Thái Liên Khúc 採蓮曲
Đường Cao Tông Thượng Nguyên năm thứ hai(675)Trên đường đi thăm cha là Vương Phúc 王福 đang làm quan ở đất Giao Chỉ, Vương Bột 王勃 người đứng đầu trong Sơ Đường Tứ Kiệt 初唐四傑 về văn thơ, khi đi ngang qua đất Giang Nam trông thấy các cô gái hái sen trong sông hồ, xúc cảnh sinh tình ông đã viết nên hai bài : Một văn (Phú) một thơ (Cổ phong Nhạc phủ) đều lấy đề tài Hái Sen làm chủ đạo. Sau đây là bài thơ THÁI LIÊN KHÚC 採蓮曲 của ông ghi lại tâm tình tưởng nhớ của một cô gái hái sen với một chàng chinh phu đang ở xa xôi ngoài miền biên tái.
<!>
採蓮曲 THÁI LIÊN KHÚC
採蓮歸,綠水芙蓉衣。 Thái liên quy, lục thủy phù dung y.
秋風起浪鳧雁飛, Thu phong khởi lãng phù nhạn phi,
桂櫂蘭橈下長浦。 Quế trạc lan nhiêu há trường phố.
羅裙玉腕輕搖櫓, La quần ngọc uyển khinh dao lỗ,
葉嶼花潭極望平。 Diệp dữ hoa đàm cực vọng bình.
江謳越吹相思苦, Giang âu Việt xuy tương tư khổ,
相思苦,佳期不可駐。 Tương tư khổ, Giai kỳ bất khả trú.
塞外征夫猶未還, Tái ngoại chinh phu do vị hoàn,
江南採蓮今已暮。 Giang nam thái liên kim dĩ mộ.
今已暮,採蓮花, Kim dĩ mộ, Thái liên hoa,
渠今那必盡娼家。 Cự kim na tất tận xướng gia.
官道城南把桑葉, Qan đạo thành nam bã tang diệp,
何如江上採蓮花。 Hà như giang thượng thái kiên hoa.
蓮花復蓮花,花葉何稠疊。 Liên hoa phục liên hoa, Hoa diệp hà trù điệp.
葉翠本羞眉,花紅強如頰。 Diệp thúy bổn tu my, Hoa hồng cưởng như giáp.
佳人不在茲,悵望別離時。 Giai nhân bất tại tư, Trướng vọng biệt ly thì.
牽花憐共蒂,折藕愛連絲。 Khiên hoa lân cộng đế, Chiết ngẫu ái liên ty.
故情無處所,新物從華滋。 Cố tình vô xứ sở, Tân vật tòng hoa tư.
不惜西津交佩解, Bất tích tây tân giao bội giải,
還羞北海雁書遲。 Hoàn tu bắc hải nhạn thư trì.
採蓮歌有節,採蓮夜未歇。 Thái liên ca hữu tiết, Thái liên dạ vị yết.
正逢浩蕩江上風, Chính phùng hạo đãng giang thượng phong,
又值徘徊江上月。 Hựu trực bồi hồi giang thượng nguyệt.
徘徊蓮浦夜相逢, Bồi hồi liên phố dạ tương phùng,
吳姬越女何豐茸。 Ngô cơ Việt nữ hà phong nhung.
共問寒江千里外, Cộng vấn hàn giang thiên lý ngoại,
征客關山路幾重。 Chinh khách quan sơn lộ kỷ trùng.
王勃 Vương Bột
* Chú thích :
- Câu LỤC THUỶ PHÙ DUNG Y 綠水芙蓉衣 Có nghĩa : Làn nước trong xanh như được phủ lên một tấm áo bằng hoa phù dung (hoa sen) vậy.
- PHÙ NHẠN 鳧雁 : là Vịt trời, là Le le, hay lội kiếm cá ăn trong các ao sen.
- QUẾ TRẠC LAN NHIÊU 桂櫂蘭橈 : cũng cùng nghĩa với QUẾ TRẠO LAN TƯƠNG 桂棹蘭槳, là Cột chèo như cây quế và mái chèo tựa lá của hoa lan. Nói chung đều dùng để chỉ thuyền nhỏ và đep. Ta thường nói thành "Thuyền Quế Chèo Lan".
- TRƯỜNG PHỐ 長浦 : là Bến nước dài. Ý nói Sen mọc dài theo bến nước.
- DAO LỖ 搖櫓 : là Lay động mái chèo. Tức là đang chèo. Ta có các từ LỖ 櫓, TRẠO 棹, TƯƠNG 槳, TRẠC 櫂, NHIÊU 橈 đều dùng để chỉ MÁI CHÈO, Cây Chèo, Cây Dằm để bơi.
- DIỆP DỮ HOA ĐÀM 葉嶼花潭 : DỮ là Đảo nhỏ, chỗ đất nổi lên giữa sông hồ; ĐÀM là Đầm, chỉ chỗ nước sâu. Nên nghĩa của câu "Diệp dữ hoa đàm cực vọng bình 葉嶼花潭極望平" có nghĩa : Lá ở chỗ cạn hoa ở chỗ sâu gì đều như bằng nhau trong cái nhìn ngút ngàn (CỰC VỌNG là Nhìn mút con mắt).
- GIANG ÂU VIỆT XÚY 江謳越吹 : ÂU là Âu ca; XÚY là Thổi sáo thổi tiêu; Nên Giang Âu Việt Xúy là chỉ chung các điệu hát hò trên sông nước của vùng đất Giang Nam.
- GIAI KỲ BẤT KHẢ TRÚ 佳期不可駐 : là Những ngày tháng êm đẹp bên nhau không thể tìm lại được nữa.
- CỰ 渠 : Phiếm chỉ Đại từ ngôi thứ ba, chỉ : Nó, Chúng nó; Họ, Bọn họ.
- XƯỚNG GIA 娼家 : Con nhà hát xướng. Phường chèo.
- QUAN ĐẠO 官道 : là Đường cái quan, chỉ đường lớn.
- BẢ TANG DIỆP 把桑葉 : là Hái lá dâu tằm ăn.
- TRÙ ĐIỆP 稠疊 : là Rậm rạp, um tùm.
-...BỔN TU MI 本羞眉 : Vốn thẹn với chân mày.
-...CƯỞNG NHƯ GIÁP 強如頰 : Miễn cưởng giống như đôi gò má.
- TƯ 茲 : là Nơi đây, là Lúc nầy. THÌ 時 : là Lúc, Lúc đó.
- CỘNG ĐẾ 共蒂 : là cùng một đài hoa nở ra hai đóa hoa.
- LIÊN TY 連絲 : là Liền tơ, khi củ sen hay ngó sen bị bẻ đôi thì những sợi tơ vẫn còn dính liền nhau ở giữa. Cụ Nguyễn Du cũng đã dùng ý nầy để diễn tả tâm lý của Thúy Kiều khi đã về với Từ Hải nhưng vẫn còn nhớ đến Kim Trọng với đôi lục bát sau đây :
Tiếc thau chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa NGÓ Ý còn vương tơ lòng !
- GIAO PHỐI GIẢI 交佩解 : là Đưa tặng đồ đang đeo trong mình.
- NHẠN THƯ TRÌ 雁書遲 : là Cánh nhạn đưa thư đến muộn.
- VỊ YẾT 未歇 : là Chưa ngơi nghỉ.
- HẠO ĐÃNG 浩蕩 : là Ào ạt, là Rầm rô.
- BỒI HỒI 徘徊 : là Dùng dằng , Chần chừ, Nấn ná.
- NGÔ CƠ VIỆT NỮ 吳姬越女 : Chỉ chung các cô gái đẹp của đất Ngô Việt xưa, của vùng sông nước Giang Nam nói chung.
- PHONG NHUNG 豐茸 : là Đầy đặn nở nang. Như cụ Nguyễn Du đã tả vẻ đẹp của Thúy Vân là :
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng Đẩy Đặn, nét ngài Nở Nang
- LỘ KỶ TRÙNG 路幾重 : Đường xa mấy dặm ngàn; ý chỉ thật xa xôi cách trở.
* Nghĩa bài thơ :
KHÚC HÁT HÁI SEN
Hái sen về, nhìn lại hồ sen, làn nước trong xanh như được phủ lên một tấm áo bằng hoa phù dung. Gió thu làm dậy sóng khiến các con vịt trời bay lên tán loạn. Thuyền quế chèo lan xuôi dòng theo bến nước. Quần là tay ngọc nhẹ nhàng lay động mái chèo. Nơi bờ cạn nước sâu đều phủ đầy cả lá và hoa sen nên trông bằng phẵng đến mút cả tầm mắt. Tiếng hò hát và tiếng sáo réo rắc trên sông nước làm dậy lên mối sầu tương tư. Sầu tương tư, thời gian sum họp vui vẻ nay còn đâu, người chinh phu ngoài biên ải vẫn chưa về; Cô gái hái sen đất Giang Nam giờ đã về chiều. Giờ đã về chiều, không phải họ đều là những phường chèo cả đâu. Những cô gái hái dâu trên đường cái quan, làm sao mà so được với các nàng hái sen trên sông nước. Hoa sen rồi lại hoa sen; Lá sen sao mà tràn ngập. Màu xanh của lá vốn thẹn với màu xanh của đôi mày ngài và màu hồng của hoa thì miễn cưỡng được ví như là đôi má hồng của người đẹp. Giai nhân vắng bóng đâu đây, mong ngóng trông chờ nỗi biệt ly. Lay động xót thương cho cành hoa nở đôi (giờ đà chia cách); Ngó đã lìa nhưng thương cho tơ vẫn còn vương. Tình cũ biết tìm nơi đâu? Hoa mới thì vẫn đang rực rỡ. Không tiếc việc cởi kỷ vật trao tặng bên bờ tây, chỉ buồn vì thư nhạn đến trễ nơi bễ bắc. Khúc hát hái sen còn có tiết tấu, nhưng người hái sen thì suốt đêm không ngơi nghỉ. Lại gặp lúc gió trên sông thổi ào ạt và trăng trên sông như ngơ ngẩn bồi hồi. Bồi hồi ngơ ngẩn nhớ đến lúc cùng gặp gở trên bờ sen, các cô gái Ngô Việt với "Khuông trăng đầy đặn nét ngái nở nang". Cùng hỏi thăm nhau ngoài ngàn dặm của con sông lạnh lẽo nầy, đến tin tức của người chinh phu ở tận ngoài quan san cách mấy dặm ngàn.
* Diễn Nôm :
THÁI LIÊN KHÚC
Sen hái xong thuyền về lối cũ,
Làn nước trong phủ áo phù dung.
Vịt trời theo gió sóng tung,
Thuyền lan chèo quế ung dung theo bờ.
Chèo cố quẫy quần là tay ngọc,
Rừng lá hoa ngút mắt ven trời.
Câu hò tiếng sáo buông lơi,
Tương tư lòng những nhớ người nẽo xa.
Tương tư khổ ai là tri kỷ?
Nhớ ngày vui vốn dĩ đã qua.
Chinh phu quan tái ải xa,
Giang Nam sen hái chiều tà ai hay.
Chiều tà buông buồn thay sen hái,
Họ phải đâu chẳng gái nhà lành,
Cái quan dâu hái ngoại thành,
Sao bằng sông nước hái cành hoa sen.
Bạt ngàn đó hoa sen hoa súng,
Lá xanh xanh như cũng khoe xinh,
Lá xanh thẹn với mày xanh,
Hoa hồng miễn cưỡng đua tranh má hồng.
Giai nhân đó vẫn không hiện diện,
Ngóng biệt ly dễ khiến bâng khuâng.
Cành hoa tịnh đế song song,
Dẫu kìa ngó ý tơ lòng còn vương.
Tình cố nhân vô phương tìm kiếm,
Cảnh vật kia chẳng hiếm đổi thay,
Bờ tây tín vật trao tay,
Chỉ hiềm bắc hải trông hoài nhạn tin.
Điệu hái sen hữu tình hữu tiết,
Đêm hái sen chẳng thiết nghỉ ngơi,
Gặp cơn sóng nước tơi bời,
Chập chờn bóng nguyệt bồi hồi ven sông.
Cùng bồi hồi chung lòng gặp gỡ,
Gái Việt Ngô bở ngở hỏi han,
Cùng mong người chốn quan san,
Đường xa biết mấy dặm ngàn cách ngăn !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Hẹn bài dịch tới !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét