Thái Liên Khúc
Hái dâu chăn tằm, hái sen hái súng để cải thiện cuộc sống... đều là những công việc lao động đẹp đẽ của phụ nữ từ thời thượng cổ đến nay. Nhưng do hoàn cảnh lao động nên các nàng hái lá dâu trong những rừng dâu râm rạp mát mẻ nên thơ lại có dịp hẹn hò với các chàng nên thường bị mang tiếng là "Trên Bộc Trong Dâu", chữ Nho là TANG TRUNG BỘC THƯỢNG 桑中濮上. Theo sách Lễ Ký 禮記, chỉ các trai gái của nước Vệ thời Chiến Quốc thường hò hẹn nhau đến rừng dâu trên sông Bộc để hát hò rồi xảy ra chuyện dâm loạn với nhau.
<!>
Không thanh cao trong sáng như các cô gái hái sen thả một chiếc xuồng con trên sông nước. Có gặp được các chàng ý trung nhân thì cũng chỉ liếc mắt đưa tình hay cúi đầu cười e thẹn, họa hoằn lắm, gan dạ lắm thì cũng chỉ cặp đôi hai thuyền lại để thăm hỏi vài lời và ngắm nhìn nhau cho mãn nhãn là cùng...
Sau đây, ta hãy đọc những bài thơ THÁI LIÊN KHÚC diễn tả lại cuộc sống lao động lành mạnh và lại rất nên thơ của các cô gái hái sen lớn lên trong vùng sông nước Giang Nam với bạt ngàn sen súng...
10. Bài thơ THÁI LIÊN KHÚC của Lưu Phương Bình đời Đường :
採蓮曲 THÁI LIÊN KHÚC
落日清江裏, Lạc nhật thanh giang lý,
荊歌豔楚腰。 Kinh ca diễm Sở yêu.
採蓮從小慣, Thái liên tòng tiểu quán,
十五即乘潮。 Thập ngũ tức thừa triều !
劉方平 Lưu Phương Bình
* Chú thích :
- THÁI LIÊN KHÚC 採蓮曲 còn có tên là "THÁI LIÊN NỮ 採蓮女" là một trong bảy khúc hát của GIANG NAM LỘNG 江南弄 là những điệu hát hò trên sông nước của xứ Giang Nam.
- KINH CA 荊歌 : là những khúc hát hò trên sông nước của đất Kinh Sở thời Chiến Quốc ngày xưa (thuộc tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc hiện nay).
- SỞ YÊU 楚腰 : là Eo của con gái nước Sở. Tương truyền Sở Linh Vương thích các cô gái có eo thon, nên các người đẹp trong nước "thi nhau nhịn ăn" để có được cáo eo thon đẹp. Nên SỞ YÊU là cái EO vừa Thon vừa Đẹp.
- TÒNG TIỂU QUÁN 從小慣 : QUÁN là Tập Quán, là Thói quen. Nên TÒNG TIỂU QUÁN là Từ nhỏ đã quen rồi.
- THỪA TRIỀU 乘潮 : là Cởi sóng; là Chèo thuyền lướt trên sóng mà đi.
* Nghĩa bài thơ :
Mặt trời chen lặn trên dòng nước trong xanh, tiếng hát hò điệu Kinh Sở vang vang trên sông nước bởi những cô gái yểu điệu với chiếc eo Sở thon đẹp. Từ lúc còn nhỏ các cô đã dần quen với công việc hái sen, nên khi mới mười lăm tuổi thì đã dám một mình chèo thuyền cởi sóng lướt trên sông nước để đi hái sen rồi !
* Diễn Nôm :
THÁI LIÊN KHÚC
Chiều xuống nước trong veo,
Tiếng ca nàng nhỏ eo.
Hái sen từ tấm bé,
Mười lăm vượt sóng chèo !
Luc bát :
Nắng chiều buông, nước sông trong,
Tiếng ca Kinh Sở đẹp lòng eo thon.
Hái sen từ nhỏ đã lờn,
Mười lăm vượt sóng há sờn lòng đây !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
11. Bài thơ THÁI LIÊN KHÚC của Thôi Quốc Phụ đời Đường :
採蓮曲 THÁI LIÊN KHÚC
玉漵花爭發, Ngọc tự hoa tranh phát,
金塘水亂流。 Kim đường thủy loạn lưu.
相逢畏相失, Tương phùng uý tương thất,
並著木蘭舟。 Tịnh chước Mộc Lan chu.
崔國輔 Thôi Quốc Phụ
* Chú thích :
- NGỌC TỰ 玉漵 : TỰ là Bờ nước, bến nước. Nên NGỌC TỰ có nghĩa là Bến nước có làn nước trong như ngọc.
- HOA TRANH PHÁT 花爭發 : là Hoa đua nhau nở rộ.
- KIM ĐƯỜNG 金塘 : ĐƯỜNG là Bờ đê chạy dọc theo ven sông. Nên KIM ĐƯỜNG là Bờ đê rực rỡ vàng lên trong ánh nắng.
- THỦY LOẠN LƯU 水亂流 : Chỉ làn nước cuồn cuộn chảy cuốn theo bờ đê.
- TỊNH CHƯỚC 並著 : TỊNH 並 là chữ Hội Ý, do hai chữ LẬP 立 là Đứng ghép sát vào nhau mà thành. Nên TỊNH là Song song, là Ngang bằng nhau. Nên TỊNH CHƯỚC là Làm cho ngang bằng nhau; ghép lại cho song song.
- MỘC LAN CHU 木蘭舟 : Thuyền làm bằng cây Mộc Lan. Theo "THUẬT DỊ KÝ 述異記" ghi lại : Trên bến sông Tầm Dương có trồng nhiều cây Mộc Lan. Xưa Ngô vương Hạp Lư dùng cây nầy để cất cung điện; còn ở bãi Thất Lý trong sông thì Lỗ Ban đã đóng cây Mộc Lan làm thuyền, gọi là Mộc Lan Chu.
* Nghĩa bài thơ :
Làn nước trong lắp lánh như ngọc bên bến nước, các đóa hoa sen tranh nhau đua nở; Những chiếc thuyền hái sen qua lại bên bờ đê rực lên dưới ánh nắng vàng và dòng nước cuồn cuộn chảy. Nên khi hai thuyền gặp nhau sợ bị dòng nước cuốn cho xa nhau, (chàng với nàng) mới buộc cho hai chiếc thuyền bằng Mộc Lan lại cho đi song song với nhau.
Câu "Tương phùng uý tương thất, 相逢畏相失" là "Gặp nhau rồi lại sợ phải mất nhau" mới ý vị làm sao ấy ! Sợ hai chiếc thuyền bị nước cuốn cho xa nhau thì ít; Sợ gặp nhau mà chẳng nói được câu nào với nhau mới là điều cùng lo lắng. "Úy tương thất 畏相失" Sợ mất nhau, đã nói lên cái tâm lý yêu thương nhau thắm thiết của đôi lứa ngày xưa rất hiếm khi có dịp cùng nhau gặp gỡ để giải bày nỗi lòng tâm sự..
* Diễn Nôm :
THÁI LIÊN KHÚC
Bờ nước hoa đua nở,
Bờ đê nước cuộn trôi.
Gặp nhau sợ chia cắt,
Thuyền lan buộc song đôi !
Lục bát :
Nước trong như ngọc đầy hoa,
Đê vàng nước cuốn thuyền qua lại nhiều.
Gặp nhau sợ mất người yêu,
Mộc Lan thuyền buộc cùng chiều song song.
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
12. Bài thơ THÁI LIÊN KHÚC của Bồ Tùng Linh đời Thanh :
採蓮曲 THÁI LIÊN KHÚC
兩船相望隔菱茭, Lưỡng thuyền tương vọng cách lăng giao,
一笑低頭眼暗拋; Nhất tiếu đê đầu nhỡn ám phao.
他日人知與郎遇, Tha nhật nhân tri dữ lang ngộ,
片言誰信不曾交? Phiến ngôn thùy tín bất tằng giao?
蒲松齡 Bồ Tùng Linh
* Chú thích :
- TƯƠNG VỌNG 相望 : là Nhìn nhau; là Đối diện, là Ngang mặt nhau.
- LĂNG GIAO 菱茭 : LĂNG là củ Ấu; GIAO là Bồn bồn. Nói chung là các loại thủy tảo sống trong ao hồ, như bài trước ta đã gặp từ BẠCH TẦN 白蘋 là Bông súng trắng vậy... Tất cả các loại nầy đều mọc lẫn với hoa sen, nhưng thường thì bị sen che khuất.
- NHỠN ÁM PHAO 眼暗拋 : PHAO là Ném; ÁM là Len lén; NHỠN là Mắt. Nên NHỠN ÁM PHAO là "Len lén ném con mắt". Có nghĩa là : Trộm nhìn nhau, Len lén nhìn nhau, liếc nhìn nhau...
- THA NHẬT 他日 : Một ngày nào đó (trong tương lai).
- PHIẾN NGÔN 片言 : là Lời nói phiến diện; Lời nói chỉ của một bên.
- BẤT TẰNG 不曾 : là Không từng; là Không hề, Chưa hề...
* Nghĩa bài thơ :
Hai chiếc thuyền hái sen xa xa đối diện nhau được ngăn cách bởi hoa sen hoa ấu hoa bồn bồn. Chỉ dám cúi đầu cười e thẹn và len lén nhìn chàng mà thôi. Rồi một ngày nào đó người ta biết được em đã gặp chàng trong lúc hái sen, với lời nói phiến diện của em, đâu có ai tin là mình không từng giao tiếp trao đổi gì nhau cả đâu ?... Đã vậy thì...
... Sao ta không nhân dịp nầy mà tỏ bày nỗi niềm tâm sự với nhau cho thỏa lòng mong ước. Chỉ biết liếc mắt trộm nhìn nhau thì có uổng phí đi cái thời gian và cái cơ hội ngàn năm một thuở nầy đi chăng ? Trước sau gì cũng "mang tiếng" là đã gặp mặt nhau khi hái sen rồi, thôi thì ta cứ cặp thuyền lại mà cùng nhau giải bày tâm sự, cùng nhau thổ lộ tâm tình cho... thỏa lòng mong ước để vơi đi niềm tâm sự !...
* Diễn Nôm :
THÁI LIÊN KHÚC
Hai thuyền ngang mặt ấu sen rào,
Cười thẹn cúi đầu ánh mắt trao.
Hôm khác người hay ta gặp gỡ,
Ai tin ta chẳng nói lời nào ?
Lục bát :
Hai thuyền cách bởi ấu sen,
Cúi đầu cười mĩm mắt len lén nhìn.
Ngày sau người biết chuyện mình...
Ai tin ta chỉ ngắm nhìn nhau thôi ?!
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
13. Bài thơ THÁI LIÊN KHÚC của Lý Trung đời Đường :
採蓮女 THÁI LIÊN NỮ
晚凉含笑上蘭舟, Vãn lương hàm tiếu thướng lan chu,
波底紅妝影欲浮。 Ba để hồng trang ảnh dục phù.
陌上少年休植足, Mạch thượng thiếu niên hưu thực túc,
荷香深處不回頭。 Hà hương thâm xứ bất hồi đầu !
李中 Lý Trung
* Chú thích :
- THÁI LIÊN NỮ 採蓮女 : "Cô gái hái sen" cũng là tên của một khúc hát trong Nhạc Phủ của thời Nam Bắc Triều.
- VÃN LƯƠNG 晚凉 : là Buổi chiều mát mẻ.
- THƯỚNG LAN CHU 上蘭舟 : là "Lên thuyền lan"; Ta nói là "Xuống thuyền lan".
- BA ĐỂ 波底 : Ở dưới làn sóng; ở đáy sóng.
- ẢNH DỤC PHÙ 影欲浮 : Cái bóng dưới nước như muốn nổi lên trên mặt nước vậy.
- MẠCH THƯỢNG 陌上 : Đường đi trên bờ ruộng; ở đây chỉ đường trên bờ sông.
- HƯU 休 : là nghĩ ngơi; nhưng ở đây có nghĩa là ĐỪNG, là ChỚ...
- THỰC TÚC 植足 : Đứng chôn chân một chỗ (để mong đợi...)
- THÂM XỨ 深處 : Chỉ Chỗ sâu trong cùng của rừng sen rậm rạp.
- BẤT HỒI ĐẦU 不回頭 : là "Không quay đầu nhìn lại"; cũng có nghĩa là "Không quay đầu trở ra".
* Nghĩa bài thơ :
CÔ GÁI HÁI SEN
Trong buổi chiều trời mát mẻ, nàng mỉm cười bước xuống chiếc thuyền lan. Dưới làn sóng gợn lăn tăn, cái bóng hồng vừa trang điểm của nàng như muốn nổi lên trên mặt nước. Chàng thiếu niên trên bờ đê ơi đừng đứng chôn chân ở đó nữa, vì hương thơm của hoa sen đã lôi cuốn nàng đi sâu vào trong rừng sen nên sẽ không quay đầu lại nữa đâu.
* Diễn Nôm :
THÁI LIÊN NỮ
Chiều trời mát mẻ xuống thuyền lan,
Sóng nước chập chờn dáng điểm trang.
Trên bến chàng ơi đừng đứng đợi,
Hương sen dẫn thiếp ngút trong ngàn !
Lục bát :
Mỉm cười chiều mát xuống thuyền,
Bóng hồng như nổi giữa miền sóng xô.
Trên bờ chàng trẻ ngẩn ngơ...
Hương sen sâu thẳm bao giờ trở ra !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
14. Bài thơ THÁI LIÊN KHÚC của Hạ Tri Chương đời Đường :
採蓮曲 THÁI LIÊN KHÚC
稽山罷霧鬱嵯峨, Kê sơn bãi vụ uất tha nga,
鏡水無風也自波。 Kính thủy vô phong dã tự ba.
莫言春度芳菲盡, Mạc ngôn xuân độ phương phi tận,
別有中流採芰荷。 Biệt hữu trung lưu thái kỵ hà.
賀知章 Hạ Tri Chương
* Chú thích :
- KÊ SƠN 稽山 : là núi Cối Kê, còn có tên là Mao Sơn 茅山, nằm ở phía bắc của huyện Thiệu Hưng thuộc tỉnh Chiết Giang ngày nay.
- BÃI VỤ 罷霧 : VỤ là Sương mù. Bãi Vụ là Sương mù tan đi.
- UẤT 鬱 : là Rậm rạp xanh om.
- TA NGA 嵯峨 : chỉ Núi cao chớm chở, nhấp nhô hết ngọn nầy đến ngọn khác.
- KÍNH THỦY 鏡水 : là Gương nước, chỉ Nước trong như gương, như 2 câu thơ trong bài "Nhớ con sông quê hương" của Tế Hanh, một thi sĩ thời Tiền Chiến :
Quê hương tôi có con sông xanh biếc,
NƯỚC GƯƠNG trong soi tóc những hàng tre...
- TỰ BA 自波 : là Tự mình gợn sóng.
- MẠC NGÔN 莫言 : Đừng bảo rằng; Đừng nói là...
- XUÂN ĐỘ 春度 : là Mùa xuân đã độ qua, là mùa xuân đã đi qua rồi.
- PHƯƠNG PHI 芳菲 : PHƯƠNG là Thơm tho; PHI là Tươi tốt; nên PHƯƠNG PHI là chỉ chung hoa cỏ thơm tho tươi tốt của mùa xuân.
- BIỆT HỮU 別有 : Đặc biệt còn có; Ngoài ra còn có...
- KỴ HÀ 芰荷 : KỴ là loại củ ấu có 4 cạnh (Ấu 2 cạnh gọi là LĂNG 菱). HÀ là Sen. KỴ HÀ trong câu thơ cuối nầy chỉ chung HOA SEN và HOA ẤU.
* Nghĩa bài thơ :
KHÚC HÁT HÁI SEN
Dãy núi Cối Kê sau lúc sương mù tan biến thì hiện ra chập chùng nhấp nhô chững ngọn núi cao chớm chở. Soi bóng xuống làn nước trong như gương, tuy không có gió nhưng cũng tự gợn sóng lăn tăn. Đừng bảo rằng mùa xuân đã qua đi nên hương thơm và vẻ xanh tốt của lá hoa đều chấm hết. Đặc biệt trong mùa hè còn có thú thả thuyền theo dòng nước để hái hoa ấu, hoa sen, hoa súng...
* Diễn Nôm :
THÁI LIÊN KHÚC
Kê Sơn sương tạnh lô nhô núi,
Gợn sóng nước trong chẳng gió len,
Đừng bảo xuân qua hoa lá tận,
Theo dòng ta hái ấu cùng sen !
Lục bát :
Cối Kê sương tạnh núi xinh,
Nước gương không gió tự mình long lanh.
Xuân qua hoa cỏ hết xanh,
Theo dòng ta hái mấy cành ấu sen !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Hẹn bài dịch tới !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét