“ĐOẠN ĐỜI NIÊN THIẾU” là cuốn thứ hai,
cùng một đề tài, vừa được Hội Nhà Văn xuất bản ở Hà Nội (2023). Người đọc, dù
đã biết, đã đọc những chuyện tàn khốc, man rợ về những cuộc đấu tố, sẽ sững sờ
trước những sự kiện, những kỷ niệm sống, vượt xa sức tưởng tượng của những nhà
văn giầu tưởng tượng nhất. Hơn cả cái tàn ác, cái làm cho người đọc kinh hoàng
là sự hủy hoại tình người, mà Tô Thùy Yên gọi là cái “thương tổn nặng nề cho
nhân phẩm.”
Gấp sách lại, người đọc tự hỏi: Tại sao con người có
thể độc ác, tàn tệ với nhau đến như vậy? Nhất là đây không phải là nghĩa vụ “uống
máu quân thù”. Đối tượng không phải là giặc Pháp, cũng chưa có “Mỹ Ngụy”.
Đối tượng là những người láng giềng, cha mẹ, anh em, chiến hữu đã cùng nhau vào sinh ra tử, những người cùng đổ máu để xây dựng thiên đường xã hội chủ nghĩa, hôm trước là chiến sĩ gương mẫu, hôm sau bị quy là địa chủ bóc lột, vì có vài sào ruộng, một con trâu, một đàn gà. Hay chỉ vì một chút hận thù, ganh ghét cá nhân.
39 GIA ĐÌNH TAN NÁT
“Mẹ tôi nói: cha đấy con. Cha con là người vừa bị
bịt mắt dải khăn đen kia. Cha giật dải khăn đen ra: Tôi không có tội gì cả.
Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm. Chủ tịch HCM muôn năm (…) Buổi chiều trước
ngày cha bị bắn, mẹ đưa cơm cho cha. Cha ăn cơm xong, người ta trả cái giỏ đựng
nồi cơm cho mẹ. Mẹ thấy ở dưới đáy nồi mẩu giấy nhắn của cha: Ai ngờ vô tội mà
chết oan. Âu cũng là số kiếp. Gắng mà nuôi con. Sau này Đảng có hỏi thì trình
bày tới nơi tới chốn (Gia Đình; trang 171)
Đây không phải là một cuốn sách hư cấu. Dưới hai cái
tựa hiền lành, gần như lạnh lùng, tác giả ghi lại lời kể của các nhân chứng,
không một lời bình luận. Những dữ kiện trần truồng, không gói ghém, càng khiến
cái man rợ man rợ hơn. Sự thực, cũng chẳng cần bình luận. Sự kiện, tự nó nó
nói. Khi cái man rợ lên tới tột độ, lời bình luận trở thành thừa thãi.
Gia Đình (274 trang) là chuyện của 19
người; Đoạn Đời Niên Thiếu (250 trang), 20 người, tổng cộng 39
gia đình tan nát. Mỗi trang là một thảm kịch. Mỗi câu chuyện trong hai cuốn
sách có cái tựa mang tên người kể chuyện: Lê Xuân Đài, Đặng Thị Dung, Đặng Văn
Chương v.v…
Đoạn trích trên đầu bài là lời kể của nhân chứng Võ Tá
Tạo (Gia Đình; trang 49-53).
Ngoài ông nội, bị treo ngược đầu, sau đó chết vì bệnh,
“bác Võ Tá Cảnh, con trai cả của ông bà, chết trong trại giam. Có người nói
bác tự vẫn (…). Anh chết, em phải thế mạng. Cha tôi, Võ Tá Tân, phải đền tội
thay Võ Tá Cảnh. Cha về làng để nhận án tử hình thay thế bác Cảnh (…). Trên quả
đồi trọc, những bó đuốc giơ lên. ‘Cho mi nói một lời cuối cùng với
bà con nông dân’. Cha nói: Con thưa bà con nông dân, con là một thằng phản dân,
phản đảng, phản nước, con xin ông bà nông dân tha tội bắn cho con… Ba phát
súng. Ở nhà chúng tôi nghe rõ. Cha tôi gục xuống.”
Trước khi xử tử, người ta quy tội. Có người bị hành hạ
vì tội đã học tiếng Pháp, chắc chắn là để làm mật thám cho Tây. Có người bị kết
án vì lý do ngớ ngẩn: Thằng Bản (địa chủ bị gọi là thằng, xưng
con, bất chấp tuổi tác) chặt cây ngụy trang chỉ điểm cho giặc. Bởi vì
có lần bà ta đi ngang ngõ thấy cha tôi bắc thang trèo cây, tỉa bớt cành lá (Gia
Đình; trang 27).
Tội trạng như vậy, đủ để bị trói, bị quỳ trên sỏi đá,
cho dân làng nhục mạ. “Buổi chiều, tôi gấp một chiếc giẻ may vào phần đầu
gối chiếc quần cho cha quỳ đỡ đau buốt. Đứa nào may thêm vải này cho mày? Dạ
thưa, con tự may. Lớp giẻ độn sau chiếc quần bị tháo ra. Đêm đó cha bị quỳ lâu
hơn, đá nhọn dồn lên đầu gối sắc hơn hôm qua (Gia Đình; trang 28).
Cái đói, cái dã man hơn cả thú vật giữa người với
người, cái nhục mạ, hành hạ thân xác, tinh thần những nạn nhân vô tội, và cái
chết bi thảm, rùng rợn, của những người bị đạp ra khỏi xã hội hiện diện trên
mỗi trang giấy. Một xã hội chỉ có nhu cầu ăn cho no, sẵn sàng đạp lên xác người
khác để có bát gạo. Trò giải trí duy nhất là đi coi, hay tham dự đấu tố, cái
vui duy nhất là nhục mạ, giết người trước đó là anh em, láng giềng hay ruột
thịt.
CÁI TÀN ÁC MAN RỢ
Con đi bộ đội, một bà mẹ hiến đất, hiến của cho cách
mạng:
“Chum, vại, đàn trâu bò mẹ bán hết để mua công trái
quốc gia, đóng thuế nông nghiệp (…). Mẹ được tặng bằng “Gia đình vẻ
vang”. Con nhà người ta bị bắt đi tù, bị mang ra bắn, con mình được bằng
khen. Mẹ bảo tôi tìm cho mẹ một cái ống tre khô, cuộn tròn tấm bằng khen, cất
vào ống tre, để lên đầu giường. Một đêm, mẹ đang ngủ, dân quân gọi ra hội quán.
Hôm sau tôi mang cho mẹ mấy củ khoai, thấy hai chân mẹ bị cùm, mẹ khóc. Hơn
tháng sau, dân quân giải mẹ về, gọi tôi ra quỳ cùng với mẹ. Họ ra lệnh gì mẹ
tôi cũng dạ (Đoạn Đời Niên Thiếu).
Ngoài sân như hội trường. Tiếng quát tháo, tiếng giành
nhau đồ đạc. Cờ quạt dựng lên từ ngõ vào. Mẹ và bà nội bị bắt đi đâu không ai
biết (…). Em tôi đói. Tôi cũng đói. Em lả dần và chết bên cạnh tôi. Người đấm
đá vào lưng, vào gáy mẹ. Người ta lấy báng súng tọng lên lưng mẹ (Gia Đình;
trang 39).
CÁI CƯỚP GIỰT
Đó là một xã hội cướp bóc, từ trên xuống dưới, công khai.
Nhà nước cướp: “Lúa chưa kịp phơi khô.
Phải nộp hết. Gọi là thuế nông nghiệp’’ (Đoạn Đời Niên Thiếu; trang
18). Thuế nông nghiệp, thuế khả năng và hàng chục thứ thuế khác. Nhiều
người bị kết án tử hình sau khi đã cống hiến tất cả, nhưng vẫn chưa đủ.
“Cha bị bắt đi quản huấn. Ở nhà, thỉnh thoảng mẹ
tôi bị bắt đến nhà một cố nông để khai báo còn cất bao nhiêu vàng bạc, lúa gạo.
Còn gì mà khai báo. Vàng bạc đã cúng hiến cho kháng chiến trong “tuần
lễ vàng”, lúa gạo đã cúng hiến cho chiến dịch ba tháng “góp
gạo nuôi quân”, mùa lúa cuối cùng đã nộp hết cho thuế nông nghiệp” (Gia
Đình; trang 55)
Mặc dầu vậy, “mẹ tôi bị trói cổ tay bằng sợi dây xỏ
mũi trâu bò, treo lên cành cây bưởi ở mé sân, chân không chạm đất. Đàn con ngồi
trước mặt mẹ, chứng kiến mẹ bị treo lơ lửng” (Gia Đình; trang 56)
Bị nhà nước cướp sách, dân đói, cướp lẫn nhau. Mang
nhau ra sỉ vả, tra tấn, hành hạ hay chém giết chỉ để cướp một cái chiếu sạch,
một cái nồi đồng.
-Mẹ dậy nhóm bếp, bẻ nửa nải chuối cho vào niêu luộc.
Ánh lửa hất ra đường, cốt cán Hoe Năng đi tuần phát hiện, vào kiểm tra đang nấu
gì. Chuối ở đâu ra (…). Tịch thu, của ni không phải của mi. Hoe Vinh bê niêu
chuối trên bếp lẫn nửa nải chuối chưa luộc, mang đi (Đoạn Đời Niên Thiếu; trang
34).
Cái cảnh cướp giựt, từ một miếng cơm, không biết nên
cười hay nên khóc:
-Cả nhà ăn bữa cơm đầu tiên. Đang ăn, dân quân đứng
ngoài nhìn vào. Mẹ nhanh trí làm động tác như đang húp cháo. Nghĩ là ăn cháo,
dân quân bỏ đi” (Đoạn Đời Niên Thiếu; trang 50)
-Trước khi đi ngủ, tôi xếp mười chiếc nón vào hai cái
thúng. Sáng dậy gánh đi chợ hạ. Ra đầu ngõ bị dân quân tịch thu. Đây là âm mưu
của địa chủ phân tán tài sản. Từng là chiến sĩ thi đua, được cả trường tôn
trọng, nay gặp những chuyện vô lý như thế, tôi uất ức, khó chịu. Nhiều đêm
không ngủ được, tôi nghĩ đến chuyện tự tử (Đoạn Đời Niên Thiếu; trang 70).
Một người cha đi tù, chuyển lời về nhà:
“Các con cứ để cho họ lấy hết. Một cái vung cũng
không được giấu. Các con cố giữ lại thứ gì, tội cha to thêm thứ đó. Các con giữ
thêm một đồ vật, cha bị kết tù thêm một năm” (Gia Đình; trang 34).
CÁI ĐÓI
Cái đói là một ám ảnh lớn. Trang sách nào cũng có
chuyện ăn vỏ khoai, ăn lá cây, giành giựt nhau một nắm cơm, một bát cháo.
-Bán 10 viên (kẹo vừng), lời 4 viên. Các cháu đói quá,
ăn vụng mất của o, đang lời thành lỗ. Chị dâu làm bánh tẻ, bánh ít đem ra chợ.
Người ta xúm lại bóc bánh ăn rồi đi, không trả tiền (Đoạn Đời Niên Thiếu; trang
18)
–Làm việc cả ngày, được nghỉ trưa một tiếng để ăn
cháo. Chị nấu ăn hôm đó dùng thùng thuốc trừ sâu đựng cháo. Thùng chưa vệ sinh
sạch. Mấy người ăn bị ngộ độc. Họ nghi tôi, con địa chủ, bỏ thuốc độc vào nồi
cháo. Không ai ăn cùng mâm, không nói chuyện với tôi (Đoạn Đời Niên Thiếu;
trang 20).
Đôi khi người đọc mỉm cười: mẹ bị tố, cả nhà đói,
người anh đi bộ đội gởi về tặng em một… trái mìn, để đánh cá. Mìn nổ trên mặt
nước, chỉ chết vài con cá mương (Đoạn Đời Niên Thiếu; trang 36).
CÁI SỢ
Cai trị bằng cái sợ là một chính sách, một lý thuyết
chính trị của Lénine, được Staline, Mao, Pol Pot và những đệ tử Việt Nam trung
thành áp dụng triệt để.
Sợ từ khi còn ngồi ghế nhà trường: “Lúc nào cũng
mang nỗi sợ. Sợ mà không biết sợ gì (Gia Đình; trang 42).
“Văn đệ tứ, phải chọn giữa 3 đề, đề 2: bình luận
một câu của Trường Chinh, đề 3: phương pháp tả người của Nguyễn Du. Cả lớp làm
đề 3. Dại chi làm đề kia, viết hớ hênh một câu mất lập trường là nguy (Đoạn Đời
Niên Thiếu; trang 21).
Cái sợ bám vào nhân thân suốt đời, như một người cao
tuổi, trong Gia Đình, tới nay vẫn không dám thắc mắc một chuyện gì:
“Quá nửa đêm, dân quân không canh nữa, tôi vẫn sợ.
Tôi đã tiểu ra quần. Nỗi khiếp sợ năm mười lăm tuổi. Nay tám mươi hai, tôi vẫn
là một ông già sợ hãi. Tôi không dám thắc mắc một chuyện gì. Muốn viết đôi điều
cho con cháu biết về cha ông mình, cầm bút lên tôi lại run”.
CÁI CHẾT
Hậu quả của sự tàn bạo là cái chết. Chết vì bị treo
cổ, treo đầu ngón chân, bị đánh đập, tra tấn, vì đói, vì tự tử.
-Chị ngồi tựa lưng vào gốc cây dối, dải yếm trễ xuống,
thằng con như con nhái bén vẫn đang nhai vú mẹ. Lúc đó chị đã chết rồi mà tôi
không biết (Đoạn Đời Niên Thiếu; trang 41).
-Bà nội chết vì rét hay vì đói. Từ hôm bị trúng viên
gạch thằng Kỷ, bà nằm một chỗ. Ba năm sau bốc mộ bà, thấy hai chiếc xương sườn
bị gẫy (Gia Đình).
HUẤN LUYỆN CĂM THÙ
Người ta tự hỏi: tại sao những người nông dân, vốn
hiền lành, đã trở thành ác quỷ? Con người có thể trở thành thánh, hay thú vật,
tuỳ môi trường sống, tuỳ giáo dục. Lịch sử đã chứng minh điều đó, với xã hội
Đức dưới thời Hitler, Nga dưới Staline, Tàu dưới Mao, Cao Miên dưới Pol Pot.
Việt Nam không phải là một ngoại lệ, nếu điều đó có thể an ủi người Việt.
Tất cả trò đấu tố đều học của Tàu, cố vấn Tàu sang dạy
cách xử án, quy định tỷ số địa chủ phải mang ra làm thịt. Đó là một xã hội xây
dựng trên sự căm thù, được dạy dỗ, tập luyện từ nhỏ, từ ghế nhà trường:
– “Thầy giáo nói hôm nay nghỉ học để tối đi đấu tố
địa chủ… Xen vào những buổi đi học bình thường là những buổi nghỉ học để tối đi
dự đấu tố. Học sinh đến trường tập trung. Mỗi em một bó đuốc, vừa đi vừa hô.
Tôi cũng hô to không thua gì các bạn (Đoạn Đời Niên Thiếu; trang 64).
-Tấm biển “Địa chủ” dựng trước sân. Tôi hất đi thì hôm
sau thằng bạn học cùng trường đến dựng lên. Trước đây nó cùng đội thiếu niên,
tôi liên đội trưởng, nó liên đội phó (Đoạn Đời Niên Thiếu; trang 49).
Được dạy dỗ như vậy, bọn trẻ thơ ngây trở thành ác
quỷ. Có lẽ cái giết sự ngây thơ, trong trắng của tuổi thơ, nó còn ghê rợn hơn
cả chuyện giết người.
-Bị đuổi dạy, thầy giáo Banh nấu nước chè xanh đi bán
ở các làng khác, khi về đến đầu làng bị nhóm trẻ con xúm vào đập vỡ hết bát,
ném xuống sông, thầy ngồi khóc trên cầu (Đoạn Đời Niên Thiếu; trang 87).
-Ê, con địa chủ, con địa chủ. Mấy đứa lao vào tôi. Bọn
con gái không đánh được thì giật tóc, gõ đầu, cấu véo. Tan học là tôi chạy. Cả
đám rượt đuổi. Đuổi theo về đến nhà. Đánh chết thằng con địa chủ này (Gia Đình;
trang 41).
NHỤC MẠ
Giết người chưa đủ, đánh tan nát gia đình nạn nhân
chưa đủ, chia nhau từng cái chổi cùn chưa đủ, còn phải nhục mạ người sống,
người chết:
“Vườn của bác đã là vườn của nông dân. Không được
chôn địa chủ trong vườn nông dân” (Gia Đình; trang 23).
Có lẽ cái nhục mạ nạn nhân, cái thú man rợ khi tước
đoạt luôn nhân phẩm con người chỉ có dưới chế độ cộng sản, đặc biệt là cộng sản
Tàu và đàn em. Dưới những chế độ độc tài khác, thường thường chỉ có cái ác.
SỬA SAI
Năm 1957, Đảng nhận lỗi, sửa sai. Nhưng lỗi là lỗi của
những phần tử quá khích. Đảng không thể có lỗi. Tại trường học, những ông hiệu
trưởng, giáo viên trước đây được khen ngợi đã thành công trong việc giúp học
sinh đấu tố nhau, bị kết tội do địch gài vào để phá hoại.
Nhà nước xin lỗi, thế là xong, yên chuyện, ai về nhà
nấy, như không có chuyện gì xẩy ra. Như có người vô tình chạm vào tôi ngoài
đường, xin lỗi. Dạ, không có chi.
Dù sao, chuyện Đảng công khai xin lỗi cũng cho phép
gia đình nạn nhân được khóc công khai những người đã bỏ mạng. Và cho phép rất
nhiều tác phẩm về cải cách ruộng đất ra đời mà tác giả không đi tù hay mất
mạng.
Mặc dù vậy, cái sợ hình như vẫn đâu đó.
Đại tá nhà văn Phan Kế Toại, đề tựa cho cuốn Gia
Đình, đề cao việc làm của tác giả, coi trọng việc đi tìm sự thực, không
quên thòong một câu, cho chắc ăn: “Mọi người cần chung tay cố gắng trân
trọng sự đổi mới, gìn giữ thành quả dân chủ để đất nước không bao giờ trở lại
thời kỳ ấu trĩ như thế nữa”.
“Thành quả dân chủ”! Câu kết luận politically
correct không khỏi khiến người đọc mỉm cười, khi nghĩ đến thực trạng
Việt Nam ngày nay về nhân quyền, về tự do báo chí, tự do tín ngưỡng…
Trong cùng một bài tựa, ông Toại kể: “Trong gia
đình tôi (…), nhiều người đã bị quy địa chủ, phú nông hoặc phản động. Người bị
tịch thu tài sản, người tự vẫn, người bị bắt giam, bị cùm chân, người bị xử
tử”. Dùng chữ “ấu trĩ” cho một xã hội lở lói khủng khiếp như vậy có lẽ
hơi nhẹ.
Bao nhiêu người là nạn nhân của “cách mạng”? Theo BBC,
nhà nghiên cứu Mông Cổ Balazs Szalontai khai thác các tài liệu Đông Âu và Liên
Xô, đưa ra con số 7,7 triệu người dân và hàng trăm gia đình “buộc phải tham
gia và chịu hệ luỵ” chỉ trong đợt giảm tô. Trong đợt chính thức Cải cách
Ruộng đất, 4 triệu người “chịu tác động”. Tác giả Hoàng Minh Chính đưa ra
con số nửa triệu người (5% dân số miền Bắc) bị chính quyền VNDCCH giết.
Riêng Cải cách Ruộng đất, theo Bernard Fall, 50.000 bị
xử tử, ít nhất gấp đôi bị tù cải tạo (BBC 3/2/2022) (2)
Le Livre Noir du Communisme (Sổ Đen của Chủ Nghĩa Cộng
Sản) do sử gia Stéphane Courtois chủ biên, cũng đưa ra con số 50.000 người bị xử
tử, từ 50.000 tới 100.000 người bị đưa đi tù cải tạo (3)
Le Livre Noir là một cuốn sách dày
662 trang, do các sử gia, ký giả, giáo sư Pháp biên soạn, tố cáo những tội ác
của cộng sản quốc tế, với 100 triệu nạn nhân đã bỏ mạng để xây dựng “XHCN”.
ALEXIEVITCH
Đọc Phan Thuý Hà, người ta nghĩ tới việc làm của nhà
văn Nga Svetlana Alexievitch. Sinh năm 1948, cha người Biérusse, mẹ người
Ukraine, Alexievitch, trong gần 40 năm, với cây bút và máy ghi âm, đi gặp và
ghi lại lời kể, tâm trạng của người Nga sau tai nạn Tchernobyl, sau ngày Nga Xô
Viết sụp đổ, trong cuộc tham chiến của Nga ở Afghanistan (1).
Bà Svetlana Alexievich (ảnh: Axel Schmidt/Getty
Images)
Trong Les Cercueils de zinc (Những chiếc quan
tài bằng kẽm, 1990), bà ghi lại tâm trạng của những bà mẹ, bà vợ, có
chồng con chết ở Afghanistan, để thoả mãn tham vọng của Poutine. Những xác chết
từ mặt trận được chở về trong những chiếc quan tài bằng kẽm (zinc).
Bà viết: cái can đảm chiến đấu của người
cộng sản chỉ là huyền thoại. Chẳng có anh hùng gì cả, chỉ có những người lính
trẻ bị lường gạt, đưa đi làm mồi cho đại bác, bị khủng bố, phải tiếp tục vì sợ.
NGÀY TÀN CỦA NGƯỜI ĐỎ
Cuốn sách nổi tiếng nhất của Alexievitch, “La Fin
de l’homme rouge. Le temps du désenchantement” (Cái chết của
người đỏ. Thời gian vỡ mộng), được nhiều nhà phê bình coi là cuốn sách
hay nhất, quan trọng nhất trong năm (2013), vạch rõ thực chất của người cộng
sản (người đỏ), cái ảo tưởng xây dựng xã hội đại đồng, sự thực chỉ là
một cuộc lừa gạt đẫm máu để nắm quyền. Sau khi Nga Xô Viết sụp đổ, Svetlana
Alexievitch, để viết La fin de l’homme rouge, đi khắp
nước Nga, nghe tâm sự của những người vỡ mộng về ảo tưởng thế giới đại đồng,
lạc lõng trong một thế giới mới, xa lạ.
Bà nói, có lẽ cái thành công duy nhất của người cộng
sản là đã huỷ hoại nhân tính, để tạo những người Nga mới, không còn nhân phẩm.
Alexievitch nói, trong một cuộc phỏng vấn, dụng ý của bà là qua những nhân
chứng thực để tạo những tác phẩm văn chương.
Mục đích của tôi không phải làm điên đầu người đọc với
những chuyện kinh hoàng, nhưng rút tỉa ý nghĩa từ những cái kinh hoàng đó. Và
giúp con người tiếp tục còn là con người. Làm biến dạng con người, đó có lẽ là
cái duy nhất đã thành công (ở Nga Xô Viết).
(Mon objectif n’est pas d’assommer
(les lecteurs) par toutes les horreurs que j’écris, mais d’en extraire
du sens. Et de permettre à l’humain de rester humain.Transformer l’homme.
C’est peut être la seule chose qui ait marché).
Alexievitch đoạt giải Nobel Văn chương năm 2015 cho
toàn bộ tác phẩm của bà. Phan Thuý Hà không có tham vọng đó. Cô chỉ ghi lại lời
kể chuyện của những nạn nhân còn sống sót.
Tác giả Đoạn Đời Niên Thiếu viết
trong lời tựa: “Sáu năm qua, viết sách, tôi được gặp những người nhiều tuổi
quê Nghệ Tĩnh. Các ông bà đều tuổi trên tám mươi, chín mươi. Họ là con của
những người yêu nước, tham gia cách mạng, bị Pháp bắt tù đày vào năm 1930-31,
lớn lên trong những năm kháng chiến (…). Với những gì họ trải qua, nếu không
ghi lại thì tiếc quá.”
Gia Đình, Đoạn Đời Niên Thiếu là những cuốn sách nên dịch ra ngoại ngữ, để những người ngoại quốc hay thế
hệ người Việt trẻ hiểu rõ thực trạng Việt Nam, hơn là những cuốn sách của những
người chưa bao giờ đặt chân tới xứ này, hay chưa hề sống trong hỏa ngục.
Cũng như những tác phẩm của Alievitch nên dịch ra
tiếng Việt, để thức tỉnh những người, ở thế kỷ 21, vẫn còn là những ông già
ngồi đan rổ, mơ nước Nga, như trong thơ Tố Hữu.
Cũng hy vọng sẽ có nhiều cuốn sách tương tự, ghi lại
chuyện thực, của những người di cư 1954, những nạn nhân Tết Mậu Thân, của boat
people, hay những ngày miền Nam, trước và sau 1975.
CHUYỆN CẦN LÀM
Đã có rất nhiều sách báo về những chuyện này, nhưng
vẫn chưa đủ. Cần một tài liệu đồ sộ ghi lại các nhân chứng. Tôi nghĩ tới chuyện
này, khi viếng thăm, cách đây mấy chục năm, một thư viện ở Do Thái, nơi tập
trung hàng trăm ngàn sách, băng nhạc, ghi âm lời kể của những nạn nhân, hay gia
đình nạn nhân Shoah còn sống sót.
Ngày nay, nhiều người Việt đã thành công ở hải ngoại,
dư tài chánh, có dư khả năng làm việc đó, thay vì làm những chuyện tào lao. Thí
dụ tài trợ cho những nhóm trẻ đi phỏng vấn, thu thập dữ kiện tại tất cả những
nơi người Việt tỵ nạn cư trú. Đó là chuyện khẩn cấp. Bởi vì nhiều nhân chứng
cao niên đang lần lượt ra đi.
Việc làm của Phan Thúy Hà, hay những việc làm tương
tự, sẽ là những chất liệu quý cho những người sau này muốn viết văn, viết sử
hay nghiên cứu về Việt Nam cận đại. Nếu không, thế hệ sau này sẽ không biết gì
về quá khứ. Nếu muốn tìm hiểu lịch sử đất nước chỉ có sách vở của những người
muốn viết lại lịch sử, hay những người ngoại quốc, nói chuyện Việt Nam dưới
lăng kính chính trị hay bác học, không có chất liệu sống.
Không ghi lại thì tiếc quá.
Paris, tháng 9/2023
_______
(1) Tên người, tên tác phẩm, địa danh trong bài này
viết theo kiểu Pháp
(2) Cải cách Ruộng đất: Số
người bị giết ở VN ít hơn bên Trung Quốc nhưng ‘di chứng lâu hơn’
(3) Le Livre Noir du Communisme. Ed Robert
Laffont. Paris 1997
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét