Chợt nhớ xuân nào trên chiến địa,
Tao mày hiu hắt đón xuân chơi
Một thằng bộ binh đời như bỏ
Một đứa nhảy dù cũng tả tơi..
4 câu thơ cũ mới đó mà đã mấy mươi mùa thương nhớ, càng khiến cho người lính già thêm trơ trọi lạc lõng, giữa tối 30 lạnh lẽo nơi chốn quê người. Trong quán khách bên đường, ta một mình sóng đôi với ngọn đèn hiu hắt, qua đêm lại 1 năm buồn. Rượu chưa nhắp mà môi đã muốn cay sè, ngoài trời con chim kỷ niệm vẫn như thiết tha giục giã dù khói lửa đã ngưng trên chiến địa, bạn bè cũng không còn quan hà cạn chén ly bôi, sau những tiếng tỳ bà nhặt khoan nức nỡ.
<!>
Tan tác, chia xa giờ đây chúng ta đang lang thang như mây chiều, sau những năm tháng đã dốc ngược đời mình cho quê hương. Lính là thế đó, buồn nhiều vui ít với một chút nhun nhén tình cờ bắt gặp, trên các nẽo đường hành quân vô định, qua dăm ba ngày Tết dưỡng quân hay canh giặc chốn tiền đồn lẽ loi ngoài quan tái.
Ai đã từng là lính mới cảm thông cho lính, sống thật cô đơn lếch thếch và chết cũng rất hiu hắt ngậm ngùi. Thời gian và không gian đời lính cũng chẳng qua chỉ là một cái mốc vô tình để biết ta hiện hữu. Nhưng thôi tiếc làm gì ai biểu ta sinh ra làm trai hùng đất Việt? nên phải chấp nhận kiếp lính “ôm yên gối trống đã chồn, nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh” để rồi thui thủi “đêm từng đêm ngó mông lung, ôm cây súng lạnh hát rừng mà nghe”...
Gần 13 năm lính tết nào cũng tết tha hương, xuân ở đâu cũng xuân lữ thứ. Ðêm trừ tịch giữa tối 30 mươi cái khoảnh khắc năm cũ sắp tàn, khi mà mọi nhà chặt then kín cửa, để sửa soạn đón giao thừa trong niềm hạnh phúc của gia đình, thì lính cũng đón chào năm mới trong chiếc hầm trốn đạn hay mái chòi canh giặc đen tối lạnh băng. Nhớ từ đâu bỗng kéo tới, vây kín cái không gian nhỏ hẹp này. Ngoài trời mưa xuân đến sớm nhưng sao buốt lạnh quá chừng, khiến cho ta thêm buồn rầu trong bóng tối một tết tha hương. Dường như có ai đang hát ru một khúc tình ca của lính, nhắp một chút men nồng để thấy lại ngày xưa, để ta dìu ta trở về những mùa xuân cũ, những tết không bao giờ quên được trong cuộc đời.
1- TẾT LÍNH ÐẦU TIÊN TRÊN RỪNG NÚI MIỀN TÂY BẮC BÌNH THUẬN:
Ma Lâm xưa nay vẫn là cửa ngỏ để nhập vào vùng tây bắc Bình Thuận hùng vĩ và đầy huyền thoại. Ma Lâm là thủ phủ của quận Thiện Giáo, nằm giữa châu thổ phì nhiêu của con sông Cả (Quao) phát nguyên tại Di Linh và ra biển Ðông tại cửa Phú Hài. Quốc lộ 12 hay còn gọi là Liên tỉnh lộ 8 chạy ngang qua đây, được hoàn thành ngày 1-10-1914 từ Phan Thiết đi Di Linh. Ðây là biên địa cuối cùng của Vương quốc Chiêm Thành trước khi mất nước vào năm 1693, nên có nhiều người Chàm và Thượng Ba Phủ sống tại các xã Ma Lâm Chàm, Phú Nhiêu, Sông Trao, Trịnh Hòa, Tịnh Mỹ. Tuy những địa danh như Rừng Ðú, Mang Tố, Làng Chão, Vũng Dao.. và các câu chuyện xưa về người Chàm trên mãnh đất Bình Thuận, theo thời gian tan biến vào cát bụi nhưng muôn đời vẫn còn là huyền thoại đẹp của một thời vang bóng. Vì địa thế hiểm trở lại thêm chinh chiến triền miền nên quốc lộ gần như bị bỏ hoang, cũng như hầu hết miền tây bắc bị quên lãng, để mặc cho người Thượng tha hồ đốt rừng bừa bải làm rẫy, dù vùng này nếu ruộng đất được khai thác, cũng đủ cung ứng nhu cầu lúa gạo cho nhiều người trong tỉnh.
Gần Tết Nguyên Ðán năm 1964, chúng tôi gồm 15 đứa mãn khóa từ Sài Gòn bổ sung cho Trung Ðoàn 43 biệt lập, lúc đó do Thiếu Tá Võ văn Cảnh (sau lên chuẩn tướng là tư lệnh Sư đoàn 23 bộ binh năm 1972), làm Trung Ðoàn Trưởng kiêm Biệt Khu Trương Biệt Khu Bình Lâm, trách nhiệm 3 tỉnh Bình Tuy-Bình Thuận-Lâm Ðồng. Bộ chỉ huy biệt khu đóng tại quân Di Linh với Ðại đội Trọng Pháo của Ðại Úy Ngô Tất Tống và Tiểu đoàn 3/43 của Ðại Úy Công. Riêng Tiểu đoàn 1/43 của Ðại Úy Ngô văn Diệp (tử trận năm 1965 tại Trảng Bàng) và Tiểu đoàn 2/43 của Ðại Úy Hai, thì hành quân thường trực tại Bình Tuy-Phan Thiết.
Ngày đầu tiên về đơn vị lại là ngày cuối năm, nên khi xe lửa tới Ðà Lạt vào buổi chiều cũng là lúc thiên hạ đang rộn rịp chuẩn bị đón giao thừa. Cao nguyên Lâm Viên mùa Tết, nên trời rét căm căm. Bọn chúng tôi đều sinh trưởng tại miền biển và đồng bằng sông Cửu Long, nên chịu không thấu với cái lạnh cắt da tím thịt nơi chốn biên tái, trong bộ đồ trận mỏng manh, qua đêm đầu tiên tại nhà vãng lai của Tiểu Khu Tuyên Ðức.
Viết sao cho hết nổi buồn rầu của bọn lính xa nhà trong đêm trừ tịch? dù tết Ðà Lạt thật tuyệt vời, khiến ta cứ ngỡ như mình đang lạc lối đào nguyên giữa hoa và người đẹp, cả hai sắc hương dường như đang cùng với mây trời ngạt ngào trong sương giá. Ðà Lạt đêm xuân thú vui không kể xiết, khắp phường phố thiên hạ quần áo là lượt hạnh phúc, gắn bó từng cặp, từng đôi trong muôn màu đam mê rực rỡ nhưng với bọn lính mới đầu đời, Ðà Lạt lại vô tình hờ hững. Bởi vậy mười mấy đứa đều mong mau sáng, để sớm trả lại cái thiên đường hạnh phúc mà trời trót dành cho những giai nhân tài tử.
Rồi thì chia tay, dăm đứa gọi là kém may mắn khi về Tiểu đoàn 3/43 gần mặt trời, số còn lại bổ sung cho Tiểu đoàn 1 và 2/43. Một cuộc hành quân mở ra vào ngày mùng 3 tết nguyên đán, mục đích khai thông quốc lộ 12, đưa lính mới và quân trang quân dụng bổ sung cho 2 đơn vị tại Bình Thuận. Nhờ vậy mới có dịp hưởng được một cái tết núi rừng vui nhộn với người Koho quanh bếp lửa hồng.
Bộ tộc Koho sống đông đảo tại cao nguyên nam Trung Phần, có nguồn gốc pha trộn từ nhiều sắc dân Chàm, Mã Lai, Indonesian và Chân Lạp.. gồm các bộ lạc Churu, Noang, Sre, Maa, Sil, Toa, Queyong, Lat, Nop, Kodiong, Nam.. chủ yếu sống tại các tỉnh Quảng Ðức, Tuyên Ðức, Lâm Ðồng, Bình Thuận, Bình Tuy và Long Khánh. Ðược vui Tết với người Koho là một thích thú tột cùng, vì ngoài việc được ăn uống tự do, còn hưởng được tình người qua cử chỉ, một hành động đối với người Việt trong thời chinh chiến, hầu như đã mất mát hay nếu còn cũng chẳng qua là sự giả tạo hay lớp phấn hào nhoáng bên ngoài.
Vì lộ trình bị bỏ hoang lâu ngày không được sửa chữa và xử dụng nên khắp nơi đầy ổ voi ổ gà. Thêm vào đó là nhiều đèo cao với vô số khúc quanh co lên trời, xuống lũng. Do vậy đoàn xe di chuyển rất chậm vì phải mở đường và tu bổ quan lộ, nên đêm đó phải đóng quân và cũng là dịp ngàn năm một thuở được chủ làng trong buôn Koho, tại thung lũng Klonodium sát đường mời ăn Tết.
Theo truyền thống, buổi lễ được tổ chức giữa sân nhà Hội Ðồng. Tất cả đều là sự quyên góp chung từ củi đốt, trâu bò tới rượu cần. Quang cảnh đêm Tết thật hấp dẫn với đống củi cao như núi đủ rực sáng suốt đêm, mấy trăm hủ rượu cần và 3 con trâu cột sẳn quanh các hàng cộc được chạm trổ. Khắp nơi còn có những cây phướng, nêu và cờ xí càng tăng thêm nét đẹp và trang nghiêm trong ngày Tết.
Rồi lúc ráng chiều vừa khuất sau rặng núi Bà cao đen thăm thẳm đầy huyền bí, cũng là lúc chiêng trống nơi nhà Hội Ðồng trổi dậy, thúc giục dồn dập như tiếng trống trận xua quân, kêu gọi mọi người trong Buôn tề tựu nơi bếp lửa hồng vừa cất cao ngọn. Tiếng lửa lách tách nổ vui tai, cộng với tiếng người chuyện trò huyên náo. Nam nữ, già trẻ vui Tết ăn mặc quần áo đẹp và mới nhất của họ, dù chỉ là thứ vải bâu thô thiển. Ở đây hoa nhiều không đếm hết nhưng cũng không có hoa gì đẹp hơn hoa mai khiến đêm thêm ngát hương, làm cho lính đã ngây ngất bên ché rượu cần, lại càng ngẩn ngơ hóa bướm vì tiếng hát ngây thơ hồn nhiên của các cô gái vùng cao. Hỡi ôi kỷ niệm mấy chục năm qua rồi, mà sao trong hồn mỗi lần chợt nhớ, dường như lại muốn khựng khi tưởng tới vị chua chua của rượu cần và mùi hương hoa núi rừng tây bắc. Sáng tinh sương lính lại lên đường, không được như người Koho sung sướng tiếp tục cuộc vui Tết quanh các gia đình, cho đến hết tháng giêng mới chấm dứt khi cả Buôn không còn rượu và thịt:
“Ớ chàng trai lính ơi,
đừng quên đêm nay bên vũ điệu Lam Tơi,
đôi ta tình cờ quen nhau ngắn ngũi
nhưng em nguyện chờ chàng trở về ...”
2- NHỮNG NGÀY TIỀN ÐỒN Ở TÙNG NGHĨA, TUYÊN ÐỨC:
Sau hiệp định Genève 1954 chia đôi đất nước, một số người Thái sinh sống tại tỉnh Lai Châu đã từ bỏ thiên đàng xã nghĩa miền bắc, di cư vào Nam để tìm tự do và lập nghiệp tại xã Tùng Nghĩa, quận Ðức Trọng, tỉnh Tuyên Ðức, gần phi trường Liên Khương ngả ba Di Linh-Ðà Lạt-Ðơn Dương.
Thời tiền chiến, Hoàng Ly đã viết bộ tiểu thuyết trường thiên dã sử nổi tiếng “Lửa hận rừng xanh”, hư cấu cuộc đời của Tù trưởng Ðèo văn Lang, vua của người Thái đen Thái trắng sống ở miền tây bắc Lai Châu rộng lớn, từ Phong Thồ, Nậm Nà tới Mường Lay, Mường Tè, Bản Pháp.. xứ sở của hoa ban, loài hoa trắng mọc chênh vênh ven vách núi, mùa xuân nở trắng núi đồi xứ Thái.
“ Ðón giao thừa một phiên gác đêm
chào xuân đến súng xa vang rền
Xác hoa tàn rơi trên bán súng..
ngỡ rằng pháo tung bay, nào ngờ hoa lá rơi”...
Bài hát cũ của nhạc sỹ Nguyễn văn Ðông mấy chục năm về trước, nay sao vẫn nhớ như niềm nhớ về một cái tết xa xưa rất tình cờ với đồng bào Thái Trắng, khi tiểu đoàn nằm tiền đồn, giữ an ninh ngoài vòng đai Tùng Nghĩa. Theo phong tục cổ truyền, hầu như tất cả các dân tộc thiểu số vùng thượng, trung Bắc Việt cũng như cao nguyên Trung Phần, hằng năm đều có nhiều lễ hội. Người Thái cũng vậy nhưng quan trọng hơn hết đối với họ vẫn là Tết Nguyên Ðán NEN BƯƠNG TIÊN, thường được tổ chức tiếp theo Lệ ăn cơm mới và uống rượu Kim Lao Mao, mừng trúng mùa, cũng như ngày Tết Thần Táo vào tối đêm 23 tháng chạp, cũng giống như người Việt, rất trọng thể khắp mọi nhà, mọi đình làng với lễ vật gồm gà, xôi, rượu, vàng giấy và hoa quả. Người Thái sống lâu năm trên đất Việt nên Tết Nguyên Ðán gần giống người Kinh, nhất là từ khi họ di cư vào miền Nam. Ðêm giao thừa, mọi người đều ăn mặc quần áo mới, sặc sở và diêm dúa nhất vẫn là các cô gái chưa chồng trong lễ hội “Tung Cầu” với thanh niên chưa vợ, để rồi sau đó từng cặp sóng sánh cười vui, qua cuộc tình đầu xuân vừa chớm nở. “Chốn biên thùy này xuân tới chi, tình lính chiến khác chi bao người”, nên đêm tiền đồn được vui ké với bản làng một cái tết vui nhộn từ đầu thôn tới cuối ấp, nơi nào cũng vang vang tiếng pháo, khiến người lính trẻ xa nhà chạnh lòng để rơi nước mắt, khi nhớ về những ngày xuân cũ, nhớ màu hoa cúc hoa mai, tết đến nở tròn như mắt môi em một thời tuổi học “tay anh ghì nhẹ trên báng súng, cứ ngỡ cùng em sóng bước xuân”.
3- ÐÊM CHỜ TẾT NGOÀI VÒNG ÐAI ÂP CÂY BÀI (CỦ CHI):
Cuối năm 1964, toàn bộ Trung Ðoàn 43 biệt lập từ Di Linh tăng phái hành quân cho khu 32 chiến thuật trách nhiệm tỉnh Hậu Nghĩa nhưng chủ yếu là tại quận Củ Chi bảo vệ an ninh cho các xã Bình Mỹ, Tân Thạnh, Trung An, Phú Hòa Ðông, Phước Vĩnh An, Tân Phú Trung, Tân Thông, Nhuận Ðức, Trung Lập, Phước Hiệp, Thái Mỹ, An Nhơn Tây, Phú Mỹ Hưng và phố huyện Tân An Hội nằm trên quốc lộ 1 từ Sài Gòn đi Tây Ninh. Lúc đó, BCH Trung đoàn đóng tại Tân Thông, các tiểu đoàn 2 và 3/43 nằm tiền đồn khắp các xã xôi đậu. Riêng Tiểu đoàn 1/43 được dưởng quân 3 ngày Tết tại Quận, vì đã lội suốt 1 năm khắp các chiến trường Phan Thiết, Bình Tuy, Long Khánh, Bình Dương, Bình Long và Hậu Nghĩa. Cũng vì vậy, Ban 5 /TÐ đã soạn thảo nhiều chương trình để lính và gia đình vui một cái Tết đặc biệt tại hậu phương. Ngày 30 tháng chạp đơn vị xuất tiền hành quân, công thêm tiền thưởng của Tỉnh và Trung Ðoàn, giao cho Ban 4 ra chợ Củ Chi mua sắm gà, vịt, heo, bò, bánh trái và rượu đế Bà Ðiểm làm tiệc tất niên. Lúc đó, đa số lính của TD là người Trung, nên trong dịp Tết chỉ có một số nhỏ có gia đình tại Sài Gòn và vùng lân cận được phép miệng về thăm gia đình, còn hầu như là ở lại với đơn vị. Vì khỏi trực gác, nên lính tha hồ rong chơi khắp hàng quán, dù phố lỵ Củ Chi nhỏ xíu và buồn hiu, lưa thưa vài hàng quán và cái lồng chợ cũng bé bỏng khiêm nhượng. Cũng may quận nằm trên quốc lộ 1, nên có rất nhiều xe đò xuội ngược Sài Gòn-Trảng Bàng-Tây Ninh.. cũng như ngả rẽ tới Bầu Trai, Hiệp Hòa, Ðức Huệ.. Ðứng bên đường,nhìn trộm những người đẹp ngồi trên xe, đang hối hả mua quà vật khi xe ngừng, hồn lính cũng cảm thấy phần nào vơi đi nổi nhớ nhà. Ở đây mùa đông không lạnh lắm so với Phan Thiết nhưng gió nhiều nên cũng tái tê se sắt. Bao nhiêu năm lính, lần đầu được vui một cái tết thị thành cũng thấy an ủi phần nào.
Nhưng Tết chưa tới, tiệc cũng còn đang sửa soạn, thì lệnh hành quân khẩn cấp từ Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn ban xuống. Quân báo và an ninh Tiểu đoàn lái xe ruồng bố khắp nơi để gom lính, làm cho người Củ Chi ngạc nhiên túa ra đường dòm ngó, như thể họ đang xem hát tuồng. Và rồi nửa giờ sau Tiểu đoàn 1/43 lại lên đường, lính chỉ mang theo súng đạn và nước uống với nhiệm vụ giải tỏa Ấp Cây Bài vừa bị giặc lợi dụng lệnh hưu chiến, từ mật khu Hố Bò tràn vào chiếm Ấp và bắt đồng bào làm con tin đỡ đạn. Quân ra đi như bóng ma đói, ai cũng phờ phạc buồn rầu thấy rõ, đầu gục xuống súng vác vai, bất kể đội hình kỹ luật, im lặng như hến. Thế là thêm năm nữa tàn mộng tết-xuân.
4 giờ rưỡi chiều 30 Tết Tiểu đoàn 1/43 đã có mặt ngoài vòng đai Ấp, trong khi đó toàn bộ Trung Ðoàn đều tham dự cuộc hành quân này và các đơn vị đang dần xiết vòng vây. Súng nổ khắp bốn hướng giữa ta và địch, từ trong Ấp cho tới Làng Paris Tân Qui, Bến Cỏ, Phú Hòa, Ấp Nhà Việt.. chổ nào cũng có đụng lớn. Riêng TD 1/43 án ngử ngay con đường tỉnh lộ dẫn vào Ấp, đường đã bị cày xới tan nát. Ấp nằm trong tầm ngó nhưng mù mịt vì bom đạn lửa khói và rừng cao su ngút ngàn che phủ. Cánh đồng lúa ven làng đang bắt đầu ươm hạt, mùi thơm sữa lúa theo gió thoang thoảng khắp nơi, mũi mòng từng đàn đáp đậu trên da thịt, tha hồ xơi tái lính. Trong cảnh buồn rầu thê thiết, ai cũng thẩn thờ quên đau vì muỗi chích khi nghĩ tới đồng bào vô tôi đang nằm giữa dao thớt chiến tranh, trong khi các nơi khác mọi nhà đang rộn rịp náo nức đón xuân về. Thời gian qua thật chậm, chiến trường vẫn sôi sục bom đạn. Còi thúc quân vang dậy dồn dập nhưng lính vẫn không tiến nổi vì các khẩu súng cộng đồng của giặc từ các cao điểm trong Ấp bắn chận dữ dội, khiến cho lính Tiểu đoàn 1/43 lần hồi rụng tã tơi như mấy cánh mai vàng trước gió xuân tơi tả, khi tiệc tất niên chưa kịp hưởng đã vội về với đất lạnh. Thân phận của người lính trận VNCH là như vậy, làm sao mà không buồn không hận và không than trách cho kiếp đời hẫm hiu héo úa?
Không thể làm gì hơn, nên Bộ Chỉ Huy hành quân đã xin Khu chiến thuật nhờ không quân can thiệp. Màn đêm hững hờ buông rèm gói trọn vạn vật, chỉ còn nghe tiếng L19 và Khu trục cơ Skyraider vần vũ dội bom bắn phá mục tiêu. Xa xa về hường Sài Gòn, trời sáng hồng trong đêm tối, giờ này thiên hạ đang vui say chè chén nhảy nhót và hạnh phúc. Nên chắc không ai hoài công nghĩ tới, lúc đó tại một thôn xóm hẻo lánh nghèo nàn, có không biết bao nhiêu người, dân cũng như lính, địch lẫn ta đang lặn lội trong bom đạn, chỉ mong được phép lạ để sống còn. Suốt đêm trừ tịch, máy bay liên tục dội bom, Ấp Cây Bài đắm chìm trong biển lửa. Ngoài rìa ấp Tiểu đoàn nằm chờ trời sáng. ai cũng đói lạnh nên nhiều người mặc kệ lăn kềnh trên đất ngáy khò, bất kể cái chết kề cận.
Tờ mờ mồng 1 Tết, quân vào Ấp trong nổi thê lương tận tuyệt. Khắp nơi chỉ là nổi chết từ người tới trâu bò heo chó. Giặc đã chém vè bằng các đường giao thông hào, bỏ lại nhiều tử thi lõa lồ bất động. Chiến tranh tàn nhẩn, oan nghiệt khiến suốt đời lính không quên được hình ảnh chết chóc của những người dân lành vô tội, giữa nhang đèn bánh mứt.. chờ đón xuân về.
4- CHUYẾN TÀU 30 TẾT:
Chiều 29 tết năm 1978, trại cải tạo Huy Khiêm của tỉnh Thuận Hải rộn hẳn lên vì ngày mai cho tới mồng 2 Tết, đoàn tù khổ sai của VNCH tạm nghĩ lao tác, được đổi khẩu phần Tết với đường, thịt heo, cơm trắng không độn và một bao thuốc có cán. Nhưng quan trọng nhất vẫn là cái danh sách phóng thích tù nhân vào mỗi dịp Tết về, sẽ được cán bộ gọi trong buổi sinh hoạt hôm nay.
Ðúng 1 giờ trưa chiều 30 tết năm đó, trại có 10 người được nhận giấy phóng thích về nguyên quán trình diện. Quỹ trại không có tiền cho tù nhân mua giấy xe đò xe lửa, nên ai lo mạng nấy bằng cách lội bộ, từ Huy Khiêm tới Ga Suối Kiết xa chừng 30 cây số. 8 giờ tối cả bọn tới nhà ga thì đã lỡ chuyến tàu chợ, nên đành phải chờ chuyến tàu suốt Bắc-Nam, Nam Bắc vào lúc 11 giờ khuya cuối năm. Trong bọn chỉ có tôi về Phan Thiết, còn lại đều ở rất xa tận Sài Gòn, Nha Trang.. Chia ly rồi sắp chia ly nữa, anh em chỉ đành ngậm ngùi trao gởi, hứa hẹn. Trong khoảnh khắc năm cũ sắp tàn, mọi nhà cài then đóng cửa đón mừng năm mới, thì chúng tôi cũng đang chờ phút giây thay đổi của đất trời.
Ga Suối Kiết nằm cheo leo trong rừng lá cạnh vách núi Ông cao ngất hùng vỹ, bao quanh vài chục nếp nhà lá lụp xụp của các công nhân hỏa xa và dân làm gổ. Có lẽ hôm nay mọi người đã về quê ăn tết nên xóm nhỏ thật đìu hiu không có một chút sinh khí, chứng tỏ nàng xuân chưa ghé chốn này. Cũng may Suối Kiết là một ga lớn trên đường xe lửa Nam-Bắc, nên tất cả các chuyến tàu chợ và suốt đều phải ngừng lại, dù khách có hay không.
Ðêm về núi rừng càng buốt cóng lạnh căm, bộ quần áo trận năm nào dù đã được đắp thêm chục mãnh vá, vẫn không ngăn nổi cái sắt se xa xót, như từ một cõi mộ địa, theo cái lạnh xâm chiếm tâm hồn những bóng ma đang lạc lõng trong đêm xuân, không biết rồi sẽ về đâu, để kiếm chút hơi ấm của tình quê. Trong cái hiu hắt của đêm buồn, cũng đủ để mọi người nhìn rõ hình ảnh của sự cô đơn nơi ga lẽ, từ những thanh sắt han rĩ tróc sơn trước quầy bán vé, cho tới hàng ghế gỗ mọt đầy vết bẩn.
Tất cả bỗng dưng được trùng phùng một cách ngẫu nhiên với những người tù không bản án, những quân, công, cán cảnh của VNCH bại trận, vừa được phóng thích trong đêm tết quạnh quẽ, buồn rầu. Phải vui lên một chút để mừng năm mới, thay vì mượn rượu phá thành sầu, cả bọn lại chụm đầu vào nhau rít chung vài bi thuốc lào ăn tết, trong khi bên ngoài gió núi lồng lộng thổi, tạt sương muối vào mặt mũi da thịt, khiến cho cơn lạnh đói càng thêm hành hạ những người tù từ địa ngục mới được thả về.
Hình như giao thừa sắp đến trong mông mênh cùng tận. Như những năm nào, tôi lại âm thầm lâm râm cầu nguyện cho mẹ già, em gái, cho người yêu cũ, bạn bè, đồng đội, đồng bào.. được may mắn an bình trong buổi hồn mang dâu bể. Hỡi ơi giờ này không biết mẹ già em thơ, có còn như những ngày xuân dấu ái trước năm 1975, giao thừa đi lễ chùa, xin xăm hái lộc, nhà có vui xuân đón tết hay gia đình cũng lại như tôi, tại sân ga nơi rừng núi thăm thẳm tăm tối lạnh lẽo này, cô đơn, đói lạnh và nhục nhã trùng trùng.
Kỷ niệm xưa từng mảng lại trôi bềnh bồng trên mắt, lén lút dẩn dắt đưa tôi về thuở hoa niên, khi những cánh hoa phượng đỏ ối nối hàng, dọc theo con đường Nguyễn Hoàng dẫn vào lớp học, đã bắt đầu rụng rơi lã tã giữa các trang lưu bút, trên từng rèm mắt ô môi, cũng là lúc bọn học trò nghĩ hè làm gã giang hồ lãng tử, trên những chuyến tàu hỏa chui Phan Thiết-Sài Gòn rồi Sài Gòn-Phan Thiết, đi hoài vẫn không thấy chán. Rồi những ngày dài chinh chiến, định mệnh lại đẩy đưa tôi về chốn cũ Long Khánh-Bình Tuy-Phan Thiết. Tuy tàu hỏa đã bị gián đoạn nhưng suốt đoạn đường sắt từ Mường Mán về Gia Ray, con đường mòn Võ Xu tới Suối Kiết, kể cả những suối rạch, bải đá ven sông La Ngà, đều là những lối lại quá quen thuộc, đã cùng tôi chắt chiu suốt đoạn đường tuổi trẻ của người lính trận. Làm sao quên được những ngày dừng quân ở Văn Phong, Mường Mán? ngày ngày ngồi ngâm nga tách cà phê đen ngon tuyệt nơi quán lẽ ven sông, ngó nhìn các chuyến tàu xuôi ngược.
Giờ đây cảnh xưa vẫn nguyên vẹn, riêng tôi thì ôm một tầng trời sầu thảm không đáy, lạc lõng trên quê hương hận thù với kiếp sống nào hơn loài cỏ cây. Rồi thì tàu cũng đến, chúng tôi chia tay trong nước mắt, cuối cùng ai nấy hấp tấp lên tàu như kẻ trốn nợ trong đêm trừ tịch, giữa tiếng còi tàu lanh lãnh thét vang, phá tan cảnh tịch mịch của rừng núi âm u, nghe sao quá áo não lạnh lùng.
Chuyến tàu suốt Sài Gòn-Phan Thiết đêm nay ế ẩm, nhiều toa hành khách vắng ngắt lạnh tanh, không như ngày thường chen chân không lọt. Có lẽ mai là mồng 1 tết nguyên đán, nên ai cũng muốn ở nhà để xum họp với gia đình. Ðất trời buồn mênh mông quá, thêm gió thổi vi vút từ hai bìa rừng thả hơi lạnh khắp nơi, nhưng tôi vẫn muốn ngồi ngoài hành lang để được nhìn lại quang cảnh cũ Trong các toa tàu, đèn đóm tối om, dăm ba hành khách nằm dài trên ghế như đã ngủ từ lâu rồi. Mặc kệ, tàu vẫn chạy xiết trên đường sắt như con thú điên, với hai ánh đèn pha phá tan màn đêm tăm tối. Hỡi ơi cuộc đời sao oan nghiệt quá, trong lúc nhà nhà đang đầm ấm chờ đón chúa xuân, thì tôi trong một tối 30 tết, buồn rầu nơi toa xe lửa lạnh lẽo này, yên lặng nép mình trong cô quạnh, để đón một mùa xuân vàng úa nữa, sắp rơi xuống bờ vai của cuộc đời.
Trong giờ phút năm cũ sắp tàn, con tàu cũng hối hả lướt qua từng ga vắng Sông Dinh, Sông Phan, Suối Vận, Mường Man rồi Phú Hội vừa đúng 12 giờ rưỡi sáng. Thế là năm mới đã qua và tôi cũng đã lỡ dịp nghiêng mình chào đón nàng xuân mới nơi quê hương mình. Trên tàu ai nấy đều thức dậy, đang chuẩn bị hành lý xuống ga Phan Thiết. Tất cả đều xa lạ, hờ hững, buồn rầu, im lặng như bóng tối, không ai chúc nhau một lời ngắn ngủi dù là ngày tết. Bỗng đâu đấy nơi một thôn xóm nào đó, dọc theo con đường sắt vang lên mấy tràng pháo chuột, bóng sáng lập lòe như muốn đuổi theo con tàu, khiến cho hồn thêm buồn rầu thương tiếc. Nỗi náo nức thầm kín vừa lóe lên, chợt tắt hẳn khi nghĩ đến thực tại não nùng.
Hỡi ôi mấy chục năm về trước, tôi là người lính trẻ xa nhà vẫn đam mê chạy đuổi theo những giọt mưa xuân giữa trời lửa loạn. Nay trong buổi xuân về, người lính già lội ngược thời gian tìm vết ngày thơ như còn giấu đâu đó, nơi vòm trời đồng đội, và em, và những tết cuối cùng trong quân ngũ, để ngẩn ngơ bàng hoàng xúc động, như thể vừa bước chân lên con tàu về quê hương, của những tết ấm yên hạnh phúc đầu đời.
Tết nay em có về Phan Thiết
có ghé trường xưa, viếng mộ thầy
đây nén hương lòng người lính cũ
cũng là lệ nhớ xót thương cay
Có vào tửu quán vui cùng bạn
chuốc một bầu riêng cúng tưởng người
những lính cùng dân chung bất hạnh
vì đời mà đổ máu thây phơi
Có xuống Cồn Chà ăn cá mực
thăm giùm người bạn biển quê tôi
thảm ơi một kiếp đời mưa gió
vẫn áo mê tơi suốt một đời
Có qua phố chợ khoe quần áo
bớt một vài xu giúp kẻ nghèo
người phế binh bò trên gạch lạnh
tủi buồn cô quạnh nắng mưa treo
Có đi ngắm cảnh tìm thơ vị
đừng bỏ quên Cây Táo, Phú Long
Dốc Căn, Kim Hải, Ðoàn Mạnh Hoạch
những địa danh xưa đẫm máu hồng
Có vào lễ Phật trên chùa Cú
hay ghé thăm Cha tại giáo đường
tìm lại giùm tôi hương phấn cũ
của thời tuổi học lắm thương vương
Có gặp bạn bè còn sống tủi
xin em chia bớt một phần vui
xin em lau lệ đời phân cách
để nguyện cho nhau bớt ngậm ngùi
Có mua quà tặng khi về Mỹ
xin nhớ cho tôi chút vị làng
hơi đất , mùi rơm, tình biển mặn
thương hoài mà vẫn cứ miên man
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng Chạp 2008
Hồ Ðinh
(kbc 4424, 4524, 3435 và 4508)
Viết nhớ bạn bè một thời lưu lạc, riêng TÐ1/TrÐ43/SÐ18BB kbc 4424
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét