Liên quân Việt-Mỹ, chiến lược phòng thủ ở biên giới - Phòng tuyến hỏa lực-điện tử liên quân Việt-Mỹ dọc Bến Hải. Trong các số trước, VB đã tường trình một số cuộc hành quân thủy bộ của Liên quân Việt Mỹ vào các năm 1966 và 1967 nhằm ngăn chận các cuộc xâm nhập của CSBV theo đường biển và đường sông. Tuy nhiên các nỗ lực của lực lượng thủy bộ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa chưa triệt tiêu được toàn bộ hoạt động thủy-hải vận của địch quân do Cam Bốt đã để cho Cộng Sản bắc Việt dùng hải cảng Sihanoukville như là một quân cảng trung chuyển vũ khí, đạn dược, quân dụng, lương thực và thuốc men do Hoa Lục cung cấp để từ đây phân phối cho các đơn vị cộng quân đóng quân dọc theo biên giới trên phần đất Cam Bốt.
<!>
Như đã trình bày, trong thời gian giữ chức vụ tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại VN từ 1964-1968, đại tướng Westmoreland đã nhiều lần đề nghị với chánh phủ Hoa Kỳ cho phép ông được quyền dùng lực lượng Hoa Kỳ để phối hợp với Quân đội Việt Nam Cộng Hòa mở các tấn công Cộng Sản Bắc Việt ( csbv)dọc theo biên giới Việt-Căm Bốt, cũng như quyền dùng Không quân tiến hành các cuộc oanh kích, không tập triệt hạ các căn cứ địa của CSBV trên đất Cam Bốt, nhưng các đề nghị của đại tướng Westmoreland đã không được sự đồng ý từ Hoa Thịnh Đốn. Thể theo yêu cầu của một số đông bạn đọc, VB xin lược trình một số sự kiện đặc biệt liên quan đến chiến lược phòng thủ biên giới ở phía Tây Nam phần của Liên quân Việt-Mỹ trong thời gian từ 1965-1968.
* Thông tin của Phòng Tình Báo bộ Tư lịnh Lực lượng Huê Kỳ tại VN về hoạt động của CSBV trên đất Căm Bốt:
Ngày 28 tháng 4/1965, trong khi rượt theo oanh kích CQ, phi cơ của Không quân Việt-Mỹ đã thả bom nhầm vào một làng Cam Bốt. Ngày 3 tháng 5/1965, Quốc trưởng Cam Bốt là hoàng thân Sihanouk đã gửi giác thư cho chánh phủ Hoa Kỳ và quyết định đoạn giao. Sau đó, theo các lời tuyên bố của vị quốc trưởng này, cho thấy Nam Vang thiên về Hà Nội. Vũ khí từ Hoa Lục từ lâu đã đổ vào nước này khá nhiều, cho đến giữa năm 1965, thì trưởng phòng Tình báo của bộ Tư lịnh Hoa Kỳ tại Việt Nam là thiếu tướng Joseph A. MC Christian cho biết trên lãnh thổ Cam Bốt có ít nhứt 7 căn cứ của quân CSBV. Tướng Christian có đầy đủ bằng chứng về các chuyến chở vũ khí và hàng tiếp tế của CSBV đến hải cảng Sihanoukville để vào lãnh thổ Cam Bốt. Cũng có một số hàng của một số thương gia ngược dòng Cửu Long lên Nam Vang để bán cho CSBV, trong đó gạo chiếm khoảng chừng 55 ngàn tấn/mỗi năm. Ngoài ra CSBV còn mua lúa trực tiếp từ nông dân Cam Bốt số lượng gấp đôi con số mua của các thương gia.
Trước thực trạng nói trên, theo đại tướng Westmoreland, nếu nói rằng Sihanouk tiếp tay với CSBV cũng được mà cho rằng ông ta làm ngơ cho CSBV tha hồ hoạt động cũng được. Kết quả đều giống nhau là nhiều khu vực trên đất Cam Bốt trở thành căn cứ địa của CSBV để địch quân tiến hành các cuộc tấn công vào miền Nam Việt Nam.
Huê Kỳ và Hải quân VNCH bằng mọi nỗ lực đã ngăn chận các cuộc xâm nhập của CSBV từ biển vào. Ngoài ra, Lực lượng Đặc biệt Việt-Mỹ đã tăng cường các hoạt động triệt tiêu cường lực địch trên đường mòn hồ chí minh, nhiều trạm trung chuyển hậu cần của CSBV trên con đường chiến lược này đã bị Liên quân Việt-Mỹ phá hủy, khiến cho đường dây tiếp tế của cộng quân từ Bắc vào Nam bị gián đoán ở mức độ nghiêm trọng. Qua đến tháng 12/1966, trưởng phòng Tình báo Christian đã báo cáo: Những vấn đề về tiếp tế, nhất là lúa gạo cùng sự phân phối nội bộ của địch dường như đang gặp bế tắc trầm trọng. Nhưng nếu có căn cứ trên đất Cam Bốt thì địch rút về đó để dưỡng quân, tái huấn luyện và củng cố lực lượng một cách tự do để rồi chuẩn bị cho các cuộc tấn công.
* Kế hoạch của đại tướng Westmoreland:
Trong thời gian giữ chức vụ tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại VN (1964-1968), đại tướng Westmoreland xin được phép tiến hành các cuộc hành quân trên bộ hay ít ra được thực hiện các cuộc oanh kích trên đất Cam Bốt để tiêu diệt các căn cứ của CSBV hay để rượt theo địch khi đối phương phân tán mỏng rồi vượt biên giới về lại trên đất Cam Bốt, nếu cần dùng B 52 hay hỏa lực Pháo binh san bằng các căn cứ đó. Như vậy, chắc chắn tránh được lằn đạn địch bắn từ Cam Bốt sang. Vào khoảng đầu tháng 4/1966, đại tướng Westmoreland yêu cầu rõ rằng cần được phép để tiến quân vào khu vực rừng rậm của Căm Bốt ít nhứt năm ba cây số, cắt đứt đường liên lạc của địch và giăng bẫy chận đánh CSBV xâm nhập vào miền Nam sau dãy núi Chu Pong. Tướng Westmoreland cũng đề nghị CIA mua hết số vũ khí và lúa gạo mà dân chúng Cam Bốt để Việt Cộng không có lương thực. (Đại tướng Westmoreland và lực lượng Hoa Kỳ thường gọi lực lượng CQ thành lập tại Miền Nam là Việt Cộng, còn cộng quân từ Bắc xâm nhập vào là quân Bắc Việt).
Tuy ý kiến của đại tướng Westmorealand được bộ Tham mưu Liên quân Huê Kỳ tán đồng và hậu thuẫn nhưng phía bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ lại bác bỏ thẳng thừng, kể cả ý kiến chận ngay sau chân núi Chu Phong. Vậy là chỉ còn một cách có thể làm được là chờ khi nào có gió lớn thổi về phía Cam Bốt, Liên quân Việt-Mỹ thả truyền đơn dọc theo biên giới cho bay về bên đó. Chủ trương của bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ là muốn lấy lòng Sihanouk, nhưng theo đại tướng Westmoreland thì Liên quân Việt-Mỹ thừa sức đánh thắng CSBV trên đất Cam Bốt mà không cần đến sự ủng hộ của vị hoàng thân này.
Đại tướng Westmoreland kể lại rằng vào cuối năm 1967, bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã sắp xếp để bà quả phụ John F. Kennedy sang thăm Cam Bốt với tư cách là du khách đến viếng khu Đế Thiên Đế Thích. Cử chỉ này theo nhận xét của đại tướng Westmoreland là thiệt quá ngây thơ, vị đại tướng này đã ghi lại như sau: Huê Kỳ o bế như vậy mà Sihanouk còn vênh mặt lên. Đã vậy bộ Ngoại Giao còn vuốt ve ông ta, thà chịu để việt cộng dùng đất Cam Bốt hơn là chọc ông ta giận. Tui thấy có điều gì phải bận tâm khi đánh vào các khu vực không có dân cư dọc theo biên giới mà địch dùng làm cứ điểm an toàn mở những cuộc tấn công từ đất Cam Bốt qua, tương tự như từ bên Lào vậy. Có một số người Mỹ ngớ ngẫn cho rằng việt cộng không bao giờ dùng lãnh thổ Cam Bốt để trú thân. Năm 1966, nhiều phóng viên Mỹ sang thăm đất Chùa Tháp theo lời mời của Hoàng thân Sihanouk. Nhóm này tự nhận là nhóm đi riêng nhưng gồm nhiều quan sát viên quân sự. Không ai trong nhóm này nhìn thấy việt cộng. Hổ thẹn hơn nữa là ngay cả đại sứ Úc tại Nam Vang lẫn Sài Gòn là những người đại diện cho quyền lợi Huê Kỳ tại Úc đều cho rằng việc Sihanouk bác bỏ lời cáo buộc ông dung túng Cộng sản là đúng. Trước sự tranh cãi như vậy, chúng tui ở Sài Gòn chỉ biết nghĩ rằng hoặc nhóm phóng viên đi riêng này có mục đích riêng của họ hoặc là bị che mắt nên không biết gì cả.
Cũng theo lời của đại tướng Westmoreland, rắc rối hơn nữa là thái độ của CIA. Có thể muốn làm hài lòng các viên chức tại Hoa Thịnh Đốn nên CIA từ lâu vẫn ém bớt việc việt cộng dùng đất Cam Bốt làm căn cứ an toàn, nhứt là việc dùng hải cảng Sihanoukville. Ngược với những gì thiếu tướng MC Christian trưng ra cho thấy hàng ngàn tấn lúa gạo mà việt cộng mua của nông dân Cam Bốt, cuối năm 1966, CIA cho rằng việt cộng vẫn lệ thuộc phần lớn vào dân quê Miền Nam Việt Nam về lương thực. Trưởng phòng Tình báo Mc Christian đã chứng minh rõ ràng rằng suốt năm 1966, hàng ngàn tấn tiếp liệu của Hoa Lục, nhiều nhứt là trang cụ quân sự, đều qua ngã Sihanoukville, CIA lại cho rằnh MACV đã nói quá lố về vai trò của Căm Bốt trong cuộc chiến chống Cộng tại miền Nam Việt Nam.
Từ năm 1966 cho đến 1969, Việt Cộng nhận cả thảy 21,600 tấn trang cụ và tiếp liệu quân sự như vũ khí đạn dược, trong đó có 600 tấn hỏa tiễn do Liên Sô chế tạo và hơn 5,000 tấn quân trang, thực phẩm, thuốc men. Tất cả đều được chuyển bằng xe dân sự vận tải đến các căn cứ của việt cộng dọc theo biên giới Việt-Cam Bốt. Chỉ cần nhìn vào con số của năm 1968-tức là năm địch có khả năng tấn công cao nhất kể từ cuộc chiến-thì tổng số quân trang quân dụng địch nhận được qua ngã Cam Bốt có thể đủ dùng cho ít nhứt 8 năm sau đó. Đại tướng Westmoreland nhắc lại rằng lúc nào ông cũng cho thế giới biết rằng việt cộng đang dùng đất Cam Bốt thế nhưng lần nào ông cũng bị Hoa Thịnh Đốn cấm. Mãi đến cuối năm 1967, hai hãng thông tấn AP và UOI cho đăng bài viết của một phóng viên về chuyến đi của người này vào thăm căn cứ CSBV trong lãnh thổ Cam Bốt nằm về hướng Tây Bắc Tây Ninh. Lúc đó, Hoa Thịnh Đốn mới chịu tin lời của ông và khuyến khích báo chí nên điều tra thêm. Từ đó, đại tướng Westmorland mới được quyền công khai nói đến việc địch đặt căn cứ tại Cam Bốt.
Khi thấy có cơ may được cho phép tiến vào đất Cam Bốt, đại tướng Westmoreland liền ra lịnh cho bộ Tham mưu của ông chuẩn bị một kế hoạch tiễu trừ để dùng phi cơ oanh tạc hoặc các cuộc hành quân trên bộ có giới hạn nhắm vào các căn cứ CSBV và đồng thời phong tỏa hải cảng Sihanoukville cùng cửa sông Cửu Long. Thế nhưng tất cả những điểm này đều không thực hiện được. Năm 1967, bộ Tham mưu Liên quân Hoa Kỳ tìm cách xin cho được quyền tổ chức oanh tạc những căn cứ này nhưng bộ Ngoại giao phản đối nên bị Tổng thống Johnson bác bỏ. Tuy vậy, muốn bảo vệ cho quân nhân Huê Kỳ tham chiến tại Việt Nam, Tổng thống Johnson đã cử đặc sứ Chester Bowles sang Ấn Độ và Nam Vang để thảo luận với Sihanouk tìm một giải pháp nào đó cho vấn đề. Cuối cùng đặc sứ Bowles chỉ nhận được một sự nhượng bộ rất nhỏ của Sihanouk là trong trường hợp rượt theo bén gót hay thả bom thì chỉ được thả dọc theo biên giới mà thôi. Đặc sứ Bowles kể lại trong lần thương thảo với Sihanouk, vị hoàng thân này vừa đưa tay đưa lên dụi mắt, vừa nói với ông: “Tôi không thích bất cứ loại người Việt nào hết, trắng, đỏ, xanh gì cũng mặc kệ”.
Đã được Sihanoouk đồng ý như vậy rồi mà Hoa Thịnh Đốn vẫn không dội bom vào lãnh thổ Cam Bốt. Cuối cùng phải đợi tháng 3/1970 sau khi Sihanouk bị tướng Lon Nol lật đổ, Tòa Bạch Ốc mới chánh thức cho phép lực lượng Hoa Kỳ phối hợp với Quân đội VNCH mở các cuộc hành quân tấn công CSBV trên đất Cam Bốt. (Biên soạn dựa theo hồi ký của Đại tướng Westmoreland-nhà xuất bản Thế Giới, tài liệu của Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ, bản tin chiến sự của Tổng cục Chiến tranh Chính trị QL.VNCH…)
-------------------------------------------------------------------------
Phòng tuyến hỏa lực-điện tử liên quân Việt-Mỹ dọc Bến Hải
* Tổng lược tình hình chiến sự tại phía Nam Bến Hải trong hai năm 1966-1967
Trong các số trước, chúng tui đã tường trình về trận chiến Hè-Thu 1966 và trận chiến Mùa Hè 1967 giữa Liên quân Việt-Mỹ và hai sư đoàn chủ lực CSBV tại phía Nam Bến Hải, từ khu Phi Quân Sự (DMZ) đến quận Gio Linh tỉnh Quảng Trị. Nỗ lực chính của Liên quân Việt-Mỹ tại chiến trường này là các đơn vị thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh VNCH, một số tiểu đoàn Nhảy Dù VNCH, và lực lượng Thủy quân Lục chiến thuộc Lực lượng 3 Thủy bộ Hoa Kỳ. Cao điểm của CSBV tại khu giới tuyến trong 2 năm 1966 và 1967 là trận hỏa tập dữ dội bằng súng cối và phi đạn vào cụm phòng thủ của liên quân Việt-Mỹ trong đêm 20/3/1967, mở màn cho cuộc tổng tấn công của các trung đoàn chủ lực CSBV vuợt vĩ tuyến 17 xâm nhập vào khu Phi Quân Sự.
Trước khi CSBV mở các trận tấn công quy mô, ngay từ giữa năm 1966, khi biết rõ địch quân liên tục xâm nhập miền Nam, đại tướng Westmoreland đã có ý nghĩ muốn dùng lực lượng quốc tế đang tham chiến tại Việt Nam để chận ngang khu Phi Quân Sự, ngoài ra ông cũng đã thiết kế một hệ thống căn cứ án ngữ do liên quân Việt-Mỹ đảm trách để ngăn chận sự xâm nhập của cộng quân. Sau đây bài lược trình về các kế hoạch nói trên của đại tướng Westmoreland.
* Kế hoạch dùng lực lượng quốc tế tại khu Phi Quân Sự:
Trước diễn biến xảy ra tại khu Giới tuyến, đại tướng Westmoreland lập ngay kế hoạch KANZUS, tên kế hoạch ghép từ chữ cái đầu tên của các nước viết bằng tiếng Anh (K= Korea (Đại Hàn, A: Australia (Úc), NZ= New Zealand (Tân Tây Lan), US: United States (Hoa Kỳ). Tại Sài Gòn, đại sứ các nước đều đồng thanh ưng thuận, nhưng Hoa Thịnh Đốn không đồng ý. Sau này khi được cử giữ chức Tham mưu trưởng Lục quân (từ giữa năm 1968), đại tướng Westmoreland vẫn hối thúc chánh phủ Huê Kỳ thực hiện kế hoạch này, vì theo nhận định của đại tướng Westmoreland thì chỉ có lực lượng này mới đánh mạnh vào yếu tố tâm lý của thế giới, ngăn chận hữu hiệu sự xâm nhập của CSBV mà Hà Nội lúc nào cũng chối rằng không có quân đội Bắc Việt hiện diện tại miền Nam. Trong hồi ký của tướng Westmoreland, ông đã nêu lên câu hỏi về vấn đề này như sau: giá như mà có được một lực lượng quốc tế trấn giữ khu Phi Quân Sự vào năm 1972 hay 1975 thì thử hỏi CSBV có dám xem thường thế giới mà xâm lăng miền Nam như vậy không”
* Hệ thống căn cứ án ngữ dọc phía Nam vĩ tuyến 17:
Tỉnh Quảng Trị về phía Tây có núi cao chót vót, phía Đông là biển và triền cát, con sông Hiếu Giang phát nguyên từ Tây Cam Lộ cắt ngang 1/3 diện tích cực Bắc của tỉnh và chạy xuyên qua thị xã Đông Hà ra đến Cửa Việt. Đông Hà cách Quảng Trị khoảng 10 km đường chim bay (đường bộ: 14 km), cách cầu Hiền Lương bắc ngang sông Bến Hải khoảng 15 km đường chim bay (đường bộ: khoảng 20 km). Từ Đông Hà có con đường chạy lên biên giới Việt-Lào ở phía Tây, đó là Quốc lộ 9. Khi đến gần biên giới, có một con đường quẹo bằng đất đá, chiều ngang hẹp, chạy ngoằn ngoèo ngang qua trại Lực lượng Đặc biệt Làng Vei đến khu vực người Thượng ở gần căn cứ Khe Sanh.
Theo tướng Westmoreland, chỉ có một phương cách hữu hiệu nhứt để ngăn chận sự xâm nhập của CSBV vào Nam qua khu Phi Quân Sự là lập một hàng rào chắn từ cửa biển đến biên giới Lào, nhưng như thế địch còn có thể dùng đất Lào để chuyển quân. Vì vậy cần phải chận luôn từ biên giới một hàng rào mà tướng Westoreland đặt tên là “hệ thống căn cứ án ngữ” chung quanh các căn cứ hỏa lực và căn cứ hỏa lực để dồn địch vào các hành lang dễ dàng cho phi cơ và đại bác yểm trợ các đơn vị bộ chiến tấn công để diệt địch.
Các căn cứ này sẽ chiếm giữ một số cao điểm trong vùng duyên hải Quảng Trị để quan sát và điều khiển hỏa lực Pháo binh, nhưng đồng thời cũng để quan sát vị trí đặt súng của địch nhắm vào các cơ sở, doanh trại Việt-Mỹ như phi trường, bãi chứa hàng để tiếp tế cho những đơn vị đóng quân dọc theo sông chạy từ Cửa Việt đến phía Tây đi và tại Đông Hà. Bởi lẽ rằng CSBV xây các cụm điểm đặt súng lớn ngay ở phía Bắc của Khu Phi Quân Sự (DMZ) mới mưu tính đưa đại bác vào đó để pháo kích vào các vị trí Việt-Mỹ ở phía Nam DMZ.
Trong số các căn cứ đặt trong địa bàn tỉnh Quảng Trị, căn cứ lớn nhứt và quan trọng nhứt là Cồn Tiên, cách Khu Phi Quân Sự về phía Nam khoảng 3 km đường chim bay. Yểm trợ cho căn cứ này là căn cứ hỏa lực Carroll (Tân Lâm) nằm trên Quốc Lộ 9, cách Cam Lộ khoảng 4 km đường chim bay. Gần cuối năm 1996, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ còn xây thêm 1 căn cứ nữa lấy tên là Rock Pile (Đống Đá) xa về hướng Tây, trên đỉnh một ngọn núi cao hơn 300 mét, án ngữ các đường dọc theo thung lũng từ hướng Tây và Bắc xuống. Hai căn cứ tiền đồn Làng Vei và Khe Sanh án ngữ mặt cực Tây là hai cứ điểm quan trọng của hệ thống căn cứ án ngữ.
Ngay từ năm 1966 khi cho lịnh các đơn vị Hoa Kỳ xây cất hệ thống án ngữ nói trên, đại tướng Westmoreland đã nghĩ rằng các đơn vị VNCH có thể đảm nhận một phần trong số các căn cứ này, nên ông luôn luôn theo dõi không cho các đơn vị TQLC mở rộng căn cứ của họ đến mức các đơn vị VNCH không đủ phương tiện để đảm nhận.
* Kế hoạch hàng rào điện tử Mc Namara:
Công việc đang tiến hành thì trong chuyến đi sang căn cứ Không quân Clark tại Phi Luật Tân vào trung tuần tháng 9/1966 để dự họp với đại diện của bộ Quốc phòng Hoa Kỳ là trung tướng Alfred D. Starbird, đại tướng Westmoreland được thông báo là các khoa học gia đã chế tạo được một dụng cụ điện tử có khả năng phát giác các cuộc chuyển quân của đối phương. Dụng cụ này sẽ làm thành một hàng rào điện tử từ bờ biển chạy dọc theo phía Nam của khu Phi Quân Sự băng qua Lào và xuyên qua đến biên giới Thái Lan. Khi được thông báo như vậy, đại tướng Westmoreland nhận định rằng đây là một ý kiến quá sang: dùng kỹ thuật tân tiến để thay thế cho các đơn vị tác chiến trong nhiệm vụ phòng thủ thì còn gì bằng. Thế nhưng vị tướng 4 sao này cũng đặt nghi vấn về tính khả dụng tuyệt hảo của dụng cụ điện tử này: Lý thuyết thì rất hay, nhưng tôi (đại tướng Westmoreland) có cảm tưởng là người ta đã nói quá đáng, có thể cả Mc Namara (bộ trưởng Quốc phòng) cũng vậy, khi cho rằng dụng cụ điện tử này có thể thay thế cho các cuộc ném bom miền Bắc Việt Nam.
Tên chính thức của công tác này là Dự án JASON, gồm có việc dùng dây kẽm gai, mìn, dụng cụ phát giác điện tử và căn cứ quân sự. Theo đại tướng Westmoreland thì dưới bất cứ nhà quân sự nào cũng thấy rằng ý kiến này thật khôi hài vì không có một hàng rào-điện tử hay là gì đó-nếu không có hỏa lực ngăn chận thì cũng vô hiệu. Nếu không thì cứ với hàng rào điện tử này phải bố trí cứ mỗi dặm đặt một tiểu đoàn để canh giữ. Trong khi chấp thuận ý kiến do trung tướng Starbid chuyển đạt, đại tướng Westmoreland đã báo cho bộ trưởng Quốc phòng Mc Namara là nên vừa đặt hàng rào điện tử vừa bố trí quân theo kế hoạch của vị tư lịnh này. Trong khi đó, các khoa học gia thì nghĩ đến một hàng rào chắn chạy dài suốt một dãi, còn đại tướng Westmoreland thì muốn đặt các dụng cụ này giữa hai căn cứ để phát giác mọi di chuyển của địch, bất kể nhỏ hay lớn.
* Cụm tuyến hỏa lực-điện tử của liên quân Việt-Mỹ:
Theo lời kể của đại tướng Westmoreland, bộ trưởng Quốc phòng Mc Namara đồng ý đề nghị của ông, nhưng trong cuộc họp báo tại Hoa Thịnh Đốn, ông Mc Namra lại buột miệng nói ra hết kế hoạch lớn lao. Vậy là các phóng viên loan tin về hàng rào điện tử Mc Namara, các bài báo này nói về kế hoạch này đã chính thức thông báo cho Hà Nội biết mọi chuyện. Do đó khi các đơn vị Công binh Hoa Kỳ cho xe ủi đất đến để khai quang, chở kẽm gai đến chuẩn bị rào thì đại bác của CSBV đã bố trí sẵn. Trước sự việc đó, đại tướng Westmoreland nghĩ rằng bây giờ nếu muốn hoàn thành mọi việc xây dựng hàng rào án ngữ này, cho dù có thay đổi như đã dự trù đi nữa thì tổn thất nhân mạng sẽ lên cao. Vì thế, đại tướng Westmoreland đã phải âm thầm dẹp bỏ kế hoạch này để “địch khỏi chê cười là chúng tôi đã bị buộc phải làm vậy”.
Trong khi thấy có sẵn các xe ủi đất dự định dọn sạch một đường dài dọc theo khu Phi Quân Sự, trung tướng Walt-tư lệnh Lực lượng 3 đặc nhiệm Thủy bộ/Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ tại VN và đại tướng Westmoreland muốn dùng các xe này dọn dẹp chung quanh căn cứ có sẵn để đặt mìn, đặt hàng rào kẻm gai và nhiều dụng cụ điện tử phát giác. Dụng cụ phát giác này dùng để báo động mỗi khi có địch đến gần những khu vực nào mà Liên quân Việt-Mỹ định trước, thế nhưng đại tướng Westmoreland thấy căn bản của việc phòng thủ này vẫn phải do phi cơ, pháo binh và các lực lượng trừ bị đảm trách mới hữu hiệu.
Biết trước thế nào cũng phải tăng cường lực lượng Hoa Kỳ ra mạn Bắc Vùng I chiến thuật, đại tướng Westmoreland đã cho lệnh điều động đơn vị Công binh của Hải quân xây thêm một phi trường ở sườn Bắc thị xã Quảng Trị và nhiều cầu tàu dọc theo sông Hiếu Giang đoạn từ Cửa Việt đến Đông Hà. Khi Công binh hoàn tất công việc, những nơi này có khả năng tiếp nhận quân dụng tiếp tiệu gấp 10 lần trước, giúp các đơn vị bớt vất vả, nhất là về mùa mưa, đèo Hải Vân rất khó lưu thông.
Với hệ thống quân cảng được phối trí ngay tại phía Bắc thị xã Quảng Trị và dọc theo sông Hiếu Giang, cùng với cụm phòng tuyến hỏa lực-điện tử với gần 20 căn cứ gần bờ biển đến tận biên giới Việt-Lào, liên quân Việt-Mỹ đã nỗ lực triệt tiêu cường lực địch tại chiến trường giới tuyến. (Biên soạn theo tài liệu của Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ, hồi ký của đại tướng Westmoreland-nhà xuất bản Thế Giới, bản tin chiến sự của Tổng cục Chiến tranh Chính trị QL.VNCH phổ biến cho báo chí…
Vương Hồng Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét