Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Hai, 8 tháng 3, 2021

Chuyện Về Con Nục - ST

 

Là dân làng vẫn gọi con trâu nhà ông Nục bằng cái tên như thế. Trâu bò bấy giờ tất đều thuộc Hợp tác xã. Giao cho nhà nào nuôi, thì lấy ngay tên chủ nuôi gọi tên con vật. Cha con ông Nục đều lực lưỡng, tri điền, nên được giao nuôi trâu ăn công điểm, và dùng chính con trâu ấy cày ruộng cho HTX. Con Nục thuộc giống bạch tạng, da đỏ au như người da trắng, càng ra nắng càng đỏ, hai mắt cũng đỏ rực, chỉ có cặp sừng màu ngà ngà vì cáu bẩn bùn đất. Bộ lông của nó cũng thế, lẽ ra màu trắng, nhưng do bám đất cát, cộng với mồ hôi nên có màu vàng quạch.
<!>

Con Nục to khỏe, dắt nó đi đến đâu có cảm giác đường làng động theo tiếng huỳnh huỵch đến đấy. Những trưa hè oi ả không phải ra đồng, ông Nục thường cột nó vào gốc cây duối, ngay cổng vào nhà ông. Đó là một cây duối thấp ngủn, nhưng rất to, đứng dẫn đầu một hàng rào toàn bằng duối ken dày, gà con không chui lọt cũng thấp tà tà, chỉ tầm ngang ngực người lớn. Con nục có vẻ thích cái chỗ buộc ấy lắm, vì mỗi khi ngứa ngáy, nó lại đứng dậy, cọ mình vào hàng duối, làm cả hàng duối rung lên, tiếng nghe rào rào. Những lá duối vừa cứng, vừa ráp dùng vào việc gãi da trâu thì thật là tuyệt vời.

Mùa thu năm ấy là mùa cày cuối cùng của con Nục. Đang kéo cày thì nó gục xuống giữa ruộng. Biết nó đã già và cũng hết tuổi thọ. Anh con trai ông Nục liền bỏ cày đấy, chạy đi báo với ban chủ nhiệm HTX. Ngay lập tức, cả ban chủ nhiệm đều có mặt, không thiếu ông bà nào, cùng mấy ông đồ tể của HTX với những dụng cụ dao, thớt, cưa, vồ… việc ấy đã thành lệ.

Con Nục được xả thịt ngay trên cánh đồng. Phân chia như thế nào là quyền ở ban chủ nhiệm. Riêng cái đầu dành cho nhà người nuôi, việc ấy cũng đã thành lệ. Dân làng truyền tai nhau sắp được ăn thịt trâu, rộn rã như có hội. Anh con trai ông Nục vác cái đầu về, lại treo tạm lên chạc duối, chờ ông Nục về mới làm. Còn anh quay trở lại cánh đồng, dọn dẹp nốt mấy chỗ dở dang… rồi vác chiếc cày về nhà.

Đầu con Nục vẫn treo trên chạc duối. Bà Lài nhà ở phía trong, đi qua nom thấy, buột mồm bỡn một câu: “con Nục đã về đấy à?”. Vừa dứt mồm, tự nhiên hai mắt con Nục đang nhắm tịt, bỗng mở trừng ra, đỏ ngầu. Bà Lài hãi quá, bủn rủn người, ù té chạy về nhà, chui vào trong buồng đóng sập cửa lại.

Buổi chiều vợ chồng ông Nục về, bắc nồi nước để cạo lông, chuẩn bị sẵn rơm để thui, bảo anh con trai ra mang đầu trâu vào. Nước đã sôi, chờ mãi không thấy anh con trai mang đầu trâu vào, ông Nục chạy ra xem, thì ra không hiểu sao cặp sừng của nó bị mắc vào hai cái chạc rất to của cây duối, loay hoay gỡ mãi không ra. Ông Nục phải chạy vào nhà, đem ra chiếc búa chim, bổ gãy một bên sừng mới đem vào được.

Bà Lài mấy hôm sau mới dám ra khỏi nhà, nhưng không dám đi qua chỗ treo cái đầu trâu, phải tìm lối khác để đi. Thế rồi bà mắc một chứng bệnh lạ, bỗng dưng bị hoẻn hai lỗ mũi, đỏ hỏn, nom rất kinh tởm, nước chảy dề dề suốt ngày. Vào một đêm mưa phùn, có người làng đi qua chỗ ấy, giật mình nghe “Phì” một cái, ngoảng lại thấy rõ ràng con Nục màu vàng vàng, đang cột vào cây duối. Người ấy hoảng sợ co giò chạy, la làng la nước. Mọi người đổ đến xem lại chả thấy gì…

Làng Kinh là một làng mê tín. Chuyện ấy lập tức loang ra. Chính bố con ông Nục cũng hãi. Nhớ lại chuyện cái đầu con Nục cứ ghì chặt cặp sừng vào chạc duối thì càng hãi, bèn rào chiếc cổng ấy lại, mở cổng khác để đi. Mấy nhà hàng xóm quanh đó cũng khiếp, bèn bảo nhau mở ngõ khác làm lối đi. Chỗ ấy thành ra một mảnh vườn hoang, dân làng như bỏ quên, dần dần rậm rạp, chả ai dám bén mảng.

Mấy năm sau hợp tác xã tìm chỗ cất lớp Một cho trẻ con trong làng. Ông chủ nhiệm Cờ nhớ ra, bèn trỏ cho hiệu trưởng Hó. Hiệu trưởng là người làng khác, không biết đến cái “tích” ấy, nên mừng rỡ. Lớp Một được mọc lên, đúng chỗ cây duối…

(còn tiếp)

Không có nhận xét nào: