Người lính Nhảy Dù lật đật nhảy vào, la lớn: - Có thằng lính Thủy Quân Lục Chiến nằm trong này. Người lính thứ hai kẹp súng bước nhanh tới, cũng nói lớn: - Nó còn mang súng nửa. Người thứ nhứt cúi xuống như muốn nâng người lính Thủy Quân Lục Chiến bị thương lên, nhưng buộc miệng la lớn: - Chưn nó thúi như mùi chuột chết, tụi bây ơi. Một người dáng như Tiểu đội trưởng nói: - Hai đứa tụi mày xúm nhau bồng nó ra ngoài đường. Đám Thủy Quân Lục Chiến đang theo mình đó.
Đầu óc tui vẫn còn tỉnh táo, nhưng đã quá đuối sức sau ba ngày bò một mình xuyên rừng. Hôm nay là ngày O3 tháng O1 năm 1965. Hai tay tui vẫn giữ chặt khẩu súng AR 15 còn độ 15 viên đạn. Hai người lính Nhảy Dù của Tiểu đoàn 5 tiếp viện đưa tay xốc bỗng tui ra mặt đuờng trước cổng phía Đông của làng Bình Giã. Đám lính Thủy Quân Lục Chiến chạy vội xuống. Chợt Binh nhứt Hai "Ốm" la lên:
- Trời ơi! Sao Mai còn sống.
Hạ sĩ Khanh mang máy truyền tin Đại đội, nhào xuống nắm tay tui vừa khóc vừa nói thổn thức:
- Tui ân hận vì bỏ Sao Mai lại. Mấy ngày nay tụi tui lục tìm Sao Mai khắp nơi, nhưng không thấy.(Sao Mai là danh hiệu của Đại đội trưởng)
Tự nhiên lúc ấy, tui bị mất tiếng cổ khô rát. Tui chợt nhìn lại hai vết thương ở bắp chân và đùi phải nay đã loi ngoi đầy dòi và kiến.
Mãi lúc ấy, tui mới thấy đau nhức lên tận óc. Khi người lính Y tá chạy tới, tay cầm chai rượu trắng để đi lượm xác, tui với tay giựt lấy chai rượu, mở nắp, nhổm người đổ vào hai vết thương đã ung thúi. Dòi và kiến rớt xuống đất một dề lổn ngổn. Mấy ngưới lính sống sót của Đại đội 1 của TĐ 4 Thủy Quân Lục Chiến, xúm nhau khiên bỏ tui lên chiếc chõng tre thay băng -ca, do dân làng cung cấp.
Tui giao khẩu súng AR 15 cho Binh nhứt Hai Ốm. Chợt nhớ, tui hỏi:
- Còn Đại uý Peter Cook đâu ?
Binh nhứt Nguyễn Văn Hai kể khi dẫn vị Sĩ quan Thủy quân lục chiến Mỹ, du hành quan sát, rời trận địa, ra khỏi bìa rừng liền bị cộng quân ở vòng vây thứ nhì chận bắt. Đại uý Cook đã bị thương ở đùi. Trước đó trong tiếng súng vẫn còn nổ dòn, tui lấy băng cá nhân bó chặt vết thương chân của Đại Uý Cook, rồi bảo binh nhứt Hai kè ông chạy về phía rừng hướng làng Bình Giã, vì tui biết sau cùng phải phá vòng vây rút quân về Bình Giã. Ngay tối ngày 31 tháng 12 năm 1964, cộng quân trói tù binh giải giao khỏi trận địa. Trong đêm tối, binh nhứt Hai đã lủi trốn vào bụi rậm và sau đó chạy thoát về Bình Giã. Đại Uý Peter Cook bị bắt chuyển vể Chiến khu D, nhưng do thương tích không đuợc cứu chữa nên ông chết trong mật khu cộng quân năm 1968. Năm 1972, khi trao trả tù binh, cộng quân mới chính thức loan tin, khi ông đã đuợc thăng cấp lên Trung tá.
Tui được anh em khiêng vào làng. Dân chúng bu lại hỏi thăm vì tui là người sống sót cuối cùng. Binh nhứt Hai vội vàng chạy đi pha cho tui một ly sữa nóng. Đại tá Nguyễn Thành Yên Tư Lệnh Phó Lữ đoàn Thủy quân lục chiến từ đâu đến nắm lấy tay tui nói lập bập:
- Vậy là em sống rồi. Cố gắng lên.
Hai người bạn cùng khóa Võ Bị của tui đã chạy tới mừng rỡ. Trung uý Đỗ hữu Tùng, là Đại đội trưởng Đại Đội 2 và Trung Uý Nguyễn Đằng Tống, Đại đội trưởng Đại Đội 4 cười nói:
- Mấy ngày nay, tối nào tao với thằng Tùng cũng đứng vái mày chết chỗ nào về chỉ cho biết vì tìm hoài không thấy mày đâu hết.
Tui chợt nhớ lục túi quần, lôi sắp tiền luơng tháng mới lên Trung uý còn nguyên, trao lại cho Tống. Bây giờ tui đã phát âm được, nên nói là không biết trực thăng sẽ tải thương về đâu nên giao lại cho bạn giữ. Tống cười đùa lỡ tao xài hết thì sao. Chừng một giờ sau, một chiếc trực thăng Hoa Kỳ từ Vũng Tàu bay lên, đáp xuống ngoài bãi trống. Đám lính khiên tui ra. Hai xạ thủ trên trực thăng lôi băng -ca nhảy xuống và đẩy tui lên. Những người sống sót của TĐ 4 Thủy quân lục chiến tiếp tục phối hợp với TĐ 5 Nhảy dù vào trận địa lấy xác đồng đội chuyển về làng Bình Giã. Sau này một số đã được xe đưa về an táng bên Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp ở Phước Tuy.
Trên trực thăng, một người lính Mỹ mồi điếu thuốc Malboro đưa vào môi tui với ánh mắt an ủi. Một người nói lớn mình bay về Quân Y viện Vũng Tàu. Tui nói Thank you. Sau này tui nghe mấy người lính bảo, may mà ông đuợc về Quân Y Viện Đại Hàn ở Vủng Tàu. Nếu về Quân Y Viện Cộng hòa, bác sĩ thấy chân ông bị thúi là họ cưa bỏ chân ông rồi, vì thương binh đông quá. Nhớ lại lúc chiều tối ngày 31 tháng 12. Ngày hôm sau tui lên 25 tuổi. Tiểu đoàn tui theo lịnh chuyển quân vào tìm xác phi hành đoàn Trực thăng Hoa Kỳ, bị bắn rớt tối ngày 30.12 khi lên vùng yểm trợ làng Bình Giã, đẩy lui cuộc tấn công nửa đêm về sáng của cộng quân. Do họ bay thấp bắn đuổi theo quân việt cộng.
TĐ4 Thủy quân lục chiến đã bị hai Trung Đoàn 260 và 261 chính quy tân lập, thuộc Sư đoàn 9 do tên Trần Đình Xu chỉ huy bao vây. Sau ba đợt tấn công tiền pháo hậu xung bị đẩy lui, từ sau 16h chiều cho khi trời tối hẳn, chúng tràn ngập phòng tuyến. Tui gom được hơn 10 người ra lịnh vừa bắn vừa ném lựu đạn mở đuờng máu về phía rừng, hướng làng Bình Giả. Lúc chiều khi quỳ bắn tỉa việt cộng, tui đã bị một phát đạn vào bắp chân phải. Tui chỉ thấy một sức mạnh hất mạnh chân tui. Nhưng không thấy đau và cảm thấy máu chảy xuống ấm theo chân phải.
Bấy giờ, tui chạy giữa hai người lính là Hạ sĩ Nguyễn Tú mang máy truyền tin Tiểu đoàn và Nguyễn Văn Khanh máy cấp Đại đội. Vừa sát bìa rừng, tôi nghe một tiếng huỵch và Tú ngã xuống, cùng lúc một sức mạnh đẩy qua đùi phải khiến tui lọang chọang ngã xuống theo. Tú nằm bất động. Tui thấy một nấm đen trước ngực Tú. Tui lay mạnh nhưng Tú đã chết ngay. Tui vội lôi chiếc máy truyền tin ra khỏi lưng Tú và kê súng bắn phá hai phát. Tức thì, tui nghe tiếng chân chạy rầm rập trong ánh lửa đạn xì xèo. Tui vội giấu khẩu súng dưới lưng và nằm giả chết bên Tú.
Một tên việt cộng choàng cây lá ngụy trang xông tới, đạp vào xác Tú rồi nổ mấy phát súng kết liễu. Rồi hắn quay qua phía tui giơ chân đạp vào người tui và nổ một loạt đạn "ân huệ". Một viên đạn tiểu liên K50 trượt qua bên sườn trái của tui làm bỏng da và cháy áo. Tui biết ngay mình đã thoát chết và nằm im chờ đợi. Vừa lúc, tui nghe việt cộng ới ới kêu rút quân, khi phi cơ lên vùng thả trái sáng. Tui không hề thấy đau đớn gì có lẻ do viên đạn đi quá nhanh và tui đang bận tâm đối phó, điều quân.
Độ 15 phút sau, trực thăng đáp xuống phi trường Vũng tàu. Một chiếc xe dodge cứu thương nằm chờ bốc tui lên xe và đóng cửa bít bùng. Một lúc sau, tui thấy xe chậm lại. Bỗng có nhiếu tiếng đập vào khung xe, tui quay nhìn thấy hai bên khung kính lố nhố bóng người đàn bà đập đập hai tay và nói lô nhô. Mãi đến lúc xe dừng lại, cánh cửa mở ra, hai người lính Đại hàn chắc là Y tá, lôi chiếc băng ca ra. Đám đông vợ con lính bu quanh la lớn :" Ai vậy ! Nhận ra ai không?...." Tui giớ tay chào nhưng không nói. Chợt tui thấy Trung sĩ Bình là văn phòng trưởng của Đại đội. Ông không nhận ra tui cứ chồm tới hỏi lớn Ai dzậy ai dzậy!
Tui được nguyên 4,5 người lính y tá Đại hàn chen nhau cô lập đám đông và đưa tui vào phòng cứu cấp. Một cô Điều dưỡng Đại hàn, mang lon Trung uý, mặt tròn xinh xắn, còn khá trẻ bước tới bên cạnh, nói tiếng Anh giọng Đại Hàn:
- Tui là Trung Uý Điều dưỡng Chung Do Lin, Quân Y viện Đại Hàn. Anh biết hôm nay là ngày nào không ?
Tui ra hiệu xin tờ giấy và cây viết, khi nhận được tui chồm dậỳ viết bằng Anh ngữ.
- Tui là Trung Uý Trần Ngọc Toàn, số quân 60A 402 189 thuộc ĐĐ1 TĐ4 Thủy quân lục chiến. Tui bị trúng 3 phát đạn trong trận Bình Giã, vào tối ngày 31 tháng 12 năm 1964 và phải bò trong rừng 3 ngày. Cho tới hôm nay là ngày 3 tháng 1 năm 1965. Xin bác sĩ đừng cưa bỏ chân tui. Cám ơn nhiều lắm.
Trung uý Chung Đo Lin cầm tờ giấy đọc xong nhìn tui cười đẹp như nàng tiên. Một lúc sau, tui nghe tiếng nói lớn vọng từ bên ngòai vào.
- Trời ơi! Trung Uý Toàn còn sống mà tui nhìn không ra ổng.
Tiếng của văn phòng trưởng Đại đội của tui, mãi một lúc sau, một người mắc áo choàng phòng mổ bước vào với Trung uý Chung Do Lin, đến bên tui, nói:
- Tui là Y sĩ Đại Uý Kim Kee Young, tui sẽ lo cho anh. Bây giờ anh sẽ đuợc đưa qua chụp quang tuyến rồi vào phòng mổ. Tui nói thank you a lot.
Sau đó hơn nửa tiếng, khi vào phòng mổ Trung uý Chung Đo Lin, trong áo choàng đã nhanh nhẹn cầm cây que bông gòn và chai thuốc. Tui bị lột trần như nhộng, nàng mạnh tay đổ thuốc khử trùng rồi dùng cây que thọc xuyên qua đùi tui chà rửa. Tui cắn răng chịu đau thấu xương, hai tay tui bám chặt thành giường, đau quá tui lại choàng tay ôm ngang lưng Trung uý Chung Đo Lin, liền bị nàng xòe tay trái theo ngón võ Tae kwon Đo dứ dứ vào mặt tui. Nhưng tui vẫn không buông tay ra, thà chết trong tay người đẹp. Tui mới lên 25 tuổi còn độc thân và liều mạng.
Nửa giờ sau tui được đưa vào phòng lạnh, tuii chỉ bị gây tê mê ở chân, từ đùi xuống. Qua kiếng chiếu trên giường mổ, tui theo dõi thấy Bác sĩ Kim Kee Young cắt bỏ từng phần bắp thịt đùi và bắp chân phải đã bị thối rửa. Bác sĩ Young cho biết tui đã quá may mắn như gặp phép lạ, viên đạn AK bắn xuyên tứ bắp đùi trái sang phải, phá vỡ miệng lớn bằng một bàn tay xoè ra, chỉ cần nhích lên 1 cm là phá vở động mạch chính sẽ làm cho tui mất hết máu và chết trong rừng. Hoặc chỉ nhích xuống một 1cm sẽ làm vỡ xương đùi tui ra khiến tui không bò xa được và sẽ bị cưa bỏ chân nếu sống sót. Tui nghĩ chắc Mẹ tui đã che chở cho tui, tui cũng tin chắc tui chưa tới số chết.
Một năm sau khi trở ra đơn vị, một hôm một người lính cũ của Đại đội tui ghé thăm, anh là Hạ sĩ Nguyễn Hiệp, cha mẹ gốc người Bắc vào đồn điền Cao su Trị Tâm, anh vui vẻ kể. Trong trận Bình Giã anh bị bắn trúng tất cả 12 phát đạn vào người, khi đuợc trực thăng Việt nam chuyển về Quân Y viện Cộng Hoà, anh bị ngất xỉu, mấy người lựa thương tưởng anh chết rồi, nên khiên bỏ vào nhà xác. Do còn nhiều xác chết tồn đọng nên họ bỏ anh gần sát cửa vào. Nửa đêm anh chợt tỉnh dậy, nhìn quanh thấy toàn xác chết, anh ráng sức bò ra cửa về hướng khu điều trị có đèn sáng, mấy người thương binh chợt thấy la hoảng lên có ma và bỏ chạy. Anh cứ bò tới cho đến lúc Y tá xuất hiện và biết anh còn sống nên bỏ lên băng ca khiến vào phòng cấp cứu. Hạ sĩ Nguyễn Hiệp bị việt cộng bắn vào người tất cả 12 viên đạn, nhưng anh không chết vì không trúng chỗ hiểm, số anh chưa chết, nhưng Hiệp được phân loại Phế binh và giải ngũ.
Khi trong phòng mổ tui đuợc một Trung sĩ Đại hàn hiến máu vì dự trữ máu O không còn, máu của tui cho người khác đuợc nhưng chỉ nhận cùng loại máu O.
Đơn vị cho binh nhứt Hoà vào túc trực trong nhà thương chăm sóc tui, tui bảo anh nhờ vợ nấu cơm cho tui ăn thay cơm nhà thương. Khi chân bị băng chặt từ đùi trở xuống, mỗi chiều người đẹp Đại Hàn Trung Uý Chung Đo Lin cám cảnh, cho tui lên xe lăn đẩy lòng vòng dưới vườn hoa, dù Anh ngữ của tui và nàng không đong được nửa cân. Tôi tìm thấy niềm vui và hạnh phúc. Trong khi tui mãi nhớ 122 anh em của Tiểu đoàn 4 Thủy quân lục chiến đã ngã xuống trong trận Bình Giã. Trong số ấy có đến 20 Sĩ quan, với Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Nho, Tiểu đoàn phó Trần Văn Hoán, Đại Đội trường ĐĐ 3 Trịnh Văn Huệ
K17 Võ Bị, Võ văn Song, Nguyễn lương Bằng và Thủ khoa khóa 19 Võ Bị, Võ thành Kháng và Nguyễn Văn Hùng gốc Thiếu sinh quân chưa kịp lãnh luơng... Họ đã chiến đấu vô cùng dũng cảm và làm cho việt cộng phải khiếp sợ Thủy Quân Lục Chiến. Những chiến sĩ vô danh!
Trần Ngọc Toàn.
Lời mở đầu: Năm nay, tôi đã 77 tuổi đời. Quay nhìn lại đoạn đường đã qua, tôi đã tự thống kê với 15 năm đi lính, tất nhiên là lính Việt Nam Cộng Hòa, gần 9 năm tù cộng sản và hơn 20 năm làm việc lao động cho một Xưởng In nhựt báo The Washington Post nhờ vượt biên ngay sau khi ra khỏi Trại Tù vào tháng 3 năm 1984. Khi còn đi làm việc, do phẫn uất trong lòng, tôi cố gói ghém thời gian để tự thực hiện 3 tập Truyện ngắn từ năm 1990 với bút ký “Vào Nơi Gió Cát” và 2 tập truyện ngắn “Vết thương Việt Nam” và “Chiến Tranh và Tình Yêu”. Bên ngoài, tôi thấy xuất hiện khá nhiều Hồi Ký của một số Tướng lãnh và viên chức của thời Việt Nam Cộng Hòa. Tôi chẳng thấy thích thú gì khi đọc những trang giấy chạy tội, không trung thực chỉ nhằm bám víu vào những hư không để cố khỏa lấp câu chửi thậm tệ của cố Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson là “Một bè lũ ác ôn côn đồ”. Thế hệ của chúng tôi lớn lên tại Miền Nam Việt Nam trong một Quốc gia độc lập và dân chủ đầu tiên, sau ngày Thực dân Pháp rút lui và nền quân chủ của Nhà Nguyễn cáo chung. Như nhà văn Trần Hoài Thư đã viết: “Viết về một người cùng thế hệ, cùng nhịp suy nghĩ, cùng con tim rực lửa, và cùng những ngổn ngang trên vai, mà thế hệ chúng ta đã bị gánh, bị chịu đựng, bị lợi dụng… thì thật là một điều hạnh phúc. Nhứt là đối với những người có kinh nghiệm máu và nước mắt như… Hơn thế nữa, có lẽ khác với những người sĩ quan khác, anh đã dành thì giờ viết cho bạn bè, đồng đội hơn là bản thân anh…”
Nhìn thấy thế hệ con cháu của mình lớn lên vô tư ở ngoại quốc, tôi bỗng thấy thích kể chuyện về quảng đời 15 năm quân ngũ để chúng đừng quên số phận của khoảng 300 ngàn chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến chống cộng sản bảo vệ Miền Nam Việt Nam và cả hàng trăm ngàn Thương và Phế binh còn lây lất. Chính nhờ họ chúng mới có được một tương lai tốt đẹp như ngày nay. Hơn thế nữa, tôi có tham vọng muốn chứng minh cái gọi là Quân Đội Nhân Dân Việt Nam mới chính là Quân Ngụy.
.
Thiếu úy non choẹt
Tôi tốt nghiệp ra trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam vào ngày 22 tháng 12 năm 1962, đúng 22 tuổi đời. Tổng Thống Ngô Đình Diệm lên chấp chánh đã cải tổ trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, nguyên là E’cole des Inter-Armes của quân đội Liên hiệp Pháp tại Đà Lạt, thành trường Võ Bị Quốc Gia theo khuôn mẫu của trường West Point Hoa Kỳ. Cơ sở được xây dựng trên ngọn đồi 1515 về phía Tây của thành phố Đà Lạt do viện trợ của Hoa Kỳ. Với chương trình 4 năm Đại học về Khoa học ứng dụng và quân sự từ cấp khinh binh đến cấp Trung và Đại đội trưởng liên Quân chủng, TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM nhằm đào tạo những sĩ quan hiện dịch chuyên nghiệp cho Quân Đội. Bước sang năm thứ 4, do nhu cầu chiến trường, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã đích thân lên chủ tọa lễ mãn khóa cho Khóa 16 chúng tôi. Con số hơn 200 sĩ quan tốt nghiệp đã được phân phối đi Không quân 27 người, Hải quân 15, Nhảy dù 3 với Thủ khoa Bùi Quyền, Thủy Quân Lục Chiến 10 với Á khoa Nguyễn Xuân Phúc sau này nổi danh trong trận tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị, Lực lượng Đặc Biệt, Biệt Động Quân, và các Sư Đoàn Bộ Binh từ Cà Mâu ra đến Huế và Quảng Trị. Chỉ trong vòng 1 năm sau, số tử trận ngoài chiến trường lên đã gần 50 người.
Dù khóa chúng tôi đã được trui rèn thêm ở Trung tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân ở Dục Mỹ trước ngày ra Trường, khi đến đơn vị TQLC tôi cũng không được giao chỉ huy Trung đội. Ít nhất cũng phải 3 tháng mang súng đi theo học nghề từ các Hạ sĩ quan thâm niên vốn xuất thân từ các đơn vị Commando của Pháp.
Dục Mỹ
Tôi thuộc mẫu người phản ứng chậm, theo phân tích tâm lý học. Lần dầu tiên, khi chính thức được làm Trung đội trưởng có hơn 40 Thủy quân lục chiến với một số Hạ sĩ quan và hạ sĩ dày dạn kinh nghiệm chiến trường và đám lính ngổ ngáo, tôi cũng tỏ vẻ mình cũng lì lợm như ai. Trong cuộc hành quân tìm diệt địch ở vùng đồng ruộng Cai Lậy, Mỹ Tho, khi đang chỉ huy dàn quân tiến vào một bìa làng, với tấm bản đồ trên tay, tôi bị một loạt đạn Việt Cộng bắn xối xả về phía mình. Lính tráng đã đồng loạt nằm xuống nấp. Chỉ còn một mình tôi đứng lớ ngớ do phản ứng chậm. Tiếng súng im bặt ngay loạt đạn đầu. Việt cộng chỉ bắn dọa và đánh lạc hướng. Tôi quay nhìn sang bên phải. Người lính gốc Miên nằm dưới mương đã bị trúng đạn. Chiếc nón sắt của anh lật ngửa chứa đầy óc trắng hếu. Khẩu súng Garand vẫn dính trong tay gác trên bờ mương. Máu phun ra ướt cả ống quần phải của tôi. Tôi buột miệng la lớn: “Y tá đâu?” Cùng lúc ý tưởng chạy nhanh qua đầu. Như thế là con người sống chết có số.
Tôi còn đứng như trời trồng đây. Người lính của tôi đã nhanh nhẹn nằm núp xuống mương ngay bên chân phải của tôi. Anh chỉ ló đầu đội chiếc nón sắt. Nếu viên đạn hơi lệch một mi-li-mét cũng khiến cho chiếc nón sắt quay đi. Đằng này, viên đạn trúng ngay giữa tam tinh nên mới đi xuyên qua đầu làm vỡ óc. Trong khi ấy tôi là mục tiêu dễ trúng nhất. Lúc ấy, tôi mới thấy lạnh xương sống. Nhưng từ đó tôi không sợ gì nữa với ý tưởng con người sống chết có số. Sau này, tôi mới biết đám Hạ sĩ quan và lính tráng bảo nhau “Ông Thiếu úy Đà Lạt này chì lắm.” Từ đó, hình như lính tráng theo lệnh của tôi răm rắp. Đúng là thử lửa. Tây nói là Baptême de feu. Cũng từ đó, quả nói không ngoa, tôi đã “Vào sinh ra tử” hơn cả chục lần trong suốt cuộc chiến bảo vệ Miền Nam Tự Do cho đến cả cuộc di tản khốc liệt từ Quảng Trị về đến Hố Nai Biên Hòa vào cuối tháng 4 năm 1975.
Sau này tôi mới biết, qua sách vở của việt cộng sau năm 1975, cộng sản Miền Bắc Việt Nam đã cho bọn việt cộng tập kết năm 1954 vào lại Miền Nam từ năm 1958 cùng với quân chính quy ngoài Bắc. Vũ khí Nga Xô, Trung Cộng, Tiệp Khắc tuồn vào Nam trên bộ lẫn ngoài biển. Từ năm 1962, chúng đã có cả 100 ngàn quân với trang bị AK47, CKC, RPD và B40. Trong khi, Tiểu đoàn 4 Thủy quân lục chiến lâm trận Bình Giã vào cuối năm 1964, lính còn xài súng Garand M1, Carbine M1, súng phóng lựu của Mỹ thời Đệ Nhị Thế Chiến. Thủy quân lục chiến lại là một đơn vị Tổng Trừ Bị tinh nhuệ của Miền Nam. Người ta đã thử hỏi mấy ông Tướng Việt Nam Cộng Hòa biết gì, đã làm gì và chỉ huy mặt trận ra sao. Hay ngù ngờ, tranh giành quyền lực, tham ô nhũng lạm, ăn chơi trác táng, phe đảng nịnh bợ sau ngày Tổng thống Diệm bị hạ sát, bỏ mặc cho lính chết ngoài mặt trận.
Chúng tôi đã đi vào cuộc chiến với tuổi trẻ đầy nhiệt huyết và đầy lãng mạn.
Lãng mạn khi chàng hiệp sĩ xuống núi và túi bị mang đầy lý tưởng. Lý tưởng bảo vệ bờ cõi non sông mang an bình ấm no cho dân chúng. Trong số những người bạn cùng khóa Võ Bị về Thủy quân lục chiến, tôi có người bạn học cùng lớp từ thời học trường Trung học Quang Trung tại Đà Lạt là Trịnh An Thạch. Đầu năm 1963, khi rủ nhau cùng vào trình diện Bộ Tư Lệnh Liên Đoàn Thủy quân lục chiến còn đóng ở Thị Nghè, chúng tôi đồng lòng cùng đi ra đơn vị tác chiến. Không biết Tư lệnh phó Nguyễn Bá Liên nghĩ gì đã chấm Thạch về Tiểu đoàn Yểm Trợ Thủy Bộ ở ngay hậu cứ. Do Trưởng phòng Nhân Viên đã cho chúng tôi chọn đơn vị nhưng không ai đáp ứng nên đã quyết định phân phối theo mẫu tự ABC từ Tiểu đoàn 1 tới TĐ4TQLC. Đi TĐ1 có Trần Văn Hiển, TĐ2 với Nguyễn Văn Kim, Nguyễn Xuân Phúc. Ba chàng chữ T về TĐ4TQLC là Nguyễn Đàng Tống, Đỗ Hữu Tùng và tôi. Thấy vậy, Trịnh An Thạch nhứt quyết xin vào trình diện Tư lệnh phó và xin ra tác chiến. Cuối cùng Thạch được đi TĐ1 với Hiển. Cuối năm 1963, Trịnh An Thạch đã tử trận trong trận chiến ở Tây Ninh lúc mới 23 tuổi với cấp bậc Thiếu úy Trung đội trưởng. Thạch mồ côi cha từ bé và lại là con trai duy nhứt trong gia đình. Đau thương để lại cho Mẹ già. Làm sao có thể để cho sự hy sinh trọn vẹn như thế của Trịnh An Thạch rơi vào quên lãng được. Trong khi ấy, bên Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, chúng tôi mất thêm người bạn cùng khóa là Lý Văn Quảng vẫn còn Thiếu úy độc thân cũng ngã xuống ở mặt trận Tây Ninh. Chúng tôi được tin khi đang tham chiến ở một mặt trận khác. Hồi thời Tổng Thống Diệm ra trường với cấp bậc Thiếu úy, lương bổng sống rất khuây khỏa. Từ hành quân trở về Sài Gòn, chúng tôi còn kéo nhau đi ăn cơm Tây và xem “Ciné”. Sau năm 1963, luơng lãnh ra chỉ đủ ăn. Mặc đã có chiến phục rằn ri rồi lại độc thân. Sau này lên đến Thiếu tá, Trung tá cũng chật vật.
Đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm 1-11-1963
Từ trước ngày 1/11/1963, các khóa Sĩ quan Trừ bị ở Thủ Đức, từ K6 đếnK12 tốt nghiệp cùng lúc với chúng tôi, chưa có quy chế đương nhiên lên Thiếu úy. Vài tháng sau khi chính thức được giao chỉ huy Trung đội, tôi được Trung úy Trần Văn Hoán bổ nhiệm kiêm Đại đội phó. Tuy đã tỏ ra có bản lãnh chỉ huy nhưng do tuổi còn quá trẻ nên tôi vô tư và ham chơi. TQLC vốn là một lực lượng Tổng trừ bị của quân đội. Tiểu đoàn TQLC được tự trị về hành chánh với quân số lên đến 879 tay súng với 4 đại đội tác chiến và Đại dội Chỉ Huy & Hành Chánh. Do đó, nơi nào chiến trường sôi động, ngoài tầm tay của đơn vị địa phương, Tiểu đoàn TQLC được điều động đến để giải quyết mặt trận. Vào đầu năm 1960, đơn vị chúng tôi lội suốt từ Cà Mâu qua Chương Thiện, Bến Tre, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Đồng Tháp Mười lên rừng núi Miền Đông, Pleiku, Kontum, xuống Bình Định, An Khê, Đỗ xá… Sau mỗi cuộc hành quân kéo dài độ 1 tháng, chúng tôi được rút về Hậu cứ để bổ sung, chỉnh trang trong vòng từ 1 đến 2 tuần lễ. Hậu cứ của Tiểu đoàn chúng tôi ở Vũng Tàu nên tha hồ rong chơi. Có khi, chúng tôi cũng được lệnh về nằm ứng chiến trong Trại Thị Nghè. Hễ úng chiến thì bị cấm trại. Tuy nhiên, đến chiều tối, thấy tình hình không có gì, bọn tôi rủ nhau ra phố Sài Gòn. Sài Gòn là Thủ đô Hoa Lệ nên thượng vàng hạ cám đều có đủ. Đi hành quân miết nên tiền bạc cũng rủng rỉnh. Lần nào ghé Sài Gòn tôi cũng mò vào mấy tiệm sách tìm mua sách báo mang theo trên đường hành quân. Ở Hậu cứ tôi cũng có một ngăn tủ sách bề bộn. Một lần, tôi ghé vào tiệm sách Khai Trí, trên đường Lê Lợi. Bước vào cửa tôi giật mình khi chợt nhận ra cô nàng Isabelle ĐTTM ngồi chễm chệ sau quầy tính tiền. Vào những năm 56, 57 ở Đà Lạt, trên đường cuốc bộ đến trường, tôi thường gặp một cô nàng gầy mong manh, có khi mặc áo dài, cỡi xe đạp về hướng trường Lycée Yersin, trên con đường bờ hồ. Cũng đôi lần, tôi tinh nghịch vờ chăm chú đọc bài trong tập vở để bước thẳng vào đầu xe đạp khiến cô nàng la oai oái. Về sau, mấy đứa bạn học bên Lycée mới cho biết tên là Isabelle ĐTTM. Lần này, tôi chọn xong một mớ sách báo rồi mang đến quầy trả tiền. Tôi nhìn thẳng vào mắt cô nàng hỏi:
• “Có biết tôi là ai không” Cô nàng tròn xoe hai mắt lúng túng: Dạ, dạ không”
• Tôi là người mấy lần xuýt bị cô đụng xe đạp trên đường bờ hồ Đà Lạt đây.
• Thế à. Tôi không nhớ.
• Thế thì tốt rồi. Bây giờ, tôi mới hành quân về. Túi không có tiền. Cô cho tôi nợ lần sau tôi trả.
Cô nàng há hốc nhìn tôi lấm lét xanh da mặt ú ớ không nói được gì. Tôi bảo: Isabelle cho tôi cái túi. Nàng ta líu ríu làm theo. Tôi túm hết sách báo bỏ vào rồi quay ngoắt bước ra cửa. Nhìn lại, tôi thấy nàng ta đứng trố mắt nhìn theo. Tôi bật cười quay lại móc túi lấy tiền trả và nói: “Đùa nghịch tí thôi”. Lúc ấy cô nàng đang làm Chiêu đãi viên Hàng Không Quốc Ngoại. Khi nào rỗi ra ngồi chơi ở Nhà Sách Khai Trí. Nào ngờ sau này nàng ta thành phu nhân của Tướng Nguyễn Cao Kỳ xa vời vợi. Có lần, ba đứa bạn cùng khóa Võ Bị ở cùng Tiểu đoàn rủ nhau đi ăn trên Chợ Lớn. Nửa khuya, đón xe Taxi con cóc hiệu Renault về Trại gặp chàng tài xế trẻ biểu diễn chạy bằng hai bánh trên Đại lộ Trần Hưng Đạo vắng xe. Chàng tăng tốc độ rồi lách mạnh tay lái cho chiếc xe nghiêng hẳn một bên và tiếp tục chạy cả vài trăm thước. Nào ngờ xe Cảnh sát lưu thông bất chợt xuất hiện hú còi inh ỏi. Bọn tôi phải làm mặt ngầu mới cứu được anh tài xế trẻ.
Những ngày vui của chúng tôi tuy vậy rất ngắn ngủi. Miệt mài ở các mặt trận ngày đêm. Lúc ấy, bọn việt cộng còn đang tránh né để tái tổ chức nên cũng chỉ đánh nhau lẻ tẻ với bọn du kích trong xa xôi. Thiệt hại và tổn thất thường do bắn sẻ, mìn gài, hầm chông và bẫy sập. Đi hành quân Miền Tây tuy phải lội sình lầy ướt quần áo suốt ngày nhưng khi dừng quân có thức ăn đầy đủ và không đánh lớn. Ra Miền Trung mới thấy khổ. Tìm thức ăn không ra mà gặp việt cộng là đánh lớn. Vào hạ tuần tháng 10 năm 1963, Tiểu doàn chúng tôi được về Hậu cứ Vũng Tàu sau những ngày lặn lội ở Bến Tre. Mới được một tuần xả hơi, bỗng có lệnh hành quân về Miền Đông. Sáng sớm ngày hôm sau, đoàn xe vận tải từ Quân đoàn 3 để xếp hàng dài trước cổng Trại. Thày trò chúng tôi lục tục lên xe. Gia đình binh sĩ, như thường lệ, chạy ra đứng đầy hai bên đường. Thấy mà lòng thương xót. Kiểm điểm xong quân số là đoàn xe lăn bánh. Quân số tham chiến buộc phải trên 70%. Chuyến đi nào cũng thấy gay go nhưng cũng mặc. Thủy Quân Lục Chiến mà. Đến xế chiều, đoàn xe dừng lại ở một khu vườn cao su bát ngát ở Lai Khê. Lệnh cho xuống đóng quân qua đêm. Dàn quân và bố trí xong là lo đào hầm hố cá nhân phòng thủ. Trọn một ngày sau cũng yên tĩnh.
Tôi nằm đong đưa trên chiếc võng nhà binh đọc sách. Nghe nói Tiểu đoàn trưởng đang họp với các Đại đội trưởng. Rạng sáng ngày 1 tháng 11 năm 1963, lệnh cho thu xếp lên xe về Sài Gòn chống đảo chánh. Nghe nói về Sài Gòn lính tráng cười nói hể hả. Tôi in trí như thế. Quân đội chỉ làm theo lệnh thôi. Không thắc mắc. Đoàn xe về đến Xa lộ Biên Hòa vào trạm kiểm soát Cầu Xa lộ đã có ngay Quân cảnh dẫn đường. Thế là đúng rồi. Chắc có đám nào muốn đảo chánh theo chân Tướng Nguyễn Chánh Thi đây. Chống đảo chánh lại là phe ta đánh phe ta mới khó xử. Đoàn xe chạy một lèo đến Ngã Bảy Chợ Lớn rồi quẹo đường Cộng Hòa. Đoàn xe bỗng dừng lại ngay trước Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia. Chưa biết chuyện gì đã thấy từ ngoài vào trong Cảnh sát bỏ chạy không còn một mống.
Đám lính ào ào nhảy xuống xe chạy vào Tổng Nha Cảnh Sát trước những cặp mắt ngơ ngác của dân chúng ngoài phố. Tôi nhảy xuống xe, sốc lại dây ba chạc mang khẩu Colt 45 rồi bất đắc dĩ đi vào cổng Trại. Vừa ngang sân cờ, Binh Nhứt Sơn, đệ tử của tôi hớn hở chạy ra miệng nói lép xép: “Thiếu úy ơi, em mới lấy được khẩu ru-lô trong phòng ông Đại tá Y nè. Còn nguyên si hết à”
- “Đâu dắt tao vô coi.” Doanh trại không còn một bóng người. Văn phòng của Đại tá Tổng Giám Đốc Nguyễn Văn Y còn nguyên vẹn với bảng tên trên bàn giấy. Tôi quay qua đám lính la lớn: “Không được lấy đồ của người ta. Ra tập họp hết bên ngoài.” Quay tìm ông Hạ sĩ quan Trung Đội phó “Trung sĩ nhất Lý Pit đâu, tập họp lại, chia các vọng gác ngoài cổng chính ngay”. Tôi mường tượng chuyện gì không ổn đang xảy ra. Đại đội trưởng chỉ vắn tắt: Mình chiếm giữ Tổng Nha Cảnh sát. Tôi nghĩ không lẽ mình làm đảo chánh. Ngay sau đó, chúng tôi được lịnh tiến quân theo dọc hai bên đường Cống Quỳnh tiến ra bùng binh bến xe buýt để nhận lệnh. Lính TQLC với ba-lô và súng cầm tay đi hai hàng dọc trong kỷ luật. Khi vừa tới bến xe buýt, tôi vượt lên chợt nhìn ra Đại tá Nguyễn Văn Thiệu, trong bộ ka-ki vàng với nón hét [cap] mang cành lá liễu cấp tá, đứng bên cạnh chiếc xe Jeep nói chuyện với Đại úy Lê Hằng Minh là Tiểu đoàn trưởng của tôi. Vừa lúc tôi nghe thoáng là TQLC phải chờ Thiết giáp của Đại úy Lý Tòng Bá đến mới đánh vào dinh Gia Long. Lúc ấy vào khoảng 13 giờ trưa ngày 1 tháng 11 năm 1963. Tôi chợt nghĩ ra là mình đang tham gia đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Cũng vào tháng 11 năm 1960, trong trường Võ Bị, tôi đang làm Sinh viên sĩ quan Trực Liên Đoàn. Lúc ấy, Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh Nhảy Dù, làm đảo chánh. Trường ra lệnh cấm trại ứng chiến. Tôi gặp ông Thi khi còn là Trung úy, năm 1953, trong Liên đoàn Ngự Lâm Quân của Bảo Đại trên thành phố Đà Lạt. Sau đó, nhờ kéo quân về ủng hộ Tổng Thống Diệm đã được thăng nhanh lên tới Đại tá và được giao làm Tư lệnh một lực lượng thiện chiến tín cẩn là Nhảy Dù. Qua một đêm nằm khèo nghe đài phát thanh Sài Gòn tôi cũng không hiểu ất giáp như thế nào. Sáng hôm sau, nhằm ngày Thứ Hai, tôi được lệnh điều khiển lễ Chào Cờ của Liên Đoàn SVSQ. Tự nhiên, tôi tuyên bố hôm nay chào cờ không hát bài Suy tôn Ngô Tổng Thống. Và Liên đoàn chỉ hát Quốc Ca rồi tan hàng. Gần đến trưa hôm ấy, một chiếc xe jeep An Ninh Quân Đội vào Trại rước tôi ra trình diện Trưởng Ty. Đến nơi, nào ngờ tôi gặp Đại úy Hợi là người quen trong gia đình. Ông làm mặt giận đập bàn la lớn: “Ai cho lịnh mi không hát bài Suy tôn Ngô Tổng Thống” “Dạ không có ai hết. Tại nghe radio thấy đảo chánh nên đã không cho hát thôi.” “Răng mi ngu rứa. Mi có muốn ra Trung sĩ không?” Ông còn la lối nhiều nữa nhưng rồi cuối cùng ông điểm mặt nói: “Mi liệu hồn đó. Thôi về đi” Tôi mừng hết lớn đi vội ra xe về Trường. Bây giờ tôi làm đảo chánh. Lỡ thua chắc không biết có phải chạy sang Miên không.
Ngay khi xe thiết giáp chưa tới chúng tôi được lịnh tiến về phía đường Công Lý và Lê Thánh Tôn để đánh vào dinh Gia Long. Trung úy Trần Văn Hoán, Đại đội trưởng cho lệnh khẩu súng không giật 57ly tiến lên. Phát 57ly phá tung một lỗ hỏng ngay góc Công Lý-Lê Thánh Tôn. Lính TQLC chạy ào qua đường vượt vào tường cao. Bên trong có vài phát đạn bắn ra lẻ tẻ nhưng TQLC không bắn trả. Chỉ trong chưa đầy nửa giờ, TĐ4TQLC đã hoàn toàn chế ngự dinh Gia Long. Khi tiến vào phía sau sân dinh tôi thấy lính đang lùa một số quân nhân trong Liên binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống ra ngoài. Tôi chợt nhận ra ông Thầy cũ trong Trường Võ Bị là Thiếu tá Huỳnh Văn Lạc. Sau này ông lên Tướng làm Tư Lệnh SĐ9/BB. Tôi vội chạy tới đưa tay chào ông và nói lớn cho đám lính TQLC nghe: “Thưa Thiếu tá, tôi là cựu SVSQ khóa 16 đây” Ông giơ tay lên lưng chừng rồi buông thõng xuống với vẻ mặt buồn bã. Tôi không biết làm sao hơn chỉ bảo lính dưới quyền kiếm một chiếc ghế trong nhà ra mời ông ngồi. Ngay sau đó người ta đưa ông đi đâu tôi không biết nhưng lòng tôi thiệt vô cùng xao xuyến như mình vừa phạm một tội lỗi gì đó. Tôi đi theo trông chừng đám lính đang đi xục xạo.
Xuống tầng hầm tôi thấy phòng của Ngô Đình Lệ Thủy đã bị xáo tung lên hết. Có một người lính ôm một dàn máy quay đĩa chạy ngang, tôi nổi điên rút súng la lớn: “Bỏ xuống ngay không tao bắn” Chàng ta vội bỏ xuống chạy lên lầu trên. Hình như họ đã lục lọi đến phòng của bà Nhu. Đảo một vòng thấy không còn người lính nào tôi quay trở lên. Ngay đêm hôm ấy, TĐ2/TQLC đã ra dinh Gia Long bàn giao vị trí. Chúng tôi được chở về Trại Thị Nghè. Ngày hôm sau, nghe nói có phái đoàn Phật giáo xin vào để ủy lạo cho Tiểu đoàn đã có công lật đổ Tổng Thống Diệm nhưng Thiếu tá mới thăng cấp Lê Hằng Minh từ chối. Lòng tôi trăm mối ngổn ngang. Lần đầu tiên, tôi nằm lặng trên võng suy nghĩ về thế sự. Từ đó, tôi không còn vô tư nữa. Cho đến ngày phải buông súng tức tưởi. Sau đó, chỉ còn bọn cầm súng chiến đấu ngoài mặt trận phải trải máu và xương để chống lại bọn cộng sản.
Cố Vấn TQLC Hoa Kỳ
Hồi năm 1963, tôi nghe nói Đại úy Thủy quân lục chiến Huê Kỳ làm Cố vấn cho TĐ4/TQLC đã bị tử thương khi về nghỉ ở Khách sạn Majestic, Sài Gòn khi nơi này bị VC đặt bom nổ. Về sau, khi hành quân ở Tầm Vu, Vĩnh Long, tôi thấy anh chàng Cố Vấn hớt hãi chạy về Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn nói: “Thật khủng khiếp quá” “Tao thấy lính của tụi mày treo ngược một con chó trên cành cây rồi cầm lưỡi lê cắt cổ nó. Dã man quá!” Chúng tôi chỉ cười không nói gì khiến chàng ta càng bực tức. Do cuộc hành quân đã kéo dài cả hơn tuần lễ nên thức ăn cũng thiếu thốn, ngay cả với Tiểu đoàn trưởng và Cố Vấn Mỹ. Nên chiều tối hôm ấy, bữa ăn của Thiếu tá Minh và Cố Vấn có thêm món thịt ngon miệng do mấy đệ tử dọn lên. Mãi đến khi ăn xong, chúng tôi mới tinh nghịch hỏi chàng Cố Vấn: “Hôm nay, ông ăn thịt thấy ngon không” “Thiệt quá ngon” “Thế ông có biết thịt gì không?” Chàng lắc đầu mở to mắt nhìn chờ câu trả lời. “Thì thịt con chó ông thấy tụi lính treo cổ đó.” Thế là chàng ta chạy ra sau hiên nhà móc cổ moi họng ọe cho ra. Nhưng vô hiệu. Chắc là kỷ niệm khó quên cho một nhiệm kỳ tham chiến ở Việt Nam.
Thiệt ra, từ nhỏ tôi đã được học lịch sử Việt Nam tới nơi tới chốn ở trường Việt nên tôi ghét Tàu và Pháp thậm tệ. Tất nhiên, tôi cũng không thích người Mỹ vì họ cũng là người ngoại quốc. “… Một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây”. Ý thức bài ngoại như đã ăn sâu trong tâm trí của tôi. Thế hệ trước tôi rất sính nói tiếng Tây. Tôi nghe mấy ông Tướng chỉ nói chuyện với nhau bằng tiếng Tây. Có khi là tiếng Tây Bồi. Lớp chúng tôi chỉ học lý thuyết tiếng Anh. Còn nói được chẳng có mấy người, trước năm 1963. Nhờ hồi còn học Trung học Việt, tôi theo chân đứa bạn vào học lớp Anh Văn của một ông Mục sư Tin Lành giảng dậy nên tôi cũng lắp bắp được. Trong binh chủng TQLC nhờ thường xuyên gởi SQ sang Mỹ du học ở khóa Basic, tại Quantico, Virginia nên có nhiều người liên lạc được với Cố Vấn Mỹ. Các SQ Hoa Kỳ sau khi tốt nghiệp Trường Võ Bị Hải Quân Annapolis, tại Maryland, hay từ ROTC chuyển sang TQLC đều phải trải qua khóa Basic School tại Quantico, Virginia. Đa số SQ Quân đội HK không biết gì nhiều về Việt Nam khi họ sang tham chiến. Từ sau cuộc chiến thắng quân Trục Đức và Nhựt, họ tới Việt Nam với lòng đầy cao ngạo và nghĩ chẳng bao lâu sẽ dẹp tan “Đám dân quân du lích mặc xà lỏn đi chân trần trốn chui trốn nhủi như hình ảnh mô tả trên Truyền Hình Hoa Kỳ”. Mãi cho đến ngày lâm trận Bình Giả, 31/12/1964, tôi mới có kỷ niệm sâu sắc về người SQ Cố Vấn TQLC Hoa Kỳ.
https://imgv2-1-f.scribdassets.com/img/document/48189651/original/b5df58ffde/1546385676?v=1
Người Bạn Mỹ đầu tiên, cho đến nay, vẫn còn liên lạc là Trung úy Phil O Brady. Sau cùng anh lên Đại úy tại mặt trận Bình Giã rồi giải ngũ. Gần cuối năm 1964, khi tôi làm Đại đội trưởng ĐĐ1 của TĐ4 TQLC, Cố Vấn Mỹ là Đại úy Frank Pete Eller. Nhân một ngày đem Đại đội ra ứng chiến tại Phi trường Biên Hòa, tôi được Cố vấn đưa đi theo một anh chàng Trung úy TQLC/HK cao to hơn tôi cả cái đầu. Lúc ấy tôi còn mang lon Thiếu úy. Chàng ta đến gặp tôi với vẻ mặt nghiêm nghị và tự xưng “Tao là Trung úy Brady, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ.” Tôi đưa tay chào và nói “Tao là Thiếu úy Toàn.” Thế thôi. Theo thói thường khi đi hành quân, xuống đoàn xe tải, thầy trò chúng tôi cứ kéo nhau đi ngổn ngang trên phi trường. Chợt Trung úy Brady chạy tới nói lớn với tôi: “Sao mày không tập họp Đại đội rồi đi đều bước đàng hoàng mà để lính đi lộn xộn như vậy.” Tôi nổi nóng định xì nẹt nó một trận nhưng nghĩ lại không nói gì mà chỉ cười khẩy. Tôi thầm nghĩ thằng này mới ra Trường đâu biết gì. Không hiểu sao, từ đó chàng ta thích tìm tôi nói chuyện. Lúc ấy, tôi mới nói với chàng ta rằng tao cũng xuất thân từ trường Võ Bị Quốc Gia và cũng đã từng đi diễn hành ở Sài Gòn nhiều lần. Cơ bản thao diễn là nghề của tao mà. Tao đi chiến đấu đã gần 2 năm rồi. Nếu mày thắc mắc gì cứ hỏi tao, OK. Điều quan trọng nhứt là từ nay mày cố giữ liên lạc với Quân Đội Mỹ để yểm trợ và tải thương cho tụi tao thay vì bắn lầm vào quân bạn.
Có một hôm, sau khi đi lòng vòng thăm chỗ đóng quân, Brady ghé đến chỗ tôi nói: “Tao đi lòng vòng thấy tụi lính đứa nào cũng ôm một chiếc Radio nghe nhạc gì tao không biết. Tao nghe tiếng e é lên xuống trầm bổng.” Tôi cố gắng giải thích: “Chắc mày thấy tụi nó nghe Cải Lương Vọng cổ đó. Giống như Mỹ nghe Country Music đó mà”. Ba-lô của Brady lúc nào cũng đầy các thức ăn lạnh và đồ hộp Mỹ với chai rượu Whisky mỏng dẹp. Cho đến ngày Tiểu đoàn chúng tôi nhảy Trực thăng vào mặt trận Bình Giã, Phước Tuy. Brady hầu như không rời tôi một bước. Có khi, tôi nói nửa đùa nửa thật: “Mày cao lớn quá, lại mang theo máy truyền tin gắn ăng-ten cao ngồng nên tránh xa tao ra, không lỡ việt cộng bắn sẻ trúng tao đó.” Sau khi Thiếu tá Eller, cố vấn trưởng bị trúng đạn lúc tiến quân vào rừng Cao su Long Giao, Phil Brady lên thay thế. Chàng đã nhanh chân chạy thoát khỏi trận địa vào ngày 31/12/1964. Trở ra làng Bình Giã, chàng đã cố gắng phối hợp quân bạn để lập lại chủ động trên chiến trường cũng như tản thương những người lính sống sót. Chàng cũng đã liều lĩnh theo chân quân bạn trở vào chiến địa tìm tôi nhưng không kết quả. Bởi 3 ngày sau, tôi mới một mình bò về lại làng Bình Giã với 3 vết đạn thù trên ngực và chân phải. Trong khi ấy, Brady được gọi về Sài Gòn để được trao tặng huy chương Silver Star với chữ V và thăng cấp Đại úy. Tôi cũng mới được đương nhiên lên Trung úy ngày 22/12/1964 sau 2 năm ra Trường.
Hết nhiệm kỳ 1 năm, Brady xin giải ngũ. Ngay sau đó, chàng ta xin trở lại VN làm việc cho USAID rồi phóng viên cho hệ thống truyền hình NBC của Hoa Kỳ. Chàng còn lập gia đình với một cô gái Bình Dương và chung sống cho mãi tới nay. Sau này, vào năm 1972, khi theo học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu của TQLCHK, tại Quantico, Virginia, tôi được mời dự cuộc họp mặt của các cựu Cố Vấn TQLC/HK tại Woodbridge, VA. Từ đó, tôi mới biết thêm về ý nghĩ của các SQ đã từng làm Cố vấn cho TQLC/VN. Với họ, chúng tôi đối xử không thân thiện như các quân binh chủng khác và thậm chí còn thù nghịch nữa. Như trường hợp Đại tá Nguyễn Thành Yên, Thiếu tá Hồ Quang Lịch cầm súng rượt đánh CV Mỹ vì không làm theo yêu cầu tản thương cho lính dưới quyền. Đại tá Nguyễn Thế Luơng bỏ đói Cố Vấn. Trung tá Đỗ Hữu Tùng đuổi Cố vấn Mỹ về lại Sài Gòn, v.v. Tôi đã phải cố soạn một bài viết ngắn để lên diễn đàn giải thích cho họ hiểu và được vỗ tay tán thưởng nồng nhiệt khi tôi lấy trường hợp của tôi với Phil Brady. Cho đến nay, trong số hơn 100 SQTQ/LC Hoa Kỳ đã từng làm Cố Vấn đã có 52 người lên Tướng của Quân Đội Hoa Kỳ. Trong số có Đại Tướng Boomer và Đại Tướng Joe Hoar.
Trong suốt cuộc chiến Việt nam, từ năm 1960 đến 75, nhờ Phái Bộ Cố Vấn TQLC Hoa Kỳ sát cận nên chúng tôi luôn nhận viện trợ trực tiếp của TQLC Hoa Kỳ, vốn là một binh chủng lừng danh. Nguồn tiếp vận không qua tay Bộ Tổng Tham Mưu của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Tuy nhiên, đối với Quân Đội Hoa Kỳ, ngân sách của TQLC nằm trong Bộ Hải Quân và tương đối nhỏ so với Lực lượng Hải Quân. Dù sao, nguồn tài trợ hay quân dụng và quân cụ cũng không bị thất thoát qua guồng máy tham nhũng. Người Cố Vấn TQLC/HK sau cùng của tôi là Trung tá Joey Strickland. Thực ra Strickland cũng không phải là CV mà là bạn học cùng khóa Chỉ Huy và Tham Mưu TQLC Hoa Kỳ, tại Quantico, VA, với tôi. Sau ngày mãn khóa, Joey tình nguyện sang phục vụ bên Việt Nam. Strickland nguyên là Tiểu đoàn trưởng Trinh Sát của TQLC/HK. Năm 1973, Strickland đảm nhận công tác trong phái bộ Quốc Phòng Huê Kỳ bên cạnh Sư đoàn Thủy quân lục chiến Việt Nam, đương nhiên là Cố Vấn làm việc trực tiếp với Tư Lệnh Sư đoàn Thủy quân lục Chiến. Lúc ấy, hệ thống Cố Vấn Hoa Kỳ đã giải tán trong kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh cho Mỹ rút quân.
Khi ra thăm Thủy quân lục chiến trấn đóng ngoài Quảng Trị, Strickland đã một mình tìm ra tận nơi đóng quân của TĐ4/TQLC ở Chợ Cạn để gặp tôi. Do tình bạn đã hình thành khi học trong Trường, chúng tôi khá thân với nhau. Sau năm 1975, nhờ Strickland tôi mới còn có được một số hình ảnh chụp ngoài chiến trường Quảng Trị. Tôi đã thẳng thắn cho Strickland biết rõ tình hình mặt trận. Ngược lại, Srickland cũng không ngại cho biết về tình hình chánh trị bên Mỹ và cuộc rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam. Dù sao, tôi cũng không tin cộng sản có thể dễ dàng tiến chiếm Miền Nam như đã xảy ra. Chúng tôi cũng sẽ đánh nhau tới cùng. Vào tháng 10 năm 1974, Strickland được triệu hồi về Mỹ. Trước ngày về nước, Strickland thu xếp ghé thăm tôi và khuyến cáo tôi nên lo cho gia đình vì chắc chắn Mỹ sẽ bỏ Việt Nam. Tôi không làm gì được vì trong tay còn trách nhiệm cả gần 800 tay súng. Bạn bè chúng tôi cũng trao đổi rằng nếu cùng lắm sẽ phải tử thủ Miền Tây Nam Phần của VN. Tất cả đều tan trong mây khói.
Sang Mỹ, sau chuyến vượt biên vào tháng 5 năm 1984 đến Galang, tôi được gặp lại Joey Strickland trong một chương trình 20/20 của ABC vào năm 1986 khi họ làm một phóng sự về các cựu chiến binh sống sót sau cuộc chiến Việt nam. Từ Hawai, lúc đang dạy học ở một trường Đại Học Strickland bay qua Virginia và trao cho tôi một chiến phục Thủy quân lục chiến Việt Nam với đầy đủ huy hiệu. Strickland cho biết khi trở về làm việc tại Bộ Tư Lệnh Thủy quân lục chiến Huê Kỳ tại Hoa Thịnh Đốn đã nghe tin Miền Nam thất thủ, vào khoảng tháng 5 năm 1975, từ viên Trung tá Thủy quân lục chiến Huê Kỳ bàn giao chức vụ ở Việt Nam. Về nước, ông này còn được thăng lên Đại tá. Tức giận về việc cả hàng trăm ngàn chiến binh Việt Nam bị bỏ rơi, Strickland xin giải ngũ và về Hawaii đi học lại. Strickland dò hỏi tin tức về tôi và nghe nói tôi đã tự tử vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Trong suốt cuộc chiến, tôi chỉ có 2 người bạn Mỹ đúng nghĩa bạn là Phil Brady và Joey Strickland.
Ngày nay, tại Viện Bảo Tàng của TQLC Hoa Kỳ, trong căn cứ Quantico, tại Virginia, Tổ chức thân hữu cựu Cố Vấn Hoa Kỳ đã trưng bày khá nhiều di vật quý giá của binh chủng TQLC Việt Nam cho các du khách thăm viếng. Một vị Trung tướng nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ tại Okinawa đã đọc một bài diễn văn bằng tiếng Việt, trong một Đại Hội Thủy quân lục chiến Việt Nam, tại vùng Phụ Cận Hoa Thịnh Đốn. Tướng Smith nói rằng ông rất cảm phục tinh thần và khả năng chiến đấu của Thủy quân lục chiến Việt Nam và ông đã học hỏi rất nhiều từ các cấp chỉ huy khi ông làm Cố Vấn trên chiến trường. Hầu như, ngày nay, các Tướng Lãnh của Hoa Kỳ đều đã từng tham chiến tại Việt Nam. Nhiều giải huy chương của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn trên ngực áo Đại lễ của họ. Dù sao, Quân Đội Hoa Kỳ cũng đã tổn thất hơn 58 ngàn quân sĩ trong cuộc chiến bảo vệ Miền Nam Việt Nam. Nhưng đến nay, dưới mắt tôi, Hoa Kỳ vẫn chưa rút ra một bài học đáng giá tại Việt Nam với hơn 58 ngàn quân lính ngoài chiến địa!
Mũ Xanh Trần Ngọc Toàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét