Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 15 tháng 3, 2025

Thư số 161a gởi : Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. *** Phạm Bá Hoa


Tôi là người Việt Nam. Chào đời năm 1930 tại Đại Ngãi, quận Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Phục vụ quân lực Việt Nam Cộng Hòa từ ngày 12/5/1954 đến Giờ Thứ 25 ngày 30/4/1975. Sau ngày tang thương này, nhóm cầm quyền Việt Cộng đẩy tôi -và đồng đội của tôi- vào trại tập trung Long Giao tỉnh Long Khánh ngày 14/6/1975, chuyển đến trại tập trung Suối Máu tỉnh Biên Hòa tháng 10/1975 trên đất Nam, chuyển đến trại tập trung Yên Bái tỉnh Hoàng Liên Sơn trên đất Bắc ngày 16/6/1976, chuyển xuống trại tập trung Nam Hà tỉnh Hà Nam Ninh tháng 4/1978, ra khỏi trại tập trung ngày 9/9/1987 về đến nhà ở Sài Gòn chiều ngày 12/9/1987. 
<!>
Rời khỏi Việt Nam ngày 29/3/1991 trong đợt HO5 sang Thái Lan làm thủ tục, và ngày 5/4/1991 đặt chân đến Hoa Kỳ tị nạn Việt Cộng. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam khi Việt Cộng độc tài còn cai trị quê hương tôi.

Ước mơ của tôi là được trở về Việt Nam sống trên quê hương cội nguồn của mình dưới chế độ dân chủ tự do. Vì vậy mà ước mơ đó luôn thúc đẩy tôi chọn lọc các tin tức và đưa vào nội dung này, giúp Các Anh và những thành phần yêu chuộng dân chủ tự do có nét nhìn rộng hơn và rõ hơn, về chế độ độc tài + gian trá + tự cao + tham nhũng, về những sự kiện trên thế giới liên quan trực tiếp lẫn gián tiếp đến mục tiêu ngăn chận tham vọng thống trị thế giới của Trung Cộng, mà Hoa Kỳ và một số quốc gia phát triển đang thực hiện.

Khi nhóm cầm quyền Việt Cộng suy yếu đến hỗn loạn, hoặc Trung Cộng bị suy yếu đến mức mà nhóm cầm quyền Việt Cộng không thể dựa được nữa, đó là cơ hội cho Các Anh và toàn dân đứng lên giành lại Quyền Làm Người của mình, nối tiếp dòng lịch sử oai hùng của dân tộc từ ngàn năm trước.

Hãy nhớ, Các Anh là Người Lính trong quân đội gắn liền với hai chữ “Nhân Dân”, phải hiểu là Các Anh có trách nhiệm bảo vệ Nhân Dân, bảo vệ Tổ Quốc, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào độc tài mà cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử. Ngay cả Cộng Sản Quốc Tế là Liên Xô như đang chờ nắm quyền thống trị thế giới vô sản, đã phải sụp đổ từ đầu năm 1991 vì bản chất độc tài độc ác của cộng sản. Cộng sản Liên Xô sụp đổ, kéo theo nhóm quốc gia cộng sản vùng Đông Châu Âu cùng sụp đổ. Cuối năm 2024 vừa qua, chế độ độc tài Syria bị người dân nổi dậy lật đố, Tổng Thống độc tài cùng gia đình bay sang Nga tị nạn. Các quốc gia độc tài -nhất là cộng sản- còn sót lại nói chung, và cộng sản Việt Nam nói riêng, cũng trong quy luật này.

Chưa hết, Các Anh hãy nhớ lại vào nửa thế kỷ trước đó, phát xít Đức bắt đầu chiến tranh xâm lăng Ba Lan từ tháng 10/1939 và chiếm gần hết Châu Âu, trong khi phát xít Nhật bắt đầu chiến tranh với Hoa Kỳ từ tháng 12/1941 và chiếm gần hết các quốc gia vùng Đông Nam Châu Á, nhưng đến nữa cuối năm 1945 thì cả Đức lẫn Nhật phải gục ngã -vì họ là chế độ độc tài với tham vọng thống trị thế giới, không thể tồn tại dài lâu- trước thế giới tự do do Hoa Kỳ dẫn đầu. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Xin nói thêm cho rõ. Với những bài văn bài thơ của các tác giả ở trong nước, tôi xin sử dụng chữ viết truyền thống thay thế chữ viết thời Việt Cộng, ngoại trừ những nhóm chữ thời Việt Cộng mà tôi không hiểu nghĩa.

Với lá thư này, tôi tóm lược bài viết tổng hợp những bản tin liên quan đến “Việt Cộng xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi với Trận Chiến An Lộc suốt 66 ngày đêm hồi mùa hè 1972.

Tôi nói “xâm lăng”, vì Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi là một quốc gia theo chế độ tự do, được 46 quốc gia thiết lập bang giao và có tòa đại sứ tại thủ đô Sài Gòn + 35 quốc gia tuy không chánh thức bang giao nhưng có văn phòng liên lạc tại thủ đô Sài Gòn. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một quốc gia theo chế độc tài, được 15 quốc gia độc tài thiết lập bang giao với tòa đại sứ tại thủ đô Hà Nội. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, là xâm lăng. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa xua quân đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi là xâm lăng.

Trước khi vào trận chiến.

Tóm lược bài viết của Việt Cộng trên Google.
Ngày 25/01/1972, Tổng Thống Hoa Kỳ Richard M. Nixon, trong bài diễn văn đọc trước Lưỡng Viện Quốc Hội được phổ biến qua hệ thống truyền hình trên toàn Hoa Kỳ, có đoạn: “…. Hoa Kỳ đề nghị một kế hoạch “hòa bình 8 điểm” để chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Trong đó, Hoa Kỳ đồng ý rút quân đội Hoa Kỳ và đồng minh ra khỏi Việt Nam trong thời hạn 6 tháng, sau khi một thỏa uớc được ký kết….”.

Ngày 21/2/1972, trong chuyến công du Trung Cộng, Tổng Thống Hoa Kỳ hội đàm với Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai, và Chủ Tich Trung Cộng Mao Trạch Ðông. Sau đó, Thủ Tướng Chu Ân Lai bay sang Hà Nội và thông báo cho nhóm cầm quyền Việt Cộng, rằng: “Hoa Kỳ có quyết định chuyển sang thế trận khác …..”.

Vìệt Cộng với kế hoạch đành chiếm Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi.

Bộ Chính Trị Việt Cộng nhận thấy “đây là thời cơ đại thắng Miền Nam đã đến”, và quyết định tung quân tổng tấn công vào ba căn cứ địch, với một lực lượng hùng mạnh, gồm:

Từ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chuyển vào chiến trường Việt Nam Cộng Hòa: 14 Sư Ðoàn chính quy + 1.000 chiến xa + Nhiều Trung Ðoàn Pháo Binh, và Phòng Không.

Và lực lượng Việt Cộng trong Nam, có đặc công và dân quân địa phương.

Cuộc tổng tấn công Việt Nam Cộng Hòa trên ba mặt trận: (1) Vượt vĩ tuyến 17 tấn công Quảng Trị và Thừa Thiên. (2) Theo đường Trường Sơn tấn công cao nguyên Kontum, và (3) Tấn công Lộc Ninh và An Lộc tỉnh Bình Long”.

Cuộc tổng tấn công này trong “chiến dịch Nguyễn Huệ, bắt đầu từ ngày 30 tháng 03 năm 1972. Khi chiếm được An Lộc, sẽ ra mắt chành phủ lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam”.

Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi với kế hoạch phòng thủ.

An Lộc là quận Châu Thành thuộc tỉnh Bình Long, cách Sài Gòn khoảng 100 cây số về hướng Bắc. Lúc ấy, Tỉnh Trưởng là Đại Tá Trần Văn Nhựt.

Trước khi có tên An Lộc, đây là một thị xã nhỏ bé đìu hiu có tên là Hớn Quản thuộc tỉnh Thủ Dầu Một. Chung quanh là rừng cao su mênh mông ngút ngàn đến tận biên giới Việt – Miên. Tỉnh Bình Long được thành lập thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, gồm có ba quận hành chánh. Diện tích khoảng 2.250 cây số vuông, với dân số khoảng 76.000 người, đa số là người Kinh, một phần là người Thượng thuộc nhiều sắc tộc thiểu số, sống bằng nghề cạo mủ cao su, hoặc làm ruộng rẫy. Từ Sài Gòn theo Quốc Lộ 13 về hướng Bắc, đi qua các thị trấn Lai Khê, Chơn Thành, Tàu Ô, Tân Khai, Xa Cát, Xa Trạch, Xa Cam, đến thị xã An Lộc.

Lai Khê thuộc tình Bình Dương, là nơi đồn trú của Sư Đoàn 5 Bộ Binh mà Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng là Tư Lệnh Sư Đoàn, cách thị xã An Lộc 18 cây số.

Theo tin tức tình báo mà ta tịch thu được, thì kế hoạch chuyển quân “dương Ðông kích Tây” của Việt Cộng sẽ áp dụng, là 2 Trung Ðoàn bộ binh của họ tấn công các đơn vị thuộc Sư Ðoàn 25 Bộ Binh chúng ta ở phía Bắc Tây Ninh, để uy hiếp và đe dọa các tiền đồn vùng biên giới là Katum, Thiện Ngôn, Tống Lê Chân, ..v..v. nhằm đánh lạc hướng, trong khi hai Sư Đoàn Việt Cộng từ căn cứ 354 và căn cứ 708 trên đất Cam Bốt, chuyển sang tấn công tỉnh Bình Long.

Quân Việt Cộng có mặt tại tỉnh Bình Long từ những ngày đầu tháng 4/1972, gồm:

- 4 Sư Đoàn bộ binh, và mỗi Sư Đoàn trên dưới 10.000 quân.
- Các Trung Đoàn chủ lực của Mặt Trận B2.
- 2 Trung Ðoàn Pháo và Phòng Không.
- 1 Trung Ðoàn Ðặc Công.
- 2 Trung Ðoàn Xe Tăng với 200 chiến xa T.54, PT.76, BTR.85.

Chiến trường Lộc Ninh.

Ngày 05/04/1972, lúc 3 giờ sáng, quân Việt Cộng tấn công Chi Ðoàn 1 Kỵ Binh thuộc Thiết Ðoàn 5 Kỵ Binh và Trung Ðoàn 9 Bộ Binh do Ðại Tá Trần Công Vĩnh chỉ huy, trấn giữ Lộc Ninh. Với lực lượng quá mạnh, cùng với hằng ngàn quả đạn pháo binh Việt Cộng đủ loại bắn vào Lộc Ninh, quân trú phòng của ta đã đánh trả quyết liệt. Giữ vững phòng tuyến được hai ngày thì quân Việt Cộng tràn vào bất kể súng đạn từ lực luợng trú phòng và bom đạn từ trên không bắn xuống. Lực luợng quân Việt Cộng quá đông, chiều ngày 7/4/1972, quân ta rút lui xuống An Lộc.

Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn 3, điều động lực lượng để giải tỏa An Lộc, gồm:

“Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù do Ðại Tá Lê Quang Lưỡng là Lữ Ðoàn Trưởng, gồm 3 Tiểu Ðoàn 5, 6 và 8 Nhảy Dù, và Tiểu Ðoàn 3 Pháo Binh Nhảy Dù, đến SĐ5BB ở Lai Khê.
- Ngày 5/4/1972, lực lượng tăng viện đầu tiên đến Lai Khê chuẩn bị vào An Lộc. Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù có nhiệm vụ tảo thanh diệt chốt của các đơn vị Việt Cộng dọc theo quốc lộ 13 từ Chơn Thành đến An Lộc.
- Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân từ Tây Ninh chuyển đến án ngữ phía Bắc thị xã An Lộc.
- Sư Ðoàn 21 Bộ Binh do Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu là Tư Lệnh, từ Bạc Liêu, và Trung Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh từ Sa Đéc cùng di chuyển đến Lai Khê, tăng cường giải tỏa Quốc Lộ 13 từ Chơn Thành đến An Lộc, mở rộng vòng đai phòng thủ An Lộc..

Ngày 06/04/1972, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh SĐ5BB, cùng bộ tham mưu Sư Đoàn nhảy vào An Lộc để chỉ huy mặt trận này. Cùng lúc có 2 Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 8 cùng vào An Lộc, phòng thủ phía Đông Bắc An Lộc. Chuẩn Tướng Hưng mạnh mẽ tuyên bố: “Quyết tử thủ An Lộc”. Lời tuyên bố sắt đá đó như “lời thề nguyền với tiền nhân đã có công dựng nước, mở nước, và giữ nước”.

Lực lượng phòng thủ An Lộc, lúc ấy chưa có đơn vị Pháo Binh nào, cũng chưa có đơn vị Thiết Giáp nào, nhưng sẳn sàng đương đầu với lực lượng Việt Cộng có khoảng 4 sư đoàn chủ lực -đông hơn ta gấp 9 lần- cùng với pháo binh và chiến xa đang vây quanh An Lộc

Chiến trường An Lộc..

Lúc 3 giờ chiều ngày 7/4/1972, trong lúc chiến trường Lộc Ninh đang bị quân Việt Cộng tràn vào, thì Việt Cộng tung một Sư Ðoàn tấn công vào quận lỵ An Lộc, để chận đường tiếp viện cho Lộc Ninh, trong khi một Sư Ðoàn khác của Việt Cộng tổ chức phục kích dọc theo Quốc Lộ 13 với chiều dài khoảng 26 cây số, từ Chơn Thành đến Lộc Ninh. Ðoạn đường “hành lang máu” này bị tắc nghẽn hoàn toàn. Lực lượng tăng viện của ta tiến từng bước một để đến An Lộc, nhưng mỗi bước tiến không biết bao nhiêu chiến binh gục ngã, cả quân ta lẫn quân Việt Cộng.

Ngày 11/04/1972, Hoa Kỳ điều động 25 pháo đài B.52 yểm trợ, đã trút gần 800 tấn bom xuống các vị trí đóng quân của địch chung quanh Lộc Ninh và An Lộc. Nhờ thế mà cường độ pháo kích của địch đã giảm rất nhiều.

Ngày 12/04/1972, Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù giải toả được 30 cây số đường trên Quốc Lộ 13 từ Lai Khê đến Chơn Thành. Khi đoàn quân Nhảy Dù tiến qua khỏi Chơn Thành khoảng 7 cây số về hướng Bắc -còn cách An Lộc 15 cây số- cánh quân đi đầu của Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù đã gặp sự kháng cự mãnh liệt của quân Việt Cộng tại suối Tàu Ô, đến mức Thiết Ðoàn 5 Kỵ Binh và 2 Tiểu Ðoàn Nhảy Dù tăng phái cho An Lộc, phải bám vị trí lầy lội vì hoả lực dữ dội của qjuân Việt Công.

Ngày 13/04/1972, quân Việt Cộng đồng loạt tấn công ba tuyến phòng thủ chính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Hai tuyến phía Ðông và Tây vẫn giữ vững, trong khi đó mặt Bắc do Trung Ðoàn 8/Sư Ðoàn 5 Bộ Binh của Ðại Tá Mạch Văn Trường trấn giữ, bị quân Việt Cộng chọc thủng. Ðây là trận đánh khốc liệt bằng chiến xa. Do đó, nhiều chiến xa của Việt Cộng đã lọt vào Thị Xã An Lộc trước khi bị quân ta bắn cháy. Chiến xa đầu tiên bị bắn bởi hoả tiễn XM.202 do các chiến sĩ Trung Ðoàn 8 Bộ Binh bắn cháy chỉ cách Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn của Ðại Tá Trường khoảng 20 thước, còn có khoảng 15 chiến xa T.54 và PT.76 của Việt Cộng đã bị bắn cháy nằm ngổn ngang trên đường Ngô Quyền. Cùng lúc, một đoàn chiến xa khác của Việt Cộng lù lù tiến vào nhưng khựng lại, vì những trái đạn hoả tiễn M.72.

Ngày 14/04/1972, tại căn cứ Lai Khê, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh -Tư Lệnh Quân Ðoàn 3- họp mật với Trung Tướng Dư Quốc Ðống -Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù- và Ðại Tá Lê Quang Lưỡng -Lữ Ðoàn Trưởng Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù-.trong buổi họp này, Trung Tướng Minh cho biết:

“Tình hình An Lộc đang bị quân Việt Cộng siết chặt vòng vây. Lực lượng trú phòng không thể bung ra ngoài để hoạt động. Số binh sĩ thương vong vì bị địch pháo kích ngày càng gia tăng. Trong tình thế đó, cần phải lập một đầu cầu vào thị xã An Lộc để nới rộng tầm hoạt động của quân trú phòng. Các mặt ở hướng Bắc, Tây, và Nam của An Lộc đều bị hoả lực địch phong tỏa. Chỉ còn mặt Ðông Nam thì chưa bị Việt Cộng khống chế.

“Ở đây có những ngọn đồi thoai thoải. Ðồi 169, Ðồi Gió, Ðồi 100, Ðồi Ðồng Long là những cao điểm quân sự quan trọng về phòng thủ bảo vệ thị trấn An Lộc, cũng rất thuận tiện cho cuộc đổ quân bằng trực thăng. Và Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù đã được trao trọng trách đầy khó khăn và nguy hiểm này”.

Ngay sau buổi họp, Ðại Tá Lê Quang Lưỡng bay quan sát vị trí trận địa để chọn bãi đổ quân. Sau năm vòng bay, ông quyết định đổ quân xuống ấp Srok Ton Cui, cạnh Ðồi Gió, cách An Lộc 4 cây số về phía Ðông. Theo kế hoạch:

- Ngay hôm nay -14/4/1972- Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Văn Ðỉnh làm Tiểu Ðoàn Trưởng, sẽ xuống trước để giữ an ninh bãi đáp và vị trí đặt Pháo Ðội C Pháo Binh Nhảy Dù.

- Sáng ngày mai -15/4/1972- Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu làm Tiểu Ðoàn Trưởng, Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù do Trung Tá Văn Bá Ninh làm Tiểu Ðoàn Trưởng, cùng Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù và các thành phần yểm trợ sẽ được trực thăng vận xuống khu vực này.

Đúng kế hoạch, sau khi cuộc đổ quân hoàn tất, hai Tiểu Ðoàn 5 và 8 Nhảy Dù chia làm hai cánh quân trái phải đi song song bên trong rừng cao su Quản Lợi. Trong khi Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù bung ra lục soát về phía Tây thị xã An Lộc. Trên đường tiến quân, bị Cộng quân pháo kích dữ dội nên Tiểu Đoàn đã di chuyển mở rộng vòng đai phòng thủ về hướng Nam. Cùng lúc đó, Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù cũng nhận được lệnh tung ra tiếp ứng mở rộng vòng đai, để lập bãi nhận hàng tiếp tế do phi cơ thả dù.

Cùng ngày 15/4/1972, để đối phó với tình hình chiến sự ngày càng gay go, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh di chuyển Bộ Chỉ Huy Hành quân của Quân Ðoàn 3 đến Lai Khê, để trực tiếp điều động chỉ huy mặt trận Bình Long. Một lực lượng đặc nhiệm với khoảng 15.000 binh sĩ gồm Nhảy Dù, Biệt Ðộng Quân, Bộ Binh, Thiết Kỵ, được thành lập để giải toả Quốc Lộ 13 đặt dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, Tư Lệnh Sư Ðoàn 21 Bộ Binh.

Hôm sau -16/4/1972- Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù từ Ấp Sóc Gòn tiến vào An Lộc để bắt tay với Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù. Trong khi đó, Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù ở lại làm lực lượng đoạn hậu, và án ngữ Ðồi Gió bảo vệ an ninh cho Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn và Pháo đội C Pháo Binh Nhảy Dù.

“Linh động” và “bất ngờ” là hai yếu tố quan trọng trong binh pháp, được Ðại Tá Lữ Ðoàn Trưởng Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù khai thác triệt để trong cuộc đổ quân ào ạt này, làm cho quân Việt Cộng đang bao vây An Lộc bị cú bất ngờ, hoang mang, hốt hoảng. Trận đánh đẫm máu diễn ra, quân Nhảy Dù ưu thế đã gây thiệt hại cho gần cả một tiểu đoàn địch trấn giữ xung quanh khu vực Ðồi Gió.

Cùng ngày 16/4/1972, quân Việt Cộng tấn công đợt hai với “điểm” tại phía Bắc và “diện” ở hai mặt Ðông và Tây. Mặc dù chúng có nhiều chiến xa yểm trợ, đợt tấn công này cũng bị quân ta bẻ gẫy từ đầu. Chiến trường tạm lắng dịu, nhưng pháo binh địch vẫn bắn liên tục vào bên trong An Lộc.

Lúc bấy giờ, Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Nhảy Dù, do Trung Tá Phan Văn Huấn chỉ huy, đang hoạt động bên trong phòng tuyến địch ở vùng Xa Mát biên giới tỉnh Tây Ninh – Cam Bốt, được lệnh khẩn cấp bốc về An Lộc vào chiều ngày 16/4/172, để tiêu diệt các tổ đặc công của địch lọt được vào thị xã An Lộc sau các đợt tấn công.

Ngày 17/4/1972, trong cuộc họp báo ngắn tại Lai Khê, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh tuyên bố:”Giai đoạn khó khăn nhất đã qua. Chúng tôi hết sức thận trọng vì sợ kẹt dân, Chúng tôi không lạc quan quá mức, và đang ghìm súng chờ đợi những đợt tấn công của quân Việt Cộng”.

Ngày 18/4/1972, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh chiến trường An Lộc cam kết: ”Ngày nào tôi còn, An Lộc còn”. Vị tướng này, đầu đội nón sắt, tay cầm súng XM.16, mặc áo thung, quần trận, vắt lựu đạn quanh mình, hoạt động liên tục. Hai tai Ông nghe báo cáo và điều động các binh sĩ dưới quyền khắp nơi. Thật sự An Lộc rất may khi có được vị Tướng Tư Lệnh Chiến Trường này, và chính Ông là niềm tin quan trọng giữ vững An Lộc. Có thêm nhiều chiến xa của Cộng quân bị bắn hạ gần Bộ Tư Lệnh”Tiền Phương” của Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng. Chiến xa địch đầu tiên bị bắn cháy tại đây là do hoả tiễn M.72 của chính đích thân Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ bắn. Ông nói: ”Trúng rồi, tôi đã diệt được nó …”

Ngày 19/4/1972, quân Việt Cộng thay đổi chiến thuật. Một mặt đánh vào thị xã An Lộc, một mặt sử dụng hai Trung Ðoàn bộ binh tấn công ồ ạt để tiêu diệt Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù tại đồi 169 và Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù trấn giữ Ðồi Gió. Trước tình thế nguy kịch vì áp lực quá nặng của địch, Ðại Tá Lê Quang Lưỡng cho lệnh Trung Tá Ðỉnh, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù, được toàn quyền quyết định về kế hoạch triệt thoái. Trung Tá Ðỉnh dẫn 2 Ðại Ðội 60 và 62 Nhảy Dù di chuyển dọc theo ngọn đồi xuống Ấp Srok Ton Cui, nơi Ðại Ðội 61 Nhảy Dù đã lập vị trí trấn giữ; 2 Ðại Ðội 63 và 64 Nhảy Dù còn lại do Thiếu Tá Nguyễn Kim Bằng, Tiểu Ðoàn Phó chỉ huy tiếp tục án ngữ cao địa Ðồi Gió.

Đêm 19 rạng 20/4/1972, Ðồi Gió bị tấn công. Thiếu Tá Phạm Kim Bằng ra khỏi hầm điều khiển Ðại Ðội 63 và Đại Đội 64 phản công mãnh liệt. Tất cả đều ở tuyến chiến đấu, không còn khinh binh Tổ Trưởng, Trung Ðội Trưởng, Ðại Ðội Trường, Tiểu Ðoàn Phó … Chỉ còn một hàng ngang theo giao thông hào, điểm phân biệt được người chỉ huy là tai nghe máy chuyển lệnh điều quân, tay ném lựu đạn. 2 Ðại Ðội chỉ trừ những người chết hoặc bị thương mê man, còn thương binh chỉ tạm băng bó sơ qua vết thương, đứng hoặc dựa lưng vào thành giao thông hào để tiếp tục chiến đấu.

Khoảng 4 giờ sáng ngày 20/4/1972, trong bóng tối ngả màu tím của ngày sắp đến, 4 chiến xa T.54 từ 2 hướng Ðông và Ðông Bắc bắt đầu bò lên đồi. Hai chiến xa Việt Cộng bị bắn cháy, hai chiếc còn lại chạy xuống chân đồi. Trời sáng hẳn, với ánh nắng chan hoà cùng cơn mưa pháo làm cho cảnh vật trên đỉnh đồi bây giờ trông tan hoang, điêu tàn và bốc khói từ đạn của địch và đạn của ta.

Quanh ngọn đồi xác chiến xa địch, xác quân địch và xác quân ta nằm la liệt ngổn ngang. Thiếu Tá Bằng kiệt sức vì mắt bị trúng đạn, gọi Đại Úy Hoàng đến: “Anh thay tôi đem 2 Ðại Ðội về đồi 169, hướng Tây Nam đồi Quốc Tuấn dưới một cái “yên ngựa”. Nhớ chuyển hết thương binh theo, còn anh em hy sinh thì chôn lại …”.

Một sư đoàn quân Vìệt Cộng ào ạt tấn công Ðồi Gió, trong khi lực lượng trên Đồi Gió được lệnh di tản để bảo tồn lực lượng. Trung Ðội của Trần Đại Chiến ở lại đoạn hậu sau cùng, anh là người bảo vệ sau hết, đơn vị của anh đã hết đạn, anh cho Trung Ðội lui dần về hướng Tây Bắc qua ngang Ðồi 169. Anh Chiến cho lệnh cho Trung Ðội rút hết, trong khi anh ở lại một mình với trái lựu đạn M.26 duy nhất còn lại, khi chiến xa và bộ binh địch tràn ngập Ðồi 169, anh cho lựu đạn … Anh đã ra đi vĩnh viễn! Ðồi 169 trở thành địa danh bất diệt ”Ðồi Mũ Ðỏ Trần Đại Chiến”.

Cánh quân của Trung Tá Ðỉnh vừa xuống khỏi đồi thì bị quân Việt Cộng chận đánh. Các chiến sĩ Nhảy Dù chống trả quyết liệt và cuối cùng phải rút về hướng Nam, sau đó được trực thăng võ trang AH-1G “Cobra” của Hoa Kỳ hỗ trợ cho Phi Ðoàn trực thăng của Không Quân Việt Nam tìm kiếm bốc chở những quân nhân còn thất lạc về Lai Khê. Cánh quân do Thiếu Tá Bằng chỉ huy rút về phía Tây thị xã An Lộc. Riêng Pháo Ðội C Pháo Binh Nhảy Dù với 6 khẩu đại bác 105 ly, được lệnh phá huỷ tất cả súng trước khi rút lui.

Trong cuộc lui quân ra khỏi Ðồi Gió, Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù đã được Không Quân Việt Nam Cộng Hòa yểm trợ với 3 phi tuần F.5E và 3 “pass” B.52 của Hoa Kỳ đánh xuống các vị trí của quân Việt Cộng chung quanh vòng đai phía Nam An Lộc khoảng 4 cây số. Trong khi Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù đã gặp phải hoả lực quá mạnh của địch tấn công tràn ngập từ mặt Ðông Nam An Lộc, gây thiệt hại nặng cho 2 Ðại Ðội Nhảy Dù.

Ngày 20/4/1972, trong 48 giờ qua, quân Việt Cộng chỉ còn pháo kích vào thị xã An Lộc chớ không có quân bộ binh tấn công. Trung bình mỗi ngày quân Việt Cộng bắn vào An Lộc khoảng 1.500 đạn đại bác đủ loại.

Ngày 21/4/1972, quân Việt Cộng tiếp tục pháo kích khoảng 2.000 quả đạn đại bác đủ loại vào phòng tuyến của Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù.

Ðêm 22 rạng ngày 23/4/1972, quân Việt Cộng tung thêm bộ binh và 1 chi đội chiến xa tấn công vào khu vực Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù ở cửa Nam An Lộc. Người linh Mũ Ðỏ đã can đảm sử dụng súng chống chiến xa M.72 và XM.202 bốn nòng bắn cháy 4 chiến xa địch gồm 2 T.54 và 2 PT.76. Trong khi phi cơ AC.130 có trang bị đại bác 105 ly và những đại liên 40 ly, bắn theo sự hướng dẫn của radar đã tiêu diệt luôn một đoàn 5 chiến xa địch đang di chuyển đến.

Ngày 5/5/1972, một sĩ quan cộng sản thuộc Trung Ðoàn 275 Việt Cộng từ Bắc vào, trình diện xin đầu thú và tiết lộ rằng: “Sư Ðoàn 5 Việt Cộng sẽ thay thế Sư Ðoàn 9 Việt Cộng trong kế hoạch đánh chiếm An Lộc. Sư Ðoàn này sẽ phối hợp với Sư Ðoàn 7 Việt Cộng, và hướng tấn công chính sẽ là phía Ðông Nam. Mũi tấn công phụ sẽ là hướng Bắc và Ðông Bắc do Sư Ðoàn 9 Việt Cộng đảm trách”.

Ngày 10/5/1972, quân Việt Cộng tấn công chọc thủng tuyến phòng thủ phía Ðông do Tiểu Ðoàn 52 Biệt Ðộng Quân trấn giữ.

Ngày 11/5/1972, quân Việt Cộng pháo kích dữ dội với khoảng trên 8.000 quả đạn đủ cỡ rơi vào chu vi phòng thủ An Lộc đã thu hẹp, có diện tích không hơn hai cây số vuông. Khoảng 4 giờ sáng, quân Việt Cộng bắt đầu đợt tấn công mới vào An Lộc với sự yểm trợ của 40 chiến xa. Tuyến phòng thủ của Trung Ðoàn 8 Bộ Binh bị địch chọc thủng.

Sĩ quan liên lạc của Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù đặt cạnh Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh tiền phương, báo cáo địch quân chỉ còn cách ta khoảng 100 thước. Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù gửi ngay Ðại Ðội 3 Trinh Sát Nhảy Dù lên tăng cường để bảo vệ. Sau đó, Ðại Tá Lữ Ðoàn Trưởng quyết định đưa Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù của Trung Tá Hiếu đến giải toả áp lực địch ở phía Bắc của Bộ Tư Lệnh SÐ5BB tiền phương. Sự tăng viện của Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù đã có hiệu quả ngay lập tức, và quân Việt Cộng không thể tiến vào.

Ðến giờ phút này, cả ba mặt trận An Lộc, Kontum, và Quảng Trị, cùng trong tình thế quyết liệt.

Bên kia Thái Bính Dương, Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon công bố những biện pháp mạnh đối với nhóm cầm quyền Việt Cộng.

Tại Sài Gòn, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố: ”Tổ Quốc Lâm Nguy”. Lệnh thiết quân luật được ban hành trên toàn quốc từ 0 giờ ngày 11/5/1972”.

Theo tin tức nhận được từ hệ thống vô tuyến. Cùng ngày giờ này, Bộ Tư Lệnh Hành Quân “B2” của quân Việt Cộng ra lệnh: “Dứt điểm” An Lộc và bắt sống “Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng”. Ðúng 12 giờ đêm, quân Việt Cộng đồng loạt bắn pháo binh khốc liệt vào An :Lộc. Một thị xã nhỏ bé đã hứng chịu trận pháo kích kinh thiên động địa này, với khoảng 10.000 quả đạn pháo đủ loại.

Tại An Lộc, Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù của Ðại Tá Lưỡng chịu trách nhiệm mặt Nam An Lộc, còn Trung Ðoàn 8 Bộ Binh do Ðại Tá Mạch Văn Trường chỉ huy trách nhiệm phòng thủ phía Bắc An Lộc. Khi được tin Ðại Tá Trường bị thương, Ðại Tá Lưỡng đã vượt vòng đai phòng thủ đến thăm Ðại Tá Trường. Ðại Tá Lưỡng hướng dẫn Ðại Tá Trường cách ứng chế mìn để chặn đường tiến quân của địch. Ngay sau đó, Đại Tá Trường cùng anh em trong Trung Đoàn biến chế mìn theo công thức “cứ hai đầu đạn 155 ly với ngòi nổ thành một quả mìn chống chiến xa”. Chính với loại mìn ứng chế này, quân trú phòng đã hạ được nhiều chiến xa địch trong các đợt tấn công kế tiếp của quân địch.

Trên đây là một điểm son cần được ghi nhận, về sự phối hợp tuyệt vời giữa hai cấp chỉ huy trong trận chiến An Lộc.

Trung Tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 thảo luận với cố vấn Hoa Kỳ, và hai bên cùng đồng ý sử dụng không lực mạnh mẽ để giải tỏa áp lực của quân Việt Cộng. Sau 25 phi vụ B.52 của Hoa Kỳ trút 2.000 tấn bom đủ loại xuống những khu vực của quân Việt Cộng. Có những phi vụ mà mục tiêu dội bom có khi chỉ cách tuyến phòng thủ của quân ta khoảng 900 thước. Áp lực của địch cũng như mức độ pháo kích đã giảm đi một cách rõ rệt. Vi vậy mà công tác tiếp tế, tản thương, và bổ sung đươc tiếp tục lại.

Ngày 17/5/1972, áp lực đã giảm hẳn. Quân trú phòng cố nới rộng vòng đai phòng thủ, đồng thời di chuyển được chừng 2.000 người dân ra khỏi An Lộc để đưa về Chơn Thành.

Ngày 23/5/1972, quân Việt Cộng lại mở liên tiếp 4 đợt tấn công bằng chiến xa vào các đơn vị phòng thủ khu vực Nam và Tây Nam An Lộc, nhưng quân ta đã đẩy lui quân Việt Cộng. Sau các trận đánh này kết thúc, có thêm 13 chiến xa của quân Việt Cộng bị bắn cháy, gồm 5 chiếc T.54 và 8 chiếc PT.76

Ngày 31/5/1972, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, khi tiếp xúc với phóng viên báo chí tại Lai Khê, đã mô tả trận chiến này là trận đánh khó khăn nhất và dài nhất trong cuộc đời binh nghiệp của Ông. Sau 54 ngày giao tranh, quân Việt Cộng bị thiệt hại ít nhất là trên 25.000 quân, và trên 60 chiến xa bị bắn cháy. Số tổn thất đó ước lượng khoảng một nửa lực lượng của quân Việt Cộng trong trận chiến An Lộc.

Vì vậy mà kế hoạch tổng tấn công Việt Nam Cộng Hòa trong mùa hè 1972 của nhóm cầm quyền Việt Cộng từ Hà Nội, để tạo thành bàn đạp tiến đánh thủ đô Sài Gòn, đã bị quân dân ta chặn đứng tại Mặt Trận An Lộc.

Trong khi đó, Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù được bổ sung quân số và tái chỉnh trang gần Quân Chơn Thành. Sau khi hoàn tất chương trình huấn luyện bổ túc ngay tại chỗ, Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Văn Ðỉnh chỉ huy được đưa trở lại tham chiến giải toả Quốc Lộ 13 cùng song song tiến lên với Trung Ðoàn 33 Sư Ðoàn 21 Bộ Binh và Trung Ðoàn 15 Sư Ðoàn 9 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà do Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu tổng chỉ huy. Với sự hổ trợ của hai trung đoàn bộ binh, Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù lướt đi như gió, càn quét sạch các đơn vị của Việt Cộng, thật không hổ biệt danh “thiên thần mũ đỏ”.


Sau những ngày quần thảo với quân Việt Cộng từ Chơn Thành tới An Lộc, đến chiều tối ngày 8/6/1972, Ðại Ðội 62 Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù đã bắt tay được với Ðại Ðội 81 Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù trấn giữ ở phía Nam thị xã An Lộc. Các binh sĩ của hai tiểu đoàn nhảy dù đến siết chặt tay nhau, làm sao kể xiết nỗi vui buồn của họ.

Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, Tư Lệnh Sư Ðoàn 21 Bộ Binh, và cũng là vị sĩ quan chỉ huy lực lượng giải toả Quốc Lộ 13, đã thở phào nhẹ nhõm. Nhiệm vụ của ông vừa được hoàn thành.

Ngày 9/6/1972, sau khi cánh quân Dù bắt tay được với quân trấn thủ An Lộc, liền mở rộng vòng đai về phía Nam. Lần đầu tiên kể từ hai tháng qua, mới có được một đoàn trực thăng 25 chiếc hạ cánh an toàn xưống An Lộc, vừa tiếp tế, vừa đổ quân, và di tản thương binh cùng với thường dân, vẫn tiếp diễn đều đặn an toàn.

Những ngày có khoảng 3.000 người chạy loạn qua Tàu Ô về được tới Chơn Thành chỉ còn lại hơn 1.000 người. Thảm kịch này không ngôn ngữ nào diễn tả hết, không có gia đình nào còn toàn vẹn khi vượt qua lưới đạn ác nghiệt của quân Việt Cộng trong trận chiến này! Chuyến di tản đông nhất là ngày 11/6/1972, với khoảng 12.000 đồng bào từ An Lộc hướng về phía Nam qua Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch đến Tân Khai. Bị quân Việt Cộng bắn chặn xối xả bằng đủ loại súng đạn vào đám người di tản trên tay không một tấc sắt, làm cho khoảng 2.000 người chết ngỗn ngang!

Cùng ngày 11/6/1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gởi lời khen nồng nhiệt đến Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, Ðại Tá Lê Quang Lưỡng, và tất cả các đơn vị trưởng cùng toàn thể các binh sĩ thuộc mọi quân binh chủng đã anh dũng chiến đấu bảo vệ thị xã An Lộc và khai thông Quốc Lộ 13.

Nói đến lòng dũng cảm của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa, chúng ta không thể nào quên được những thảm cảnh đau thương kinh hoàng của người dân An Lộc. Có một số người vẫn ở lại An Lộc cho đến giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến, có những người không chịu nổi những trận mưa pháo kinh hoàng có khi lên đến 10,000 quả đạn nổ cho 24 giờ mỗi ngày, nên đã bồng bế dắt dìu nhau hướng về phía Nam. Có thể nói có quá nhiều người dân đã chết dọc theo “hành lang máu” từ An Lộc về Tân Khai qua suối Tàu Ô tới Chơn Thành!

Ngày 12/6/1972, Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù do Trung Tá Phan Văn Huấn chỉ huy, đã tung quân tái chiếm ngọn đồi Ðồng Long, cách Thị Xã An Lộc khoảng 500 thước về phía Tây Bắc. Ðây là trận đánh cuối cùng của Biệt Kích Dù tại An Lộc, trận dánh kéo dài từ sáng sớm cho đến chiều, một ngày khói lửa khốc liệt, không ăn và cũng không ngưng nghỉ. Quân Việt đông hơn ta gấp 5 lần. Xác ta và địch nằm ngổn ngang khắp nơi. “Chiến trường ai khóc chia phôi, khải hoàn ai nghĩ tới người hôm qua….”

Chúng tôi rất hãnh diện đã có những người bạn như thế đó, đã làm rạng danh cho đơn vị, cho màu cờ sắc áo một thời. Khi lá “cờ vàng ba sọc đỏ” được các chiến sĩ Biệt Kích Dù kéo lên phất phới tung bay trong gió trên đỉnh đồi Ðồng Long, thì bóng chiều tắt nắng dần trong im lặng không tiếng súng, chiến trường như bãi chợ chiều, ngổn ngang xác chết cùng súng đạn chồng chất lên nhau. Người lính Việt Nam Cộng Hoà đã không ồn ào hò reo chiến thắng. Họ cũng không nhìn thấy được những chiến tích lẫy lừng trước mặt, mà chỉ im lặng nghĩ nhiều đến bạn bè đã hy sinh, đã nằm xuống trong trận đánh để đời này!

Ðáng kể nhất là các chiến sĩ Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù, vì đã được huấn luyện đặc biệt để chiến đấu đơn độc trong lòng địch, đã thuộc nằm lòng nguyên tắc tác chiến ấy, để có thể giả dạng quân “giải phóng” cho nên kỹ thuật tác chiến cá nhân của họ rất cao. Họ đã tung hoành hoạt động ngang dọc trong nửa lòng thành phố về phía Bắc An Lộc, cuộc giao tranh giữa các chiến sĩ Biệt Kích Dù và đặc công Việt Cộng tiếp diễn với mức độ ác liệt, tạo thành những mảng “da beo” có khi ta và địch chỉ có cách nhau bởi con đường ngang 4 thước, trên phần đất hỏa ngục trần gian này. Hàng ngàn xác chết của cả hai bên ta và địch nằm la liệt khắp nơi trong thị xã An Lộc!

Họ đã bình thản tạo dựng được một nghĩa trang khá tươm tất để an táng các đồng đội đã hy sinh trên chiến trường này! “Nghĩa trang Biệt Kích Dù” sát ngôi chợ Bình Long, có ghi hai câu thơ mộc mạc của một Cô Giáo tên Pha, như sau: An Lộc địa, sử ghi chiến tích. Biệt Kích Dù, vị quốc vong thân”.

Nhận định.

Nhóm cầm quyến Việt Cộng từ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, lừa dối người dân của họ bằng cách kêu gọi người dân tham gia quân đội, lên đường vượt Trường Sơn vào chiến trường Miền Nam mà họ nói là “diệt Mỹ Ngụy, giải phóng người dân bị Mỹ Ngụy áp bức đói khổ đến mức không có chén ăn cơm”….

Thật sự là nhóm cầm quyền coi mạng sống người dân dưới quyền họ chỉ là một thứ phương tiện, để họ thực hiện tham vọng thống trị thế giới của cộng sản quốc tế Liên Sô. Vì vậy mà nhiều chục ngàn quân lính của họ gục ngã trên chiến trường Bình Long - An Lộc, chỉ làm cho họ thất bại chớ không có gì phải quan tâm, trong khi cha mẹ người lính trên đất Bắc trông chờ tin tức con mình … đã tan xác …

Đảng cộng sản Việt Nam -cũng như các đảng cộng sản trên thế giới còn sót lại- luôn đòi hỏi Công An với Quân Đội bảo vệ đảng, không hề nói đến dân đến nước. Vậy mà trong giáo dục học đường cũng như tuyên truyền trong xã hội, họ luôn miệng nói vì dân …vì nước ….

Kết luận.

Đó là sự thật của chế độ độc tài + gian trá + tham nhũng + tự cao. Các Anh hãy suy nghĩ với các góc cạnh đắng cay trong cuộc sống xã hội chủ nghĩa đối với dân tộc nói chung, đối với tuổi trẻ Việt Nam nói riêng, bị nhà cầm quyền Việt Cộng gian manh dối trá lừa gạt từ thế hệ này sang thế hệ khác, tự khắc Các Anh sẽ nhận ra trách nhiệm của người cầm súng bảo vệ đồng bào, bảo vệ tổ quốc, vì tổ quốc với đồng bào là trường tồn, trong khi bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử. Vì vậy mà ngày nào đảng cộng sản Việt Nam còn tồn tại, thì ngày đó toàn dân Việt Nam -kể cả Các Anh và thân nhân Các Anh-.vẫn bị nhóm cầm quyền chà đạp Quyền Làm Người.

“Cơ hội” có thể là trong thời gian không xa trước mắt, Trung Cộng suy yếu đến mức mất chỗ dựa cho nhóm cầm quyền Việt Cộng, hoặc nội bộ nhóm cầm quyền Việt Cộng hỗn loạn, chính là lúc Các Anh phải mạnh mẽ đứng lên, đồng bào sẽ đứng lên cùng Các Anh làm nên lịch sử. Vì Các Anh không đứng lên, sẽ không có quốc gia nào đến Việt Nam giành lại Quyền Làm Người giùm Các Anh đâu.

Và Các Anh phải hiểu rằng, “Dân Chủ Tự Do không phải là quà tặng, mà chính dân tộc Việt Nam phải tranh đấu, và Các Anh là thành phần nòng cốt trong cuộc tranh đấu này”.

Texas, 15 tháng 3 năm 2025
Phạm Bá Hoa

Không có nhận xét nào: