Hồ Hữu Tường với tư thế một đại thụ trên lĩnh vực báo chí và văn học còn
là một nhà chính trị độc lập nổi tiếng ở miền Nam trước năm 1975. Cuộc
đời ông có cái duyên nợ với mảnh đất La Gi - Hàm Tân (Bình Thuận) như
một tình cờ, nhưng với tôi lại có những điều đáng nhớ. Tập Kể chuyện
(Huệ Minh xuất bản 1965) gồm 9 câu chuyện kể, viết cùng Nguiễn Ngu Í,
một nhà văn nhiều giai thoại và cách tân chữ viết, quê ở Hàm Tân. Như
một định mệnh, Hồ Hữu Tường có những ngày cuối đời sau 70 năm thăng trầm
khổ ải rồi dừng lại ở đây. <!->
Trên một số website
ở nước ngoài đều ghi rằng sau những năm cải tạo, Hồ Hữu Tường được trả
tự do và mất tại Gia Định. Có trang viết một cách mập mờ là “Hồ Hữu
Tường - một người chết u uẩn”, có gì đó ám chỉ về chế độ lao tù. Nhưng
đều chính xác ngày mất của Hồ Hữu Tường là ngày 26.6.1980. Thời gian này
tôi đang làm việc tại Bệnh viện huyện Hàm Tân (tỉnh Thuận Hải, năm 1992
trở lại tên Bình Thuận) phụ trách Phòng Y vụ, một bộ phận trực tiếp với
Giám đốc về chuyên môn. Đây là cơ sở cũ, trước ngày giải phóng
23/4/1975 là Bệnh viện Phối hợp Dân Quân y tỉnh Bình Tuy mà tôi cũng
từng làm việc ở đây dưới lớp áo Quân y Việt Nam Cộng hoà.
Năm
1980, bệnh viện này là tuyến huyện với 120 giường, tình trạng trang
thiết bị hầu như tận dụng lại những gì đã có, tiếp tục hư hỏng ngày càng
nhanh và nhếch nhác. Số bác sĩ cũ không còn, một số có trình độ trung
cấp, sơ học được sử dụng lại, gọi là lưu dụng, nhưng lần lượt bị loại
dần do lý lịch… bù vào số cán bộ từ khu về, từ miền Bắc chi viện. Ngoài
năm hay sáu bác sĩ còn lại, rất nhiều chức danh y sĩ (xếp ngang trình độ
trung cấp y tế sau này), được quyền mang ống nghe khám bệnh kê đơn, giữ
các chức vụ Bệnh viện phó, Trưởng khoa, nhưng các tên thuốc Tây trên
toa thuốc chỉ viết bằng phiên âm theo cách đọc. Trong khi đó cán sự điều
dưỡng học 4 năm chỉ xếp là y tá trung cấp, thực hiện chỉ định của y sĩ.
Có lúc chiếc máy X-quang làm chức năng chụp phim chẩn đoán rất hiện
đại, đặt trong phòng có vách chì cản tia phóng xạ độc hại cho người, lại
bị đập bỏ cho rộng và chỉ dùng bộ phận rọi (gọi là rọi kiếng), tức xem
trực tiếp theo kiểu cũ cách đó trên 20 năm. Kết quả thế nào tùy thuộc do
nét bút vẽ mô tả của y sĩ đứng máy, thay vì có phim như trước đây.
Thuốc men thì cũng rất khó khăn, phải phát động phong trào Đông Tây y
kết hợp. Loại thuốc xuyên tâm liên trị bá bệnh, tức bệnh nào cũng uống
được, mỗi lần hàng chục viên, đắng đến nỗi… hết bệnh. Trị sốt xuất huyết
thì có cây cỏ mực sao tẩm nấu thành xi-rô, trị sốt rét có lá mãng cầu
ta sao sắc uống… Các loại vitamine tiêm thì cao cấp hơn như B1, B6, B12
được mua hoá chất từng ký, về hòa nước cất, sản xuất tại chỗ, vào ampule
hoặc lọ pénicillin đã dùng… Dịch truyền loại 5%, 10% cũng vậy. Dây
truyền, kim tiêm phải luộc đi luộc lại nhiều lần để tiết kiệm, được coi
là có sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Không có băng keo cố định kim tiêm
dịch truyền cho bệnh nhân được thay bằng sợi dây nang lá buông. Bệnh dù
có nặng mấy đi nữa cũng phải đi theo hệ thống tuyến xã, huyện, tỉnh,
trung ương… cơ quan, đơn vị ở địa bàn nào cũng theo con đường đó. Từ
bệnh viện huyện muốn chuyển bệnh nhân lên bệnh viện tỉnh phải có biên
bản tập thể do y bác sĩ các khoa hội chẩn, cho nên có truờng hợp bệnh
sản đẻ khó mà bác sĩ, y sĩ khoa Nhi hoặc Đông y cũng được tham dự và cho
ý kiến. Có khi phải xin ý kiến Bí thư Chi bộ, dù anh ta chỉ là cán bộ
chính trị. Có sự ràng buộc đó cũng vì sự khắt khe quái ác của các chỉ
tiêu tử vong, chuyển viện… Nhiều quá thì mất điểm thi đua. Như vậy thì
không thể nào có bệnh nhân được chuyển thẳng về các Bệnh viện ở Sài Gòn,
dù biết bệnh tình có ra Phan Thiết cũng chào thua.
Trước
đó không lâu, tôi là một trong những người trực tiếp tiếp xúc với
trường hợp đại sứ Đinh Bá Thi, là đại sứ đại diện Chính phủ CHXHCNVN tại
Liên hợp quốc (tại Mỹ) về nước công tác tại Bộ Ngoại giao. Chuyến xe đi
mua hàng thực phẩm mỗi sáng sớm của Trại giam Z30C chở 4 nạn nhân và 1
trẻ em đến bệnh viện. Ông Thi bị vết thương ở đầu, lột cả mảng da tóc
khá rộng, còn người vợ bị nhiều chấn thương đã hôn mê. Người chị vợ, anh
lái xe và đứa cháu ngoại của ông Thi chỉ xây xát nhẹ. Lúc vào viện, ông
Thi còn tỉnh táo và bảo cố gắng chăm sóc người khác, ông không tự giới
thiệu mình là ai! May mà anh lái xe còn tỉnh táo, mới cho biết đó là ông
Đinh Bá Thi trên đường công tác sau đêm ngủ tại nhà khách Uỷ ban Tỉnh ở
Phan Thiết, sáng đi Thành phố Hồ Chí Minh, đến căn cứ 8 thì bị một
chiếc xe tải cùng chiều ép, làm cho chiếc Comanca lật nhào mấy vòng. Tôi
nhận ra đây là một yếu nhân, biết tiếng ông từng là người cùng bà
Nguyễn Thị Bình đại diện cho Chính phủ Cộng hoà miền Nam Việt Nam tại
bàn hoà đàm Paris. Sau này biết thêm, ông trên đường đi truyền đạt chỉ
thị quan trọng trước sự đe dọa can thiệp của Trung Quốc dưới chiêu bài
cứu nạn kiều Sài Gòn trong chiến tranh biên giới vừa nổ ra. Sau mấy giờ
cấp cứu chờ xe 05 của Bệnh viện Tỉnh đưa đội phẫu thuật vào thì ông Đinh
Bá Thi tắt thở, xác quàn tạm ngay trong phòng mổ chờ ý kiến của tỉnh.
Huyện giao cho Xí nghiệp Cơ khí gấp rút làm chiếc hòm kẽm có thêm một
lớp chứa được đá lạnh để giữ tươi thi hài, đem đặt tại hội trường Ủy ban
Huyện. Khuya đêm đó xe của Văn phòng Đại diện Bộ Ngoại giao phía Nam ra
và chuyển vào áo quan, đem về Sài Gòn. Nhắc đến sự kiện này để thấy
tình trạng nghèo nàn của hệ thống y tế dù đã gần 6 năm giải phóng. Nhiều
người so sánh, nếu có máy bay cấp thời chở ông Thi về Chợ Rẫy, có khả
năng ông qua khỏi. Cách bệnh viện chừng 300 mét, phía sau nhà bưu điện
bây giờ, trước giải phóng có một sân bay trực thăng, bất cứ đêm ngày có
bệnh nặng cần chuyển cấp cứu đều đáp xuống chở ra Hạm đội 7 hoặc Bệnh
viện Long Bình.
Trở lại trường hợp Hồ Hữu Tường,
khoảng đầu tháng 6 năm 1980, xe của Trại giam Z30C chở đến với yêu cầu
điều trị. Trên địa bàn Hàm Tân, xã Tân Minh lúc này có 2 trại giam Z30C
và Z30D nằm liền kề, còn gọi là trại Thủ Đức, rộng hàng ngàn hec-ta đất
rừng tiếp giáp Núi Bể và cặp đường quốc lộ I, giáp ranh đất tỉnh Đồng
Nai. Tù nhân cải tạo hầu hết là thành phần quan chức, sĩ quan tướng tá
chế độ cũ và mắc tội chính trị chống đối sau này. Nay nhập một gọi
là Trại Z30D thuộc Cục Quản lý Trại giam (V26) Bộ Công an, xe chạy Bắc -
Nam ngang qua thấy trạm xăng Đức Khải rất bề thế với màu sắc đỏ mà chủ
nhân là người có tên Anh Lâm, trước đây bị án chung thân về tội buôn
lậu, cũng là tù nhân “đặc biệt” của trại này. Trước khi đến Trại giam
Z30C, từ năm 1977 Hồ Hữu Tường đã vào tù, từng qua các trại giam Phan
Đăng Lưu, Chí Hoà và Long Bình… Theo cán bộ canh giữ, ông được giao chăm
sóc vườn thuốc nam thuộc bệnh xá của Trại. Hồ Hữu Tường cao lớn, cặp
vành tai của tướng mạo trường thọ, tóc đậm sắc muối tiêu, còn đi đứng
được. Trong hồ sơ có ghi đến chức vụ của ông tham gia tổ chức phản
động là Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Trung lập Phục quốc Việt Nam gì đó,
tôi nhớ chưa đầy đủ lắm! Chẩn đoán là xơ gan cổ chướng, bụng ông to độn
lên áo trông thấy rõ. Nhập vào Khoa Nội 2, bác sĩ Nguyễn Văn Thảo phụ
trách. Tên tuổi của Hồ Hữu Tường từng khuấy động sân khấu chính trị miền
Nam từ thời Diệm đến thời Thiệu… Mới đó, với danh nghĩa dân biểu Hạ
nghị viện, ông đã cùng giới báo chí làm cuộc biểu tình “Ngày ký giả ăn
mày” (10/1974) đòi tự do báo chí. Năm 1926 sang Pháp học Đại học
Marseille, đậu thạc sĩ toán Đại học Lyon… rồi làm chính trị, làm báo,
viết văn…, rồi thời Pháp thuộc, đến lúc Mỹ sang và sau cùng là Thiệu, tù
tội với ông đều có, Diệm từng kêu án tử hình và có văn hào Pháp Albert
Camus viết thư can thiệp. Trong hàng chục tác phẩm của Hồ Hữu Tường, tôi
chỉ nhớ được một ít tựa sách và chỉ đọc đôi quyển như Phi lạc sang Tàu, Phi lạc đại náo Hoa Kỳ, Kể chuyện, Luận lâm, Người Mỹ ưu tư… Trong bài tựa của tập Kể chuyện, ông viết: ”Mục
đích của tôi là lập một cuộc tạ ơn những vị giáo sư đã dạy tôi viết văn
nhà quê, hoang đường, trào lộng và châm biếm, đặc biệt của nông dân
miền Tây Nam bộ vào đầu thế kỷ XX này...” Sinh ra ở Cái Răng, Cần
Thơ, thấm đậm cái chân chất Nam bộ, nhưng ông là con người có tư tưởng
xuất chúng hiếm hoi. Ông thật lòng nói, “thầy dạy là những người bạn
có lúc đồng chí hướng như Phan Văn Hùm khuyến khích và chịu khó năn nỉ
dạy không công cho tôi viết văn, tôi lại lười biếng"! Nhiều chính
khách nhận xét về Hồ Hữu Tường, rằng ông là con người của chủ nghĩa dân
tộc, người đề xướng giải pháp trung lập chế v.v… Với những điều đó tôi
hiểu rất lờ mờ, đơn giản chỉ thấy lay động trước tên tuổi một Hồ Hữu
Tường.
Ngay chiều ấy tôi ghé nhà cậu ĐĐC - Châu
Anh báo tin này vì Châu Anh là bạn Nguiễn Ngu Í, biết Hồ Hữu Tường khi
làm báo ở Sài Gòn, nhưng cậu ngại không đến thăm. Là tù nhân chính trị
nên trại cử một anh công an theo canh giữ, không ai dám đến gần bắt
chuyện, dù là nhân viên y tá trong khoa. Tôi có lợi thế là làm công tác y
vụ, tức bộ phận quản lý điều hành chuyên môn ở bệnh viện, nên có lý do
tiếp xúc với ông công khai mà không bị ai dòm ngó. Ông than với tôi rằng
chiếc mùng vải xô của bệnh viện phát bị thủng rách nhiều chỗ quá, muỗi
chui vào cắn không ngủ được. Thêm nữa, tôi hỏi ông thèm ăn gì. Ông nói
cá, cá… Nhà tôi ở xóm Phò Trì, cách bệnh viện 2 cây số, đi làm bằng
chiếc xe đạp cọc cạch thường tuột xên, nhà chỉ có một chiếc xe này, may
là vợ tôi đi dạy học ở một trường nhỏ gần nhà. Vợ tôi mua mấy lát cá
thu, chỉ tẩm một ít gia vị, chút nước mắm nhạt vì bệnh ông không được ăn
mặn. Hai lát cá thu vừa đủ trong một hộp nhựa để mang đi kín đáo. Ông
ăn một cách ngon lành và trông ông hiền từ như ông Phật. Tôi gói mấy
đoạn chỉ và kim may để ông vá lại các lỗ thủng chiếc mùng. Ông cứ loay
hoay vá, lại vá, tôi hỏi bác làm gì nhọc vậy. Ông cười, quen rồi đời tôi
cũng thế, phải vá mãi! Trong cái túi đồ dùng của ông có nhiều thuốc Tây
ngoại và ma-gi (xì dầu) cũng ngoại, ông nói nhờ các con ở nước ngoài
gởi về. Khi ông có chút tin tôi, ông mới nhờ tôi nhắn tin cho gia đình.
Lúc ấy chỉ có viết thư điện tín ở bưu điện, chuyển bằng moọc tích tích
te te. Hai ngày sau vợ ông, bà Nguyễn Huệ Minh, đi xe than từ Sài Gòn ra
đến bệnh viện gần cuối chiều. Hai ông bà ôm chầm lấy nhau một cách tự
nhiên ở ngay hiên khoa nội, làm ai cũng thấy lạ nhưng thật bùi ngùi. Tôi
lén lút đưa bà về nhà tôi để tắm rửa và bàn chuyện bệnh tình của ông vì
sau mấy ngày nhập viện bệnh ông có triệu chứng nặng hơn, theo chuyên
môn phải chuyển viện, mỗi ngày phải dùng bơm tiêm lớn chọc dò, rút ra cả
lít dịch axit từ màng bụng ông mới dễ thở. Chỉ báo lại trại Z30C, họ sẽ
mang ông ra bệnh viện Phan Thiết thôi, là xong. Nhưng ra đó là chết và
coi như chết trong tù, chôn cất theo tù… Tôi nghĩ đến điều đó phải xảy
ra. Tôi không có một xu hướng chính trị nào, trước đây cũng vậy, dù cộng
sản hay quốc gia, chỉ mong đợi hoà bình, bên nào cũng được… Hồi năm
1974, thiếu tướng Nguyễn Xuân Trang, Tham mưu phó Bộ Tổng tham mưu Quân
lực Việt Nam Cộng hoà ký lệnh thuyên chuyển số 11075 đẩy tôi về Bệnh
viện Tiểu khu An Xuyên (Cà Mau) với lý do ghi rõ: "Có tư tưởng hành động chống chánh phủ cũng như chánh quyền địa phương”,
cho đến sau ngày giải phóng tuy còn tiếp tục làm việc với ngành y nhưng
không phải yên ổn gì, mỗi năm không ít hơn ba bốn lần khai lại lý lịch.
Những câu hỏi của cơ quan an ninh từ một hồ sơ nào đó trong tàng thư
của cơ quan Cảnh sát Việt Nam Cộng hoà để lại (sau này tôi biết có phiếu
điều tra lý lịch của Ty Cảnh sát Quốc gia Bình Tuy lập 5/5/1974) ghi về
mối quan hệ anh em giữa tôi với dân biểu Trần Ngọc Châu và điệp báo
cộng sản Trần Ngọc Hiền (Trần Ngọc Hiền vào Nam hoạt động lúc Trần Ngọc
Châu làm tỉnh trưởng Kiến Hoà tức Bến Tre và Hiền bị bắt lúc Châu là dân
biểu Tổng thư ký Hạ viện). Sự thực Trần Ngọc Châu với tôi là anh em
cùng mẹ khác cha, còn Trần Ngọc Hiền với Châu là anh em cùng cha khác
mẹ. Nhưng lúc này Trần Ngọc Châu đã bị Tổng thống Thiệu bỏ tù, không
liên quan gì. Với Hồ Hữu Tường, tôi ngưỡng mộ ông ở văn tài, con người
minh triết, chứ tôi không mê ông ở phương pháp hành động. Truyện ngắn
“Con thằn lằn chọn nghiệp” trong tập Những truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng ta
(NXB Sóng, Sài Gòn 1974), theo bà Huệ Minh là truyện ông tâm đắc nhất.
Phải chăng kiếp con thằn lằn có gì đó là hình ảnh của kiếp người ông
đang cưu mang? Suốt đời lầm lũi tìm đủ phương kế ngăn chặn kẻ cuồng tín,
u mê, tự hủy hoại, giết hại nhau… vì một mục đích hão huyền, lại cho đó
là thiên đường! Chuyện kể trong tù, một hôm có người tù trẻ cùng phòng
hỏi Hồ Hữu Tường: "Bác Tường ơi, bác biết tại sao từ thời Pháp đến Mỹ,
rồi cả bây giờ bác cứ ở tù dài dài không?" – Ông nói, "Mày trả lời giùm
tao đi!" Anh ta nhanh nhẩu: "Dễ quá, Bác có tên là Hữu Tường nên bác
'hưởng tù' dài dài thôi!" Ông trầm ngâm, "Có thể thằng này nói đúng."
Như
có cùng một suy nghĩ, bác sĩ Thảo làm rất đầy đủ bệnh án của một bệnh
nhân bị đe dọa tử vong bất cứ lúc nào. Bác sĩ Thảo học y khoa Huế trước
giải phóng và sau giải phóng mới tốt nghiệp, rồi xin về Hàm Tân. Sau này
lấy vợ cùng ngành rồi đi theo đường bảo lãnh qua Mỹ. Tôi nhanh chóng
hoàn tất hồ sơ cho Giám đốc bệnh viện Vương Xuân Long ký với yêu cầu
Z30C sớm đưa về chữa trị ở Sài Gòn, đây là một ngoại lệ. Có sự bàn bạc
thế nào đó ở trại giam và họ báo với bà Huệ Minh phải làm đơn bảo lãnh
xin đưa về Sài Gòn. Sau đó bà Minh về lại Sài Gòn và thay bà là người em
gái của ông. Mấy ngày sau, Z30C có văn bản của Bộ Công an quyết định
tạm tha Hồ Hữu Tường để đi điều trị. Có lẽ ai cũng tiên lượng được tình
trạng bệnh tật của ông đã liền kề cái chết và cũng tránh dư luận xấu về
cách đối xử với một nhân vật nổi tiếng nên dễ dàng có một quyết định
như thế. Được biết trước khi ông chuyển về trại Z30C, có phái đoàn Ân xá
Quốc tế đến thăm hỏi và can thiệp. Có được giấy tạm tha, nhưng người em
gái của ông, tuổi ngoài 60 chân quê, không tính toán được gì và tôi
phải làm một cái gì giúp ông. Tôi gặp người bạn Nguyễn Phát Minh, anh có
chiếc xe tải Daihatsu chở cá ướp đá chạy đường quốc lộ 46 – La Gi, giá
xăng xe 200 đồng, để gấp rút chở ông về Sài Gòn. Xe ghé nhà tôi lấy
chiếc nệm giường cá nhân, lót lên sàn xe và lên bệnh viện nhận bệnh. Lúc
ấy bác sĩ Nguyễn Văn Khánh, chuyên khoa răng - muốn về thăm nhà, tôi
can thiệp để bác sĩ Khánh nhận làm y tá chuyển bệnh. Tôi báo lại cơ quan
có việc nhà xin nghỉ phép, về nhà dắt con gái Bảo Vy 6 tuổi lên đầu dốc
Tân An đón xe chở ông lên. Xe đến Tân Minh thì trời mưa tầm tã, phải
dừng lại để kiểm tra khi qua mấy trạm quản lý thị trường, vì đây là loại
xe thường chở hàng hải sản. Chai dịch truyền đong đưa dưới mui xe cạn
dần và tôi phải tiêm cho ông mấy mũi campho… Xe đến Gia Định khoảng 5
giờ chiều, hướng về nhà ông ở Đa Kao vì trước đây bà Huệ Minh nói nếu
đưa được ông về Sài Gòn thì có mấy người bạn thân là bác sĩ Lương Phán,
bác sĩ Nguyễn Thị Lợi chăm lo. Theo giấy chuyển viện, chỉ được chuyển
đến Bệnh viện Chợ Rẫy thôi, nhưng tôi chuẩn bị thêm một giấy chuyển viện
ký khống để dự phòng, với ý định ghé nhà để hỏi ý kiến vợ ông quyết
định. Chỉ còn khoảng 100 mét quanh qua góc đường Trần Quang Khải là đến
nhà, thì Hồ Hữu Tường tắt thở trên xe. Lúc này cảnh nhà trống vắng không
có ai, mới biết bà Huệ Minh vừa ra Hàm Tân hồi sáng nay. Người em gái
ông loay hoay cùng tôi và Minh khiêng xác ông vào nhà. Tôi chỉ kịp thấy
căn nhà lầu bề thế, phòng khách có một bức tranh rất rộng treo trên
tuờng. Chuyện tiền xe lúc này tôi không dám hỏi để trả cho Minh đổ xăng
vòng về, nhưng có hỏi thì biết ai. Chúng tôi về Phú Thọ ngủ đêm ở nhà em
tôi và sáng ghé qua nhà ông, bà Huệ Minh chưa thể về kịp, người em gái
ông gởi lại tiền xăng cho Phát Minh… Từ ngày đó tôi không còn liên lạc
gì, dù nhiều lần về Sài Gòn, vì không muốn vương víu đến chuyện nghĩa
ơn. Sau này bà Huệ Minh cho tôi biết, khi bà từ Hàm Tân về nhà thì tin
dữ đến với gia đình. Hồ Xích Tú, người con trai đầu của ông bà, bị bắt
tại Bến Tre do vượt biên. Trước giải phóng, Tú là giám đốc Nha nhân viên
Hàng không, nhưng trong những ngày cuối cùng Sài Gòn sụp đổ, Tú chần
chờ cùng với cha ra đi, nhưng Hồ Hữu Tường tin rằng mình là người yêu
nước, quyết định ở lại. Sau này nghe nhà báo Lê Phương Chi nói, đám ma
Hồ Hữu Tường đông lắm, có nhiều người không dám nhập vào đám đưa tang mà
âm thầm đi trên lề đường đưa tiễn. Anh còn gợi ý tôi viết lại chi tiết
những ngày cuối của Hồ Hữu Tường, đó là một nhân vật đặc biệt kỳ tài.
Khoảng tháng sau, tôi nhận được vài dòng thư của bà Huệ Minh: “Chú Chính, không biết lời nào để nói hết được lòng biết ơn của gia đình tôi đối với chú”
kèm theo 30 đồng. Tôi mới nhớ lại, hôm bà ra chăm sóc ông, đến ngày
phải về Sài Gòn bà lúng túng bảo rằng không còn tiền và tôi vét được 30
đồng đưa cho bà. Lương tôi lúc đó là 47 đồng, tiêu chuẩn gạo tháng 13 kg
nhưng trên 60% là độn bột mì hoặc bo bo… Nói đến chuyện cơm áo thời đó,
có khi kể lại thì thế hệ trẻ bây giờ cho là cổ tích, hoang đường. Không
đâu, có một gia đình, anh chồng làm nhân viên đưa thư, vợ nấu bếp cho
cửa hàng thương nghiệp mà phải nuôi 6 đứa con. Tiêu chuẩn mỗi gia đình
chỉ được 2 nhân khẩu lương thực ăn theo. Hai vợ chồng phải đưa nhau ra
tòa ly dị (tất nhiên là giả) để có thêm tiêu chuẩn lương thực ăn theo!
Thời ấy còn khổ lắm, những người trước đây sống bằng đồng lương công
chức, làm lính chế độ cũ đối mặt với sự thay đổi, bị hụt hẫng nên rất sợ
lao động ruộng rẫy và không có một việc làm nào để sống, lại phải đi
vùng kinh tế mới âm u. Mà bám vào một tập thể cỡ hợp tác xã hay cơ quan
nhà nước thì coi như một cái phao cứu sinh. Anh bạn Đỗ Hồng Hùng là dược
sĩ Đại học Y Sài Gòn, bị động viên mang lon trung úy, nay xin làm xã
viên hợp tác xã phân hữu cơ, ngày 4 tiếng đồng hồ phải gầm mình xuống
Bưng Ngang, đỉa bám vào da, anh trân mình móc từng vốc bùn trộn tro rơm
rạ chế biến phân bón. Mãi sau này bệnh viện mới nhận anh vào để “pha
chế” thuốc Đông y. Trong bản lý lịch cá nhân luôn có phần kê khai hai,
ba người bạn thân nhất, bóp bụng và dẹp sĩ diện lục tìm trong trí nhớ
cho được người bạn nào đó có thành tích cách mạng, nếu đương chức quyền
uy thì càng hay. Nói đến điều này, tôi lại tự hỏi mình, có những quan hệ
với Hồ Hữu Tường trong tình cảnh đó có phải là “liều” lắm không? Trong
lòng tôi khi ấy không có gì lưỡng lự và thật sự thấy rất nhẹ nhàng. Khi
ghi lại những dòng này thì câu chuyện tưởng mới đây mà đã trôi qua 28
năm rồi, nghe đâu bà Nguyễn Huệ Minh cũng đã mất. Đời người sao ngắn
ngủi quá!
La Gi 10/2008
Phan Chính
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét