Chồng tôi gọi đến chỗ làm của tôi, báo tin: - Ba vừa bị một stroke ở nhà bác Hai, xe ambulance đang đưa ba đến bệnh viện downtown. Anh sẽ đi đón Tí thay em rồi đến bệnh viện sau, còn em cứ đến thẳng đó ngay nhé. Tôi cúp máy, tâm trí lộn xộn vì tin dữ bất ngờ, chiều qua tôi còn lái xe đưa ba đến nhà bác Hai ở chơi vài ngày, hai ba con còn nói chuyện vui vẻ mà bây giờ ba lại bị vậy sao? Dẫu biết rằng ba đã 76 tuổi, bệnh hoạn là điều sẽ xảy ra, nhưng tôi vẫn không thể chấp nhận, suốt con đường đi bộ từ văn phòng ra parking lot mà tay chân bồn chồn, không yên.
<!>
Ba không phải là ba ruột của tôi.
Ba và má làm đám cưới trong mấy ngày ba nghỉ phép ngắn ngủi trước khi phải trở lại đơn vị y chang trong bài thơ của Hữu Loan: “cưới vừa xong, là tôi đi ...”. Rồi chỉ vài tháng sau, má nhận tin ba mất tích trong mặt trận Đồng Hới, Quảng Bình. Ngày đất nước đổi chủ, khi các sỹ quan của chính quyền VNCH lần lượt bị đưa vào các trại “cải tạo” tập trung, má vẫn nuôi hy vọng ba đang ở trong nhà tù nào đó ở miền Bắc nhưng vẫn chẳng có tin tức gì.
Ở lứa tuổi 25, thiếu phụ trẻ còn chưa hết ngỡ ngàng trước sự đổi thay của thời cuộc, má bơ vơ giữa thế sự nhiễu nhương mà tin của chồng, dù sống hay chết, vẫn mịt mờ xa xăm. Trong khi nhiều người bị ép đi xây dựng vùng kinh tế mới, má may mắn thoát được vì có mẹ già yếu bệnh, nhưng với lý lịch có chồng “nợ máu nhân dân” má không xin được việc làm ở bất cứ “tổ hợp” hay hợp tác xã nào dù với đồng lương chết đói.
Thế là đồ đạc của cải trong nhà lần lượt đội nón ra đi, má theo các anh chị em họ hàng và chòm xóm buôn bán đủ nghề lặt vặt cho qua ngày, bữa no bữa đói, khoai sắn, bo bo, mì sợi, cuộc sống bế tắc không có lối thoát nào sáng sủa hơn.
Vài năm sau, ông “phó chủ tịch” phường trẻ tuổi mới được chuyển về, hay lui tới kiểm tra tình hình “hộ khẩu” nhân sự trong các “tổ dân phố”, thấy cảnh thiếu phụ miền Nam chờ chồng của má, ông động lòng thương, hứa sẽ giúp má vào làm trong tổ hợp sản xuất mì sợi của phường. Má trẻ người non dạ, yếu đuối cô đơn, lại mang tâm trạng chịu ơn ông “phó chủ tịch”, nên trong một phút giây yếu lòng, đã lỡ trao thân cho ông. Khi biết tin má mang thai, ông “phó chủ tịch” bị cấp trên phê bình, kiểm điểm, kết tội gian díu với vợ “ngụy quân ngụy quyền”, chịu hình thức kỷ luật về lại quê cũ ngoài Bắc, và từ đó ông đi biệt tăm, không một lời hỏi thăm hay giúp đỡ má trong cơn hoạn nạn.
Má sanh ra tôi trong âm thầm đắng cay (đi biển mồ côi một mình), thiên hạ cười chê đàm tiếu, cuộc sống vốn vất vả lại càng thêm chật vật, nhưng rồi cũng trôi qua khi mọi người xung quanh còn biết bao điều âu lo đối phó với chế độ mới, chính quyền mới. Hàng xóm cũng quen dần, chẳng ai còn dị nghị sự có mặt của tôi trên cõi đời bởi họ còn bận rộn với cơm áo gạo tiền.
Tưởng đâu chuyện của tôi sẽ êm xuôi theo dòng chảy cuộc đời, nào ngờ khi tôi lên 4 tuổi, bà ngoại vừa qua đời không bao lâu, má bỗng nhận được thư ba từ nhà tù Hoả Lò, báo tin sẽ trở về nhà với gia đình. Má sững sờ, hoang mang, xen lẫn niềm sung sướng hạnh phúc đến muốn khóc vì “tưởng người chết đi nhưng nay anh lại về, từ ngục tối hay mộ sâu” như trong một bài hát của Trần Thiện Thanh.
Khi ba vừa xuống xe xích lô ngoài đầu ngõ, đám đông vây quanh đón chào, chúc mừng Ba đã hồi sinh từ cõi chết, và nối đuôi đi theo ba đến tận cửa nhà. Trước tiên, họ vui mừng cho ba má tôi đoàn tụ sau bao năm tháng mỏi mòn, tưởng như không còn hy vọng, dù là mong manh. Nhưng họ cũng hiếu kỳ, tò mò chờ xem phản ứng của ba khi nhìn thấy “cục nợ đời” từ trên trời rơi xuống là tôi. Má như đã chuẩn bị sẵn, dẫn tôi ra trước mặt ba, nói nhỏ: “Chào ba đi con!”. Trái với sự tưởng tượng của chòm xóm, ba không biểu lộ gì, mà còn đưa tay ra, mỉm cười, chờ đợi. Tôi ngây thơ bé bỏng nào có biết gì, vội sà vào lòng ba, ôm cổ ba, ríu rít gọi “ba” và đùa nghịch mái tóc khô cứng còn vương bụi đường của ba.
Một hai tuần lễ sau, rồi cả tháng sau, hàng xóm vẫn thắc mắc vì chưa thấy “chiến tranh” nổ ra trong nhà tôi. Họ thì thầm, bàn tán: “Ông ấy là lính tâm lý chiến, đâu phải dạng vừa. Cứ chờ xem ông ấy sẽ có cách xử vợ”, thậm chí có người còn tỏ ra hiểu đời, tuyên bố: “Ối, quân tử trả thù ba năm vẫn chưa muộn!”.
Thể lực yếu và mắt kém, ba còn trong sự quản chế của địa phương, nên ba được người quen đưa vào làm việc trong hãng nước đá phụ việc giao nước đá cho các quán giải khát quanh vùng. Thuở ấy, nghề làm nước đá thịnh hành nên ba cũng phụ má chút đỉnh chuyện chi tiêu hàng ngày. Những buổi chiều cuối tuần, người ta lại thấy ba dẫn tôi đi dạo, lên tận khu cổng xe lửa, ở đó ba ngồi bên vệ đường, vừa hút thuốc vừa ngắm xe cộ qua lại, trong khi tôi vui thích leo lên cây trứng cá, hái những trái chín màu đỏ nhỏ xíu, rồi bỏ vào miệng ăn ngon lành vị ngọt đậm đà lạ kỳ của chúng. Trên đường trở về nhà, thỉnh thoảng ba còn mua một ổ bánh mì thịt, chia cho tôi một nửa, còn nửa kia dành cho má, tôi vừa bước chân sáo bên cạnh ba, vừa gặm bánh mì hồn nhiên trong ánh mắt yêu thương trìu mến của ba.
Có đôi lúc tôi bị mấy bà hàng xóm nhiều chuyện, thì thầm nhỏ to với tôi, kiểu nửa đùa nửa thật: “Mày không phải con của ba mày đâu, về nhà mà soi gương thử xem, mày chả giống ai trong nhà, mà giống ông Năm Lạc ở ngoài Bắc ấy”. Tôi chạy về méc má, má ký đầu kêu tôi đi tắm rửa, sau đó ba ôm tôi vào lòng và xoa đầu tôi: “Con là con gái của ba chớ của ai? Mấy bác chỉ nói đùa thôi mà!”
Đến lúc có chương trình đi định cư theo diện H. O do chính phủ Mỹ đề xướng, cả gia đình tôi lên đường đến Dallas làm lại cuộc đời mới, tươi sáng hơn nhiều so với dưới bầu trời u ám của Việt Nam do “bên thắng cuộc” gây nên.
Nơi đây, cũng như bao gia đình H.O khác, ba má tôi không ngại gian khó, hy sinh làm việc chăm chỉ cho tôi được yên vui học hành và tương lai trên quê hương thứ hai. Qua đây rồi, chẳng còn ai dòm ngó nói ra nói vào chuyện của tôi, cuộc sống gia đình tôi cứ trôi đi êm ả theo dòng thời gian, thế mà lại có ngày chính má lại nói ra sự thật với tôi trong một lần trên giường bệnh sau một thời gian đuối sức sau cả mổ tim vì “heart attack”.
Dù ba hết sức ngăn cản, má vẫn cố gắng nói, để xin lỗi tôi vì đã nói dối, rằng má mang thai tôi trong một lần đi tìm thăm ba và được ở lại qua đêm với ba trong trại “cải tạo”. Má cũng ngỏ lời tạ ơn ba vì tấm lòng bao dung độ lượng của ba, vì đã yêu thương hai má con mà má nguyện một đời ghi nhớ, xin mang theo cả vào kiếp sau. Tôi nhớ rất rõ khuôn mặt ba lúc đó, khóe mắt ướt lệ, nói với má rằng má không có lỗi, vì ba mất tích biệt tăm chẳng biết sống chết ra sao, chính ba mới là người cám ơn má, vì hậu quả những ngày trong tù, ba không còn khả năng sinh con, má đã cho ba món quà quý giá là tôi, để ba được làm ba, được biết cảm xúc ngọt ngào của tình phụ tử.
Má qua đời, để lại cho hai ba con sự trống vắng, hụt hẫng não lòng, nhưng đớn đau và hoang mang nhất vẫn là tôi. Dù biết rằng ai cũng cần biết sự thật của đời mình, nhưng có lúc tôi thà rằng má cứ để quá khứ ngủ yên, để tôi chỉ biết có một người ba kính yêu trên đời, để tôi khỏi phải phân vân về một người bố đã tạo cho tôi hình hài nhưng đã bỏ má con tôi biền biệt không chút xót thương, và ông vẫn hiện hữu đâu đó trên cõi đời này.
Nhưng cũng nhờ sự thật này, tôi mới nhớ lại cả quãng đời đã qua, ba chưa làm điều gì cho tôi một chút nghi ngờ tôi không phải là con ba. Nhớ khi lên bảy lên tám, trong một buổi tối mùa hè mải chơi với lũ bạn ở sân Chùa gần nhà, trời đổ cơn mưa lớn ào ào, kéo dài gần một tiếng đồng hồ, và khi cơn mưa vừa nhẹ hạt, tôi đã thấy ba đang bì bõm lội nước, quần ống thấp ống cao, tay cầm chiếc áo mưa, đến bên tôi đang đứng đợi, cẩn thận mặc áo mưa cho tôi, rồi cõng tôi trên lưng, đưa tôi về nhà an toàn ấm áp xiết bao. Qua bên Mỹ này, hễ khi đi xa nhà (thường là đi thăm họ hàng, người thân khi có việc cần) ba luôn mang quà về cho tôi. Ba luôn thưởng quà cho tôi khi tôi học giỏi, xứng đáng là “con gái rựơu” của ba.
Nhớ ngày tôi được trường Đại Học ở Austin kêu phỏng vấn trước khi nhập học, buổi sáng ngày đó, ba dậy thật sớm vẽ bản đồ đường đi (thuở đó chưa có GPS, Google Map), hai ba con ghé McDonalds uống cafe ăn sáng rồi lên đường. Ba chưa có kinh nghiệm tìm đường nơi thành phố lạ nên bị lạc đường, loay hoay mãi vẫn chưa tìm ra đúng hướng, sợ tôi bị trễ giờ, ba liền gọi taxi đưa tôi đến trường kịp trước giờ hẹn phỏng vấn. Chưa hết, biết tôi thích ăn bánh mì thịt Việt Nam, nên tranh thủ lúc tôi đang còn trong phòng phỏng vấn, ba tìm đường xuống phố Việt mua bánh mì cho tôi, thế là lại bị lạc đường một lần nữa, kết quả là cuộc phỏng vấn chỉ một tiếng đồng hồ, nhưng tôi phải ngồi chờ ba thêm một giờ nữa, hai ba con ăn vội miếng bánh mì trên xe trên đường trở về nhà trước khi trời về chiều để má khỏi sốt ruột.
Biết ba cô đơn nên khi tôi lấy chồng, chúng tôi vẫn ở chung với ba, chăm sóc vui vầy cùng ba theo những thăng trầm của cuộc đời. Để khuây khỏa với tuổi hưu, thỉnh thoảng ba đi gặp gỡ bạn bè cũ, hoặc đến nhà chú bác họ hàng ở chung thành phố, ở lại chơi vài ngày, ba thực sự an vui với tuổi già xế bóng.
Mấy tháng trước, tôi bỗng nhận được một lá thư từ Việt Nam, người gửi là Nguyễn Năm Lạc ở huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam. Bên trong có hai tờ thư, một tờ của bố tôi, Năm Lạc, ông cho biết đã tình cờ may mắn có được địa chỉ của tôi, đã biết má tôi không còn, ông chỉ mong tôi tha thứ vì xưa kia do hoàn cảnh bắt buộc ông phải bỏ rơi má con tôi. Tờ thư thứ hai của người em cùng cha khác mẹ của tôi, kể về những người em khác trong gia đình, về sự vui mừng khi biết có tôi là máu mủ đang ở Mỹ, rồi kể cho tôi nghe cuộc sống khó khăn ở miền quê xa xôi nơi đất Bắc, kèm theo tấm hình đại gia đình cho tôi biết mặt.
Kể từ khi biết được sự thật đời mình, tôi chưa hề mảy may nghĩ đến việc tìm gặp bố, chứ đừng nói đến chuyện liên lạc thư từ. Tôi đọc thư, xem hình mà dửng dưng xa lạ, bởi thời gian đã quá lâu, gần 40 năm rồi còn gì, sao bây giờ họ lại chạm vào vết thương quá khứ đời tôi? Tôi đưa cho ba xem tất cả, không ngờ ba lại khuyên tôi nên viết thư hồi âm và bỏ qua chuyện cũ. Tôi im lặng, xin ba cho tôi một thời gian suy nghĩ để hỏi lại lòng mình.
Tôi nhớ có đôi lần ba kể về khoảng thời gian mười năm ba bị giam trong ngục tối Hỏa Lò ngoài Hà Nội, ba bị đánh đập tra khảo thường xuyên, cho đến ngày được trả tự do, ba vừa bước lên khỏi hầm tối, người ba té nhào bởi đôi mắt hàng chục năm sống dưới bóng tối, nay bị ánh sáng mặt trời chiếu lòa quá mạnh, làm ba bị ngất. Lúc về nhà, nhờ có người thân bên Mỹ gửi thuốc cho ba chữa trị kết hợp đông y, đã cứu đôi mắt ba khỏi mù nhưng thị lực còn rất kém. Tôi đã từng hỏi:
- Ba có căm thù những người đã đánh đập, hành hạ ba không?
Ba đã trả lời ngay, không cần suy nghĩ, từ tốn nhẹ nhàng:
- Ba căm ghét chế độ Cộng Sản, còn những con người đánh đập ba, họ cũng chỉ là nạn nhân của chế độ đó mà thôi, ba không oán hận họ, ba đã tha thứ cho họ từ lâu rồi.
Mải mê suy nghĩ, tôi cũng đã đến bệnh viện kịp thời, bác sĩ cho biết ba chỉ bị stroke nhẹ, không nguy hiểm nhưng cần ở lại thêm vài ngày để theo dõi. Ba nằm đó, tuy hơi mệt mỏi nhưng mỉm cười khi thấy tôi, rồi nắm tay tôi:
- Ba bị nhẹ nhưng có thể sẽ bị nữa, nên nhân dịp này ba muốn nhắn nhủ con một điều...
- Dạ ba nói đi, con nghe, nhưng chắc chắn là ba sẽ khỏe lại, ba đừng lo nghĩ nhiều.
- Thì ba vẫn cứ muốn dặn con mà: con hãy viết thư cho bố con, nói lời tha thứ, để lương tâm ông ấy khỏi ray rứt, và nhớ liên lạc giúp đỡ các em con ngoài đó. Hàng năm vợ chồng con đều gửi tiền về Việt Nam giúp người nghèo khó bệnh tật, huống gì đây là những người em cùng cha khác mẹ, cũng là máu mủ của con, một giọt máu đào hơn ao nước lã, con à! Ba đã qua hết những thăng trầm đời người, thấm hiểu những phù du cuộc đời, càng thấm thía hơn hai chữ thứ tha, bởi mang oán hận chỉ làm nặng trĩu con tim, chi bằng tình yêu thương để lòng ta thanh thản, bình an. Con hứa với ba không?
Tôi nhìn ba, xúc động dâng tràn. Ba đã bỏ qua lỗi lầm của má, ba đã bao dung yêu thương tôi như con ruột, ba cũng đã tha thứ cho những con người từng đánh đập hành hạ ba trong tù, và bây giờ ba muốn tôi mở lòng với người bố và nối kết tình thương với những đứa em mà tôi chưa hề gặp mặt. Ba ơi, con thật hạnh phúc khi có ba trong cuộc đời này. Con sẽ làm theo lời ba, cám ơn ba đã làm ba của con và cho con bài học yêu thương, tha thứ.
Edmonton, tháng 6
Kim Loan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét