Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Tư, 29 tháng 4, 2020

MỘT VÀI Ý NGHĨ NHÂN DỊP NGÀY 30 THÁNG 4 - Dr. Nguyễn văn Thái, Ph.D


Kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi những người Việt lưu vong đầu tiên liều mạng sống lánh nạn Cộng sản bằng mọi phương tiện cho đến nay cũng đã 45 năm, một khoảng thời gian của hai thế hệ, nhưng họvẫn luôn luôn ấp ủ trong lòng một ước vọng sẽ có ngày trở về với quê hương, với đất nước của mình, nhưng là một quê hương, một đất nướccó tự do và dân chủ. Trong số những người này, đa sốđã thích nghi với xã hội mới và thành công trong thương trường hoặc có học vị cao và rất thành đạt trong ngành nghề chuyên môn của mình. Tuy nhiên, ngoại trừ thế hệ thứ hai hoặc thứ ba, họ không bao giờ cảm thấy mình hội nhập thực sự và hoàn toàn như những công dân được sinh đẻ và lớn lên trong một xã hội mà họ nghĩ chỉ là nơi tạm trú, mặc dù xã hội này văn minh, giàu có và tân tiến. Lý do là vì họ được sinh ra và lớn lên trong một môi trường với cây cỏ, với sông núi, và với một nền văn hoá bao gồm phong tục, tập quán, đạo lý, văn chương, và triết học đã hun đúc nên bản chất tinh thần con người của họ.
<!>
 Nhu cầu ăn uống, trú ẩn, và sinh lýlà những nhu cầu cần thiết căn bản cho mọi sinh vật, nhưng sự khác biệt chủ chốt giữa các sinh vật khác và con người là đời sống tinh thần. Khi những nhu cầu căn bản đã được thoả mãn thì cuộc sống con người còn đòi hỏi những nhu cầu của đời sống tinh thần phải được đáp ứng, như sự giao thoa đồng điệu vớicây cỏ, với núi sông thân thương, với tình bạn, và với lý tưởng sống.Và môi trường thích hợp để cho đời sống tinh thần có thể phát triển và thể hiện một cách tốt đẹp là quê hương, nơi mà mình đã được sinh ra và lớn lên.

Nhưng ước mơ ngày trở về với một quê hương có tự do và dân chủ càng ngày càng xa dần với thời gian cũng như vì sự tuần tự ra đi vào cõi vĩnh hằng của bạn bè hoặc của những người cùng lứa tuổi không quen biết.Tâm thức lưu đày của đời sống tâm linh càng dày vò người Việt thuộc thế hệ thứ nhất. Do đó, họ phải nói cái gì, làm cái gì để thoả mãn mong ướcmột ngày nào đó họ trở về với quê hương. Và điều rõ ràng nhất để họ có thể trở về với một đất nước có tự do và dân chủ là phải làm thế nào để chế độ độc tài Cộng sản Việt Nam (CSVN) không còn tồn tại nữa.

Từ đó, ở hải ngoại người ta thấy có những phong trào muốn lật đổ chế độ CSVN bằng võ trang như phong trào MặtTrậnQuốcgiaThốngNhấtGiảiPhóngViệtNam của ông Hoàng Cơ Minh; phong trào Võ Đại Tôn; hay hoạt động đơn lẻ như Lý Tống. Có những phong trào nặng tính pháp lý đòi hỏi nhân quyền như phong trào Hiến chương 2000;phong trào Chính Phủ Pháp Định VNCH của Luật sư Lê Trọng Quát yêu cầu tái nhóm Hiệp Định Paris 1973 dựa trên cơ sở những bên ký hiệp định đã không thực thi đúng đắn các điều khoản của Hiệp định. Những phong trào mang tính pháp lý này có trọng tâm vận động các chính quyền thuộc thế giới tự do.Ngoài ra còn có nhiều đoàn thể chính trị, chính đảng đã từng sinh hoạt trong một thời gian khá lâu, đã tập trung rất nhiều sinh lực vào công tác kêu gọi đoàn kết các chi nhánh, các hệ phái hơn là vạch ra được một kế hoạch đấu tranh có thực chất. Cộng thêm vào các sinh hoạt này còn có rất nhiều cá nhân biệt lập chống cộng bằng cách viết lách trên các mạng điện tử chống bá quyền của Tàu cộng, kết án những tội ác của Đảng CSVN, những bắt bớ và xử án bất công, những đàn áp dân oan để chiếm đất.Và trong trường hợp có sự khác biệt về cách nhìn tình hình chính trị trong và ngoài nước, nhất là ngoài nước, và dù cùng chung chủ địnhlà quan sát xem có gì lợi ích cho việctái lập nền dân chủ củađất nước Việt Nam hay không, những cá nhân này thường bỏ khá nhiều thì giờ đả kích nhau nặng nề mà quên đi đối tượng chính của mình là Đảng CSVN.

 Cũng rất có thể sự khác biệt này đã được cán bộ CS nằm vùng trong cộng đồng khai thác --nhằm phân hoá lực lượng hải ngoại chống cộng–với mục đích bảo toàn và củng cố quyền lực của Đảng CSVN. Đảng CSVN có đầy đủ tài chánh và nhân lực để thực hiện công tác này. Dù cách nhìn và cách hành động có khác nhau giữa những người hay đoàn thể chống cộng, nhưng nếu đối tượng cần đánh đổ là Đảng CSVN ở trong nước, thì có lẽ những người yêu nước chống Cộng ở hải ngoại không cần phải uổng công bỏ phí thì giờ đả kích nhau, bởi vì đường lối của mình chưa hẳn sẽ thu hoạch được kết quả tốt hơn đường lối của người khác. Hơn nữa, thoá mạ để ép buộc người khác theo đường lối của mình không phải là phương sách mang lại hiệu quả tốt. Trái lại, cần phải học hỏi nhau. Tôn trọng người khác không những sẽ tạo đoàn kết mà không cần phải kêu gọi đoàn kết và còn có thể tạo được sức mạnh cộng hưởng (synergy) vũ bão đánh đổ được đối thủ là đảng CSVN.

Đảng CSVN độc tài, toàn trị là đối tượng cần loại bỏchứ không phải là nhân dân Việt Nam. Nhân dân trong nước và người Việt ở hải ngoại là một khối đồng nhất đầy ắp tình đồng bào và cùng yêu chuộng tự do và dân chủ. Nếu người Việt hải ngoại ghét bỏ tất cả những gì là Việt Nam thì sự tranh đấu của chúng ta trở thành hoàn toàn vô nghĩa. Giấc mơ trở về quê hương tự do, dân chủ sẽ chỉ là ảo mộng. Nếu đại đa số nhân dân trong nước đều no ấm, hạnh phúc thì chúng ta không có lý do gì để tranh đấu. Dù cho mấy triệu người Việt ở hải ngoại đều đồng lòng đoàn kết chung sức đấu tranh để tạo cơ hội trở về với đất nước Việt Nam có tự do, dân chủ thì vẫn chưa đủ mà phải có 98 triệu người Việt trong nước cùng đồng chí hướng đấu tranh để loại bỏ Đảng Cộng sản,vì thực sự Đảng CSVN đã bóc lột và đàn áp đại đa số đồng bào. Có như thếthì ước mơ một Việt Nam tự do, dân chủ mới có thể thực hiện được.

Nhưng làm thế nào để chúng ta có thể khẳng định là đại đa số nhân dân trong nước cùng đồng hành với những người chống cộng tại hải ngoại trong dự hướng loại bỏ Đảng CSVN.

Theo dữ kiện mới nhất1, đến tháng 7 năm 2020 thì dân số Việt Nam là 98.7 triệu người, với khoảng 84% dưới tuổi 54 nghĩa là khi miền Nam bị CS cưỡng chiếm ngày 30 tháng 4, 1975, người lớn tuổi nhất trong lớp người này chỉ mới 9 tuổi. Nói cách khác, 84% dân số Việt Nam hiện nay không biết gì về cuộc chiến Nam Bắc. Đối với họ, tranh chấp Quốc Cộng là một cái gì xa xưa của lịch sử, nếu còn có người quan tâm đến lịch sử. Số người trong nước từ 60 tuổi trở lên có lẽ cũng không hội nhập được về văn hoá và lối sống của thế hệ trẻ tại Việt Nam hiện nay. Có lẽ họ đang thui thủi ngồi ở nhà, luyến tiếc thời “vàng son”, kể lại chuyện xưa huyền thoại mà giới trẻ ngày nay chẳng ai muốn nghe. Đảng cố nhồi nhét lý thuyết Cộng sản vào chương trình học, nhưng học sinh, sinh viên chán ghét môn học này. Chủ thuyết Cộng sản đã hoàn toàn biến dạng, chỉ mang cái vỏ bên ngoài là Cộng sản, còn bên trong ruột hoàn toàn là chủ nghĩa tư bản man rợ, với một thiểu số tài phiệt cai trị nhân dân và sẵn sàng làm bất cứ sự tàn ác nào để giữ vững quyền lực và bảo vệ quyền lợi của mình.Họ tôn vinh “thần tượng” Hồ Chí Minh và trưng bày chủ thuyết Cộng sản chỉ để làm bình phong.Thực ra thì ngoại trừ một số ít chuyên viên về lý thuyết Cộng sản trong ban chính huấn làm đày tớ cho bộ chính trị, chắc hẳn không còn ai trong giới cai trịhiểu được chủ thuyết Cộng sản thực sự là gì nữa.

Thể chế tư bản nào cũng có tài phiệt bóc lột công nhân lao động. Nhưng, theo sự tiến hoá, thể chế các quốc gia tự do là thể chế tư bản pháp định, nghĩa là những bóc lột công nhân của giới tài phiệt đã bị pháp luật tam quyền phân lập và tự do tôn giáo khống chế tạonên công bằng xã hội. Thể chế tư bản của Đảng CSVN là thể chế tư bản man rợ, vì pháp luật nằm trọn trong tay đảng hay nói cách khác không có pháp luật, nên tài phiệt cai trị đàn áp và bóc lột nhân công và nhân dân một cách man rợ. Nhân dân thấp cổ, bé miệng, không kêu gào vào đâu được.

Nhưng tại sao giới cai trị bóc lột tàn nhẫn như thế mà vẫn đứng vững hằng bao nhiêu năm nay?

Thưa là vì bốn (4) lý do:

1.    Đảng CSVN được đàn anh Tàu cộng chống lưng bằng cách cho tình báo Hoa Nam thâm nhập trong dân chúng, vào mọi hàng ngũ quân đội, công an, hành chánh các cấp để dập tan những mầm mống chống đối tác hại đến sự tồn vong của Đảng;

2.    Đảng CSVN tăng cường lực lượng công an bằng cách đặc cách bổ nhiệm hơn 600 tướng (theo Bùi Tín thì trước đó chỉ một hai tướng mà thôi) đảm nhiệm việc công an khống chế và đàn áp nhân dân,đồng thời ban phát nhiều đặc quyền, đặc lợi cho hơn 3 triệu cán bộ công an này;

3.    Thả lỏng cho nhân dân tại các đô thị lớn hưởng được nhiều tự do trong lời nói và phương thế làm ăn, ngoại trừ quyền tự do phê phán và đả kích chính quyền hoặc có tổ chức sinh hoạt chống chính quyền;

4.    Theo nguyên tắc kinh tế thị trường, những nhà tài phiệt (ở Việt Nam là đảng viên Cộng sản hay bà con hay những bạn bè thân thiết của giới chức quyền thế) làm giàu, nhưng sự giàu sang của họ cũng nhỏ giọt xuống (trickle-down theory) cho những người ở các đô thị lớn có cơ hội tạo được tài sản.

Những người ở các đô thị lớn được hưởng ơn mưa móc này đa số là những người ít nhất cũng phần nào có kiến thức, có học lực và có hiểu biết, là những thành phần có thể tạo được thay đổi xã hội. Nhưng thứ nhất, vì quyền lợi; và thứ hai,vì sự đàn áp khắc nghiệt sẽ đến với họ nếu họ dấn thân vào lãnh vực chính trị, chống đối (không khẩn thiết là lật đổ) chính quyền. Do đó, dù có nhìn thấy bất công, nhưng vì bản năng tự vệ và bảo tồn sinh kế, họ đànhlàm ngơ.

Tuy nhiên, không phải ai cũng làm ngơ. Trong lịch sử cách mạng thế giới, luôn luôncó một số rất ít người quan tâm --là thành phần trí thức -- đứng lên đốt ngọn đuốc thức tỉnh toàn dân. Trước sự đàn áp, đại đa số người dân thường thấy mìnhlà nạn nhân, thấy mình ở trong thế bị động, thấy mình bất lực. Nhưng một khi họ đã thức tỉnh, thấy được ánh sáng quyền lợi của họ thì họ sẽ hành động, mới trở thành sức mạnh vô địch, dưới sự chỉ đạo của thành phần trí thức, như cơn sóng thần của đại dương dâng lên tràn ngập, mà Đảng Cộng sản không thể nào ngăn cản nổi.

Vậy trong hoàn cảnh đất nước Việt Nam hiện tại, ai là nạn nhân của bất công, của đàn áp?

Chính là những người lao công đường phố, trong các công thự; những công nhân trong các hãng, xưởng, các nhà máy. Tiền lương của họ không đủ để nuôi sốngchính bản thân, nói gì đến cung cấp cho gia đình của họ ở miệt quê. Họ phải làm việc nhiều giờmà không được trả tiền phụ trội, không có bảo hiểm sức khoẻ, không được bồi thường tai nạn do công việc gây ra, không có nghiệp đoàn độc lập để thương thảo với chủ về các quyền lợi của họ và phải chịu những bạc đãi võ đoán của chủ nhân.

Họ là những thành phần trí thức đã tốt nghiệp đại học, nhưng không kiếm được việc làm vì nạn bè phái chỉ dành công việc cho anh em, bà con và bạn bè thân thiết, bất kể khả năng; họ đành phải chạy xe ôm, phải bán vé số, bán kẹo kéo ca hát lang thang đầu đường xó chợ.

Họ là những nông dân bị bóc lột, đất đai bị thu mua với một giá rẻ gấp ngàn lần giá gian thương bán lại cho ngoại nhân làm nhà máy hoặc đầu tư thương mãi. Nông dân chiếm một tỉ lệ dân số khoảng 80%. Họ và toàn bộ gia đình sống bằng các nông sảntrồng trên những mãnh đất mà họ sở hữu. Nay, dần dà đất đai của họ bị thu mua ép với giá tiền rẻ mạt. Trong một thời gian ngắn, họ tiêu hết số tiền này và gia đình không còn sinh kế để tồn tại. Đàn ông phải lên thành phố kiếm những việc làm lao công, hoặc công nhân trong các hãng, xưởng với số tiền lương bóc lột, không đủ khả năng cung cấp cho gia đình. Hay họ phải sang Cao Miên, Lào, Thái Lan để kiếm công việc làm ăn. Đàn bà phải đi giúp việc trong các tư gia giàu có. Con gái và trẻ em ở thôn quê, không có việc làm, là mồi ngon cho những tên ma cô đem bán ra nước ngoài làm nô lệ tình dục.

Những người này là nạn nhân của chế độ độc tài, toàn trị CSVN. Và có những thành phần trí thức không làm ngơ, đã đứng lên đốt đuốc để thức tỉnh nhân dân. Họ là những người tiên phong cho việc thay đổi xã hội. Chúng ta có những nhà hoạt động dân chủ như Nguyễn Văn Hoá, Anh Ba Sàm, Phan Kim Khánh, Trần Thị Nga, Cấn Thị Thêu, Đặng Xương Hùng, LS Lê thị Công Nhân,LS Lê Công Định, Linh Mục Đặng Hữu Nam, LM Nguyễn Duy Tân, LM Peter Bùi Phong, LM Phan Văn Lợi, BS Nguyễn Đình Thành, TS Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Viết Dũng, TS Nguyễn Xuân Diện, TS Phạm Chí Dũng, Phạm thị Đoan Trang, Trần Thị Xuân, Vũ Văn Hùng, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Công Giàu, Huỳnh Kim Báu, Võ Văn Thôn, Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), Bùi Tiến An, Bùi Công Tiến, Tống Văn Công, Kha Lương Khải, Tương Lai, Hoàng Đức Bình, Nguyễn Bắc Truyền, Đặng Ngọc Tân, Phạm Thanh, Lưu Văn Vĩnh, Lê Thị Tháp, Từ công Nghĩa, Hà Văn Nam, Đào Quang Thục, Nguyễn Văn Túc, Trương Minh Đức, Trần Phi Dũng, Trần Long Phi (20 tuổi, 8 năm tù, 3 năm quản chế) và những tù nhân lương tâm sau đây:
STT
Họ  tên
Năm sinh
Ngàybị
bắt
Ántù (năm)
Điều
1.
BÙI THỊ MINH HẰNG
1964
11/2/204
    3
245
2.
BÙI VĂN TRUNG
1964
30/10/22
4
257
3.
DƯƠNG VĂN PHƯỚC
1962
20/3/204
22 tháng
257
4.
DƯƠNG VĂN THÀNH
1982
2/2014
2
258
5.
ĐẶNG THỊ MÌ
1955
4/9/2014
26 tháng
245
6.
ĐẶNG XUÂN DIỆU
1978
27/8/201
13
79
7.
ĐINH NGUYÊN KHA
1988
11/10/22
4
88
8.
ĐỖ ĐÌNH DŨ
1959
25/6/204
3
258
9.
ĐỖ THỊ HỒNG
1957
10/2/202
13
79
10.
ĐỖ THỊ NHƯ
1950
4/9/2014
26 tháng
245
11.
ĐỖ THỊ THIÊM
1959
4/9/2014
28
tháng
245
12.
ĐỖ VĂN HÀO
1961
4/9/2014
28 tháng
245
13.
ĐỖ VĂN QUÝ
1965
4/9/2014
28 tháng
245
14.
ĐOÀN ĐÌNH NAM
1951
6/2/2012
16
79
15.
ĐOÀN HUY CHƯƠNG
1985
12/2/200
7
88
16.
ĐOÀN VĂN CƯ
1962
10/2/202
14
79
17.
HỒ ĐỨC HÒA
1974

30/7/202
13
79
18.
HUỲNH ĐỨC MINH
1958
17/7/204
3
230
19.
LÊ DUY LỘC
1956
5/2/2012
17
79
20.
LÊ ĐỨC ĐỘNG
1983
5/2/2012
12
79
21.
LÊ THANH TÙNG
1961
14/12/25

79
22.
LÊ PHÚC
1951
5/2/2012
15
79
23.
LÊ THU HÀ
1982
16/12/25

88
24.
LÊ TRỌNG CƯ
1966
5/2/2012
12
79
25.
LƯƠNG NHẬT QUANG
1987
23/11/22
12
79
26.
NGÔ HÀO
1948
8/2/2013
11
79
27.
NGÔ THỊ MINH ƯỚC
1957
8/7/2014
16
88
28.
NGÔ THỊ TOAN
1965
4/9/2014
26 tháng
245
29.
NGUYỄN CÔNG CHÍNH
1964
28/4/201
11
87
30.
NGUYỄN DINH
1968
23/11/22
14
79
31.
NGUYỄN ĐẶNG MINH MẪN
1985
2/8/2011
8
79
32.
NGUYỄN ĐÌNH NGỌC (NGUYỄN NGỌC GIÀ)
1966
27/12/24

258
33.
NGUYỄN HOÀNG QUỐC HÙNG
1981
23/2/200
9
88
34.
NGUYỄN HỮU CẢNH
1950
9/2005
13
91
35.
NGUYỄN KIM NHÀN
1949
7/6/2011
5,5
88
36.
NGUYỄN KỲ LẠC
1951
6/2/2012
16
79
37.
NGUYỄN HỮU QUỐC DUY
1985
27/11/25

88
38.
NGUYỄN HỮU THIÊN AN

8/2015

258
39.
NGUYỄN NGỌC CƯỜNG
1956
2/4/2011
7
88
40.
NGUYỄN THÁI BÌNH
1986
23/11/22
12
79
41.
NGUYỄN THỊ ÁNH NGUYỆT
1973
10/9/201
3
245
42.
NGUYỄN T BÉ HAI
1952
8/7/2014

88
43.
NGUYỄN THỊ THÚY QUỲNH
1986
2/2014
2,5
245
44.
NGUYỄN THỊ TRÍ
1958
8/7/2014

88
45.
NGUYỄN VĂN ĐÀI
1969
16/12/25

88
46.
NGUYỄN VĂN HỮU
1957
7/7/2014
4
230
47.
NGUYỄN VĂN LÝ
1946
18/2/207
8
88
48.
NGUYỄN VĂN MINH
1980
2/2014
2
245
49.
NGUYỄN VIẾT DŨNG
1986
12/4/205
15 tháng
245
50.
PHẠM THỊ PHƯỢNG
1945
15/4/200
11
79
51.
PHẠM VĂN THÔNG
1962
19/7/200
7
79
52.
PHAN NGỌC TUẤN
1953
10/8/201
5
88
53.
PHAN THANH TƯỜNG
1987
28/2/202
10
79
54.
PHAN THANH Ý
1948
23/11/22
14
79
55.
PHAN VĂN THU (TRẦN CÔNG)
1948
5/2/2012
Chung thân
79
56.
PHÙNG LÂM
1966
21/6/200
7
88
57.
PHÙNG THỊ LY
1963
14/4/205
3
245
58.
TẠ KHU
1947
6/2/2012
16
79
59.
TRẦN ANH KIM
1953
21/9/205

79
60.
TRẦN HUỲNH DUY THỨC
1966
24/5/209
16
79
61.
TRẦN PHI DŨNG
1966
10/2/202
13
79
62.
TRẦN QUÂN
1984
10/2/202
12
79
63.
TRẦN THỊ THÚY
1971
10/8/200
8
79
64.
TRẦN VŨ ANH BÌNH
1975
19/9/201
6
88
65.
TỪ THIỆN LƯƠNG
1950
23/11/22
16
79
66.
VÕ NGỌC CƯ
1951
6/2/2012
16
79
67.
VÕ THÀNH LÊ
1955
5/2/2012
16
79
68.
VÕ TIẾT
1952
23/11/22
16
79
69.
VÕ VĂN PHỤNG
1950
17/7/204
3
230
70.
VƯƠNG TẤN SƠN
1953
10/2/202
17
258

Ngoài ra còn có 127 nhà trí thứcvà những nhân vật từng là những cán bộ cao cấpcủa chế độ CSVNđã đồngký một bức thư ngày 9 tháng 12 năm 2015, gửi đếnBộChínhtrị, Ban ChấphànhTrungươngkhóa XI, cácđạibiểudựĐạihộilầnthứ XII vàtoànthểđảngviênĐảngCộngsảnViệt Nam2,đòi hỏi Đại hội phải loại bỏ thể chế Cộng sản độc tài và thay vào đó một thể chế dân chủ và tự do.

Còncó nhiều nhà hoạt động cho nhân quyền và dân chủ khác nữa mà tác giả bài này chưa truy cứu được.

Đa số những người liệt kê trên đã thực sự hy sinh một phần lớn thời gian của cuộc đời mình trong lao tù dã man của Đảng CSVNđể tranh đấu cho quyền sống của người dân, và cho nền tự do và dân chủ của đất nước. Họ là những chứng nhân của sự bóc lột, của sự đàn áp tàn bạo của chế độ CSVN. Họ là những ngọn đuốc thức tỉnh nhân dân đứng lên đòi lại quyền sống của mình. Họ là những người đấu tranh bất bạo động. Nhưng họ chưa thành công. Chưa thành công là vì:

(1) Họ vẫn còn tranh đấu đơn lẻ;

(2) Sự đàn áp khắt khe và man rợ của 3 triệu công an rất trung thành với chế độ vì được hưởng thụ nhiều quyền lợi vật chất bằng sự đàn áp và bóc lột người dân;

(3) Thiếu sự hỗ trợ đồng bộ và hợp nhất có tổ chức của những đoàn thể và cá nhân tranh đấu tại hải ngoại;

(4) Chỉ gióng lên tiếng nói đối kháng chứ chưa có một kế hoạch bao gồm các chiến lược và chiến thuật đấu tranh hữu hiệu.

Kế hoạch đấu tranh phải bắt đầu bằng một nghiên cứu thấu đáo về những cột trụ chống đỡ khả năng sinh tồn của đảng CSVN độc tài, toàn trị và một tổ chức thích hợp bao gồm những nhà đấu tranh trong và ngoài nước cókỹ năng đưa ra những phương thức có thể đốn ngã những cột trụ này. Những cột trụ này thường được xây dựng bằng những chất liệu vật chấtcó nguồn gốc tài chánh và nhân lực về kinh tế.. Những cột trụ khác được xây dựng bằng cấu trúc các ngành như quân đội, công an, hành chánhvới những thành phần có tư tưởng khác nhau và có những liên hệ tài chánh và tình cảm với gia đìnhcũng khác nhau. Những cột trụ khác nữa, bằng những yếu tố tâm lý như sự trung thành cũng như sự bất mãn do quyền lợi, sự ham mê tiền bạc, quyền lực, và sinh lý gây nên. Kế hoạch đấu tranh cần có những phân tích và nhận định sâu sắc về các ưu và khuyết điểm của đối phương về kinh tế/tài chánh, về tổ chức (quân đội, hành chánh, an ninh), và về tâm lý. Thực hiện kế hoạch bắt đầu bằng cách tấn công vào những nhược điểmvề kinh tế, về tổ chức, và về tâm lý của đối phươngtheo chiến lược và các chiến thuật đã được hoạch định, trong môi trường đại đoàn kết dân tộc cùng chung chí hướng loại bỏ Đảng CSVN để đem lại cho dân tộc Việt Nam một xã hội tự do, dân chủ, và công bằng.

Tiểu Thạch
NguyễnvănThái-NguyênGiáoSư ThỉnhGiảngUniversity Of Pennsylvania - St.Joseph's University - Chestnut Hill College

Pennsylvania, Ngày 30 tháng 4 năm 2020.

 CHÚ THÍCH: Tài liệu tham khảo 
Vietnam - 2020

SOURCE: 2020 CIA WORLD FACTBOOK AND OTHER SOURCES

Page last updated on January 27, 2020
Population:
98,721,275 (July 2020 est.)
country comparison to the world (CIA rank, may be based on non-current data): 16 
[see also: 
Population country ranks ] 
[see also: 
Population country ranks 
Nationality:
noun: Vietnamese (singular and plural) 
adjective: Vietnamese
Ethnic groups:
Kinh (Viet) 85.7%, Tay 1.9%, Thai 1.8%, Muong 1.5%, Khmer 1.5%, Mong 1.2%, Nung 1.1%, Hoa 1%, other 4.3% (2009 est.) 
note: 54 ethnic groups are recognized by the Vietnamese Government
Languages:
Vietnamese (official), English (increasingly favored as a second language), some French, Chinese, and Khmer, mountain area languages (Mon-Khmer and Malayo-Polynesian)
Religions:
Buddhist 7.9%, Catholic 6.6%, Hoa Hao 1.7%, Cao Dai 0.9%, Protestant 0.9%, Muslim 0.1%, none 81.8% (2009 est.)
Age structure:
0-14 years: 22.61% (male 11,733,704/female 10,590,078) 
[see also: 
Age structure - 0-14 years country ranks ] 
15-24 years: 15.22% (male 7,825,859/female 7,202,716) 
[see also: 
Age structure - 15-24 years country ranks ] 
25-54 years: 45.7% (male 22,852,429/female 22,262,566) 
[see also: 
Age structure - 25-54 years country ranks ] 
55-64 years: 9.55% (male 4,412,111/female 5,016,880) 
[see also: 
Age structure - 55
2ThưgửiBộChínhtrị, Ban ChấphànhTrungươngkhóa XI, cácđạibiểudựĐạihộilầnthứ XII vàtoànthểđảngviênĐảngCộngsảnViệt Nam

Không có nhận xét nào: