười nghìn trang sách trở thành tài liệu văn chương, lịch sử của đất nước.

Little Saigon, đánh dấu nửa thế kỷ mất nước

Vương Trùng Dương

(Nhà văn Yên Sơn ở Texas với Viện Nghiên Cứu Lịch Sử Cộng Đồng Tỵ Nạn VN, sẽ phát hành nhân dịp 30/4. Hôm qua (14/2) email cho tôi đóng góp bài viết cho quyển sách nầy, đánh dấu 50 năm mất nước. Nhân đây, quý vị có bài viết, gửi cho Yên Sơn yen68son@gmail.com) – VTrD (15.2)


Không có nhận xét nào: