“Kết thúc một bi kịch” - Do quá bận rộn với công việc khai khẩn, canh nông nên mãi đến năm 37 tuổi, Michael Benge mới nhận thấy còn phải làm một điều còn chưa làm. Tối 28/1/1968, anh ta leo lên chiếc xe Jeep, tự lái từ nhà lên thị xã Buôn Mê Thuột. Là nhân viên làm việc cho Cơ Quan Phát Triển Quốc Tế (USAID), làm cố vấn kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến của thế kỷ XX cho người Việt Nam. Michael Benge vẫn chưa biết gì về trận tổng tấn công của bọn giặc cướp cộng phỉ bắc việt xâm lược trong dịp Tết Mậu Thân 1968, cho đến khi một toán người vũ trang lạ mặt xuất hiện, chặn xe anh ta lại và kéo anh ta ra khỏi xe.
<!>
Mặc dù bị trói tay, Benge vẫn cố gắng thuyết phục tên chỉ huy toán quân rằng, anh ta chẳng dính dáng gì đến quân đội. Sau đó, bọn chúng bắt anh tháo giày để anh ta khỏi chạy trốn và đưa anh ta đi, mỗi khi đi chậm lại là mũi súng AK lại thúc vào lưng giục anh ta đi tiếp. Benge bị coi như tù binh và bị áp giải sang đất Campuchia.
Sau đó, toán quân áp giải Benge nhập vào một toán tù binh khác, chừng 12 người khác, gồm cả người Việt Nam và người Thượng. Ngày hôm sau, Benge được đưa đến một trại tù binh của đối phương nằm sâu trong rừng.
Tại đây anh ta chứng kiến cái-gọi-là “tòa án” man rợ rừng rú của bọn cộng phỉ bắc việt xử một số tù binh, theo tuyên án là biệt kích. Những người không may mắn sa vào tay giặc này đã bị bọn chúng xử bắn một cách tàn bạo ngay tại chỗ.
Vài ngày sau, nhân viên USAID (Benge) có thêm những bạn tù Mỹ. Trong số tù binh bị giam giữ tại trại, có cả những người khoác áo thầy tu. Đối phương cho rằng trong cuộc chiến xâm lược Việt Nam có phần can dự của những người tù binh này, dù họ khoác áo gì, hay dưới danh nghĩa nào đi nữa.
Lý luận của họ càng có cơ sở khi một tù binh người Thượng trốn thoát, anh ta lập tức chạy đến một đơn vị SOG, giúp những nhà phân tích xác định vị trí trại tù binh của đối phương. Là một bộ phận của “Trung tâm thu hồi nhân mạng hỗn hợp” (JPRC), SOG ra lệnh cho 5 toán biệt kích cùng 3 đại đội thuộc Lữ Đoàn Nhảy Dù 173 của Mỹ đi tìm kiếm những công dân Mỹ bị đối phương bắt.
Nhìn vào lực lượng ứng cứu, đủ thấy vị trí quan trọng của những tù binh trên, họ có giá trị rất cao nữa là khác. Bởi vậy, giải cứu tù binh là mục tiêu lớn nhất, thường xuyên nhất và lâu dài nhất của các cuộc hành quân Bright Light (giải cứu tù binh) của SOG.
Ngày 18/2/1968, SOG thả 5 toán biệt kích xâm nhập khu vực mà tay chỉ điểm người Thượng và những phân tích gia của SOG vừa đánh dấu trên bản đồ. Bốn toán không tìm được gì. Toán thứ 5 do Trung sĩ Larry Six Pack White làm trưởng toán, cùng Grant Bollenback và 4 biệt kích Thượng phát hiện được 1 hang động tại một tọa độ trên bản đồ.
Đến ngày thứ 3, họ nghe có người nói tiếng Việt. Toán biệt kích bò lên quan sát. Họ thấy chừng 25 tên cộng phỉ bắc việt, nhưng đối phương đã biết có biệt kích xâm nhập, đang dàn quân ra để tấn công.
Toán biệt kích bắn xối xả, khiến cho đối phương phải lui lại. Nhân đó, White chạy lên tìm những tù binh Mỹ. Anh ta chỉ đủ thời gian chụp được 1 nắm giấy tờ, nhét vào áo rồi bỏ chạy. Sau đó được trực thăng vũ trang yểm trợ, White dẫn toán di chuyển đến bãi đáp và được bốc trở về an toàn.
Qua phân tích những tài liệu, SOG cho rằng trong số những người bị bắt có 3 công dân Mỹ là Benge, Olsen và Blood. Cả 3 người đều còn sống. Tuy nhiên còn sống thì không có nghĩa là khỏe mạnh. Ba người bị xích chung lại với nhau, không được ăn uống đầy đủ, làm cho họ yếu đi để không đủ sức chạy trốn và cả 3 vẫn tiếp tục bị áp giải đến khu vực biên giới Việt Nam – Campuchia. Một tháng sau ngày bị bắt, Benge ngã bệnh sốt rét, rồi Betty cũng lên cơn sốt.
Hà Nội, 1973
SOG vẫn tiếp tục tìm dấu vết của họ để giải cứu. Một tù binh Thượng khác lại trốn thoát. Dựa vào tin tức người này cung cấp, ngày 7/4/1968, SOG mở cuộc tập kích vào trại tù binh, với lực lượng tham gia gồm: Trung đội thám báo thuộc chương trình Phượng Hoàng. Họ tìm được một chiếc lán bỏ trống và dấu vết của 3 người Mỹ mới được di chuyển đi nơi khác, trước đó khoảng 2 ngày.
Đến giữa tháng 5, hai người Thượng nữa trốn thoát, báo cáo cho biết Blood, Benge và Olsen bị giam ở một nơi cách Buôn Mê Thuột khoảng 35 dặm về hướng nam. SOG đưa một toán Phượng Hoàng vào tìm thì chạm trán với một đơn vị cấp đại đội của đối phương, phải bỏ chạy. Năm ngày sau, SOG thả hai toán biệt kích vào tìm, nhưng đối phương đã di chuyển trại giam tù binh đến nơi khác.
Mùa mưa năm 1968, Blood chết trong trại tù binh vì bệnh sưng phổi. Benge và Olsen bị thiếu dinh dưỡng, rụng răng, rụng tóc, cộng thêm bị ghẻ ngứa lâu ngày không khỏi.
Cuối tháng 11/1968, SOG thả toán biệt kích gồm 15 người từ Sở Chỉ Huy Nam (Buôn Mê Thuột) đi tìm trại tù binh, theo tin tức tù vượt ngục cung cấp. Họ đụng độ với quân cộng sản Bắc Việt trước khi đến trại giam. Đối phương lại di chuyển trại giam đến nơi khác.
Trong một lần chuyển trại, sức khỏe của Betty ngày càng yếu, đi không nổi. Benge đến gặp người quản trại xin thuốc cho Betty, nhưng lấy đâu ra thuốc. Ngay chính những người quản tù còn không có thuốc thì lấy đâu ra thuốc cho tù binh. Vì vậy, ba hôm sau, Betty Ann Olsen qua đời.
Riêng Benge sau khi di chuyển vào lãnh thổ Campuchia thì không ai biết tin tức gì nữa. Chỉ biết rằng tin tức về Benge sau này được chính Benge kể lại rằng, nhờ ăn rễ cây, côn trùng mà Benge mới sống đến ngày được trả tự do năm 1973. Ít ra thì anh ta cũng đạt được mục tiêu của mình là làm được một điều gì đó đáng nhớ.
Trong cuộc chiến Việt Nam, việc giải cứu tù binh gặp rất nhiều trở ngại. Ngay như lĩnh vực ngoại giao, nhiều khi đã gây rất nhiều rào cản cho các kế hoạch vượt biên giải cứu tù binh. Ngày 5/9/1968, một điệp viên ngầm cho biết, có hai tù binh Mỹ bị giam ở khu vực Thường Thới, cách Sài Gòn khoảng 100 dặm về hướng tây nam. SOG đã lập kế hoạch hành quân giải cứu tù binh đến hai lần, nhưng cả hai đều bị Washington bác bỏ vì tin tình báo không đầy đủ và khu vực dự định hành quân lại nằm bên kia biên giới Việt Nam – Campuchia.
Ngày 21/9, Washington bác bỏ kế hoạch giải cứu số tù binh bị giam giữ tại vùng Mỏ Vẹt, kể cả những trại tù binh ở Lào. SOG tìm cách quay sang mua chuộc bằng tiền mặt để đem được tù binh về, với cái giá mỗi tù binh là 5.000 đồng.
Đại úy Fred Caristo, một sĩ quan trong Ban Tìm Kiếm Hỗn Hợp đã nhiều lần gặp đại diện của phía việt cộng tại vùng đồng bằng sông Cửu Long để điều đình về việc chuộc 5 tù binh Mỹ, với số tiền lót tay giao dịch là 25.000 đồng. Nhưng đó chỉ là câu chuyện phiếm mà thôi.
Có một sự kiện chắc đã được lưu trong hồ sơ của CIA. Đó là việc SOG cử một sĩ quan gặp đại diện của một trại tù binh để thương lượng về việc chuộc 21 tù binh Mỹ bị giam giữ ở khu vực gần Tây Ninh. Ngày 11/11/1970, phái viên Ban Tìm Kiếm Hỗn Hợp trao cho viên sĩ quan đại diện quân cộng sản bức thư của Tướng Abrams, Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam, xác định rõ số tiền chuộc 21 tù binh Mỹ. Người Mỹ quen giải quyết mọi việc bằng tiền. Nhưng có điều họ không hiểu cách xử sự ấy sẽ không đem lại kết quả.
Tháng 7/1969, một gã chiêu hồi ở gần Chu Lai, Quảng Nam cho biết về một bệnh viện của đối phương trong đó có giam một tù binh Mỹ da màu. Qua phân tích, SOG quả quyết đúng quân nhân đó là Larry Aiken, bị bắt ngày 13/5/1969.
Gã chiêu hồi đồng ý dẫn đường cho lực lượng SOG tập kích vào quân y viện, nằm cách Chu Lai khoảng 20 dặm về hướng tây nam. Đơn vị SOG cấp tốc tổ chức cuộc hành quân, do trực thăng của Sư Đoàn 101 Nhảy Dù yểm trợ, theo Chương Trình Phượng Hoàng, cộng thêm một đơn vị của Quân Đội VNCH làm nút chặn.
Ngày 10/7, liên quân Mỹ - Việt theo chỉ điểm của gã chiêu hồi mở cuộc tấn công vào bệnh viện của đối phương, nằm ẩn trong một thung lũng rậm rạp. Chỉ để giải thoát một quân nhân da màu Mỹ, họ đã đem cả một đội quân cơ động bằng máy bay tấn công vào một bệnh viện, mà ở đó chỉ có những thầy thuốc và thương bệnh binh.
Không biết chuyện tàn sát các thương bệnh binh và thầy thuốc ra sao, vì không thấy đề cập đến vấn đề này trong tài liệu. Chỉ biết rằng họ đã tìm thấy người quân nhân da màu Larry Aiken.
Khi liên quân Mỹ - Việt tấn công vào bệnh viện nọ, quân Việt cộng bỏ chạy; nhưng trước khi rút lui, bọn chúng đã không quên bản chất độc ác, man rợ của bọn chúng là tàn nhẫn “để” một dao vào đầu người tù binh da màu xấu số !
Khi liên quân Mỹ - Việ tìm thấy anh ta thì anh ta vẫn còn sống nhưng đang hấp hối. Nhưng sau đó, mặc dù các bác sĩ đã đem hết khả năng ra cứu chữa, Larry không hề ra khỏi tình trạng mê man và 10 ngày sau đó, anh ta chết. Có lẽ kết cuộc lần này hẳn CIA cũng không mong muốn.
Trở lại những vấn đề ngoại giao. Kể từ ngày 30/6/1970, không một toán biệt kích nào của lính Mũ Nồi Xanh làm trưởng toán được phép vượt biên sang Campuchia. Những cuộc hành quân vượt biên qua Lào còn khó khăn gấp bội, không có bất cứ cuộc hành quân giải cứu tù binh nào ở bên Lào của SOG được chấp thuận.
Trong khi đó, số quân nhân bị mất tích ngày càng gia tăng, đặc biệt trên lãnh thổ Lào. Ngày 31/7/1969, một toán biệt kích gồm 6 người do Đại úy Dennis Neal làm trưởng toán, xâm nhập sâu vào lãnh thổ Lào khoảng 20 dặm gần đường 921.
Ngay khi đáp đất, toán biệt kích đã bị tấn công. Lần liên lạc cuối cùng của toán, nghe rõ tiếng cầu cứu trên máy truyền tin: “Cấp cứu! Cấp cứu! Chúa ơi! Nhanh lên!”. Toán ứng cứu Bright Light được phái đến tìm, nhưng không tìm thấy một xác chết hay một dấu hiệu nào khác.
Ngày 13/11/1969, một toán biệt kích khác do Trung sĩ Ronald Ray làm trưởng toán, toán phó là Trung sĩ Randy Suber cũng bị xóa sổ trong khu vực cách thung lũng A Shau 20 dặm về hướng tây đường 923. Số phận toán biệt kích cũng không ai còn nghe tới.
Thượng sĩ Tony Deluca, một trưởng toán biệt kích thuộc Sở Chỉ Huy Nam ở Buôn Mê Thuột đến làm việc tại Ban Tìm Kiếm Hỗn Hợp, đã xác nhận năm 1969 có 104 quân nhân Mỹ bị mất tích ở Lào, tính đến ngày 1/9/1970 thì có thêm 59 người, nâng tổng số lên 327 người. Trong số đó, có 10 người được quân cộng sản Bắc Việt trả tự do.
Ngày 25/10/1970, toán biệt kích Fer De Lance bị một đơn vị lớn của cộng sản tấn công và tiêu diệt trên đất Lào, mất thêm một biệt kích có hạng là trưởng toán David Davidson, vốn là bạn thân của Deluca. Trung sĩ David “Babysan” Davidson đã làm trưởng toán được 3 năm. Anh ta rất nổi tiếng trong số các giai thoại về lực lượng SOG.
Tiếng tăm của Davidson có lẽ chỉ thua Jerry “Mad Dog” Shriver. Một trưởng toán biệt kích khác là Sonny Franks nhận xét: “Anh ta đi rừng rất giỏi, bất chấp mọi nguy hiểm. Anh ta luôn dẫn dắt được toán trở về”.
Giống như chuyến xâm nhập định mệnh, “Babysan” không những không đưa được toán trở về, mà thậm chí anh ta còn mất mạng.
Chuyện là vào một buổi chiều, vào tháng 10/1970, khi toán Fer De Lance đang hoạt động tại một rặng núi ở phía nam đường 922 của Lào, cách thung lũng A Shau 10 dặm về hướng tây. Máy bay trinh sát “Covey” (chó biển) bao vùng nghe “Babysan” báo cáo quân Bắc Việt đang truy lùng họ.
Thời tiết hôm đó có nhiều mây che phủ và chiếc “Covey” phải bay trở về lấy thêm xăng. Khi chiếc “Covey” quay trở lại, thì “Babysan” đã ăn đạn, rơi xuống vực. Toán phó là Trung sĩ Fred Gassman báo cáo đang bị đối phương bao vây tứ phía. Ngay sau đó, báo cáo thêm là anh ta bị thương và máy vô tuyến cũng trúng đạn nên hỏng nặng.
David "Babysan" Davidson
Đêm hôm sau, Trung Sĩ Frank Burkhart, một cựu trưởng toán của hai toán biệt kích Miter, anh ta là bạn thân của “Babysan”, ngồi uống rượu trong một quán bar ở Sài Gòn, anh ta nói với người bạn ngồi đối diện là Tony Deluca, rằng anh ta muốn dẫn một toán ứng cứu Bright Light đi tìm xác “Babysan”.
Nhưng Deluca xua tay, lắc đầu: “Babysan đã chết, mình phải lo cho người sống đã!”. Để cho Burkhart đỡ buồn, Deluca ngồi kể chuyện cho Burkhart nghe.
Đại để là vào khoảng cuối tháng 9, qua khai thác một hàng binh của bọn cộng sản Bắc Việt, SOG biết rằng có một trại tù binh giam giữ 12 tù binh Mỹ. Theo đó, ngày 3/10, SOG thả một toán biệt kích Earth Angle, gồm toàn hàng binh Bắc Việt, tìm kiếm trại tù binh. Họ đụng độ với đơn vị tuần tiễu của đối phương, đành phải rút lui.
Qua không ảnh xác nhận vị trí trại tù binh của đối phương là có thật. Phòng Nhì Bộ Tư Lệnh Quân Đội Mỹ tại Việt Nam (MACV) đã gửi một tấm ảnh đến Phnôm Pênh để gã hàng binh Bắc Việt xác định. Gã ta quả quyết đúng, qua máy dò sự thật.
Gã ta sau đó tình nguyện dẫn toán biệt kích đi giải cứu, nhưng kế hoạch bị bác bỏ. Chính quyền Washington không muốn có sự hiện diện của bất kỳ quân nhân Mỹ nào trên đất Campuchia. Deluca nói rằng anh ta có ý định riêng để thực hiện.
Sáng hôm sau, Thượng Sĩ Deluca không đến Bộ Chỉ Huy SOG để làm việc. Anh ta mặc thường phục đón taxi vào sân bay Tân Sơn Nhất, mua vé của Hãng Hàng Không Thái Lan đi Bangkok, với một túi xách tay chứa mấy món đồ bằng vàng trị giá hàng ngàn dollar.
Đến Bangkok, Deluca tìm đến một phụ nữ Lào bí ẩn, người mà anh ta biết qua tin tình báo. Người phụ nữ này quen biết với giới trung lưu Lào.
Với sự giúp đỡ của chị ta, Deluca đón xe lửa đi về hướng đông bắc đến biên giới Thái – Lào, gần thị xã Savanakhet. Một sĩ quan SOG cho biết: “Đó là lần cuối cùng có người trông thấy Deluca. Anh ta xâm nhập vào đất Lào một mình đi tìm tù binh”.
Vài tuần sau, ngày 26/06/1971, Thiếu Tá Ed Lesesne được mời đến Căn Cứ Không Quân Nakhon Phanom ở đông bắc Thái Lan để nhận diện một tử thi.
Khi kéo tấm vải phủ trên tử thi ra, Lesesne nhận diện đúng là xác của Deluca. “Anh ta bị bắn 8 hay 9 viên đạn. Không biết có phải Deluca bị hành quyết hay không, vì họ đã rửa xác cho Deluca”. Khi đó, Deluca được 38 tuổi.
Trung Tá Radke coi cái chết của Sebastian Edward (Tony) Deluca là “Kết thúc một bi kịch”. (Sài Gòn trong tôi - CCBM-NKT/BTTM)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét