Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Ba, 9 tháng 1, 2024

Góc Việt Thi : Thơ Xuân Cao Bá Quát (2) - Đỗ Chiêu Đức





XUÂN NHẬT TUYÊT CÚ THẬP THỦ
(Mười bài thơ Tuyệt Cú Ngày Xuân)
1. Bài thơ Xuân Nhật Tuyệt Cú (kỳ 1) :
春日絕句 (其一) XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ (Kỳ 1)
五門樓上散嚴更, Ngũ môn lâu thượng tán nghiêm canh,
玄武城頭煙氣明。 Huyền Vũ thành đầu yên khí minh.
赤日自通南闕曙, Xích nhật tự thông nam khuyết thự,
春風先渡北江晴。 Xuân phong tiên độ bắc giang tình.
高伯适 Cao Bá Quát
<!>


* Chú thích :
- Nghiêm Canh 嚴更 : Sự canh gác nghiêm cẩn trong đêm.
- Huyền Võ Thành Đầu 玄武城頭 : Trên đầu thành Huyền Võ. HUYỀN VÕ 玄武 là một trong 4 chòm sao của "Nhị Thập Bát Tú" là : Thanh Long 青龍 7 sao ở phương Đông、Bạch Hổ 白虎 7 sao ở phương Tây、Chu Tước 朱雀 7 sao ở phương Nam、và Huyền Võ 玄武 7 sao ở phương Bắc; nên HUYỀN VÕ THÀNH ĐẦU là trên đầu thành Huyền Võ ở phương Bắc.
- Xích Nhật 赤日 : là Mặt trời màu đỏ chói (sau những tháng mùa đông ảm đạm).
- Nam Khuyết 南闕 : Chỉ Vòng thành ở phía cửa Nam trong kinh thành.
- Thự 曙 : là Rạng sáng, là Ánh nắng ban mai của mặt trời.
- Tình 晴 : là Nắng ráo.

* Nghĩa bài thơ :

TUYỆT CÚ NGÀY XUÂN (1)
Sự canh gác nghiêm cẩn trên thành lầu Ngũ Môn đã thư giản sau canh năm; Trên đầu thành Huyền Võ ở phương bắc mây khói đã sáng lên không còn u ám nữa. Mặt trời màu đỏ chói chan đã tự động làm cho phía thành Nam cũng sáng lên vì ánh nắng mặt trời. Gió xuân đã thổi qua dòng sông phía bắc trong cảnh trời nắng ráo.

Cảnh trí của buổi sáng đầu xuân đã bắt đầu đem đến ánh nắng đầu ngày rực rỡ ấm áp sau những ngày mùa đông ảm đạm lạnh lùng.

* Diễn Nôm :

XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ (Kỳ 1)


Tiếng trống Ngũ Môn canh đã tàn,
Đầu thành Huyền Võ khói sương tan.
Mặt trời rực nắng nam thành chiếu,
Giang bắc gió xuân đã độ sang !
Lục bát :
Ngũ Môn tiếng trống canh tàn,
Đầu thành Huyền Võ sương tan sáng trời.
Cửa nam nắng chiếu khắp nơi,
Sông bắc hây hẫy ngập trời gió xuân !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

2. Bài thơ Xuân Nhật Tuyệt Cú (kỳ 2) :

春日絕句(其二) XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ (Kỳ 2)

襟帶山河千里府, Khâm đới sơn hà thiên lý phủ,
風流歌管萬人家。 Phong lưu ca quản vạn nhân gia.
朱橋錦宇舊時燕, Chu kiều cẩm vũ cựu thời yến,
韋曲紅綢無賴花。 Vi khúc hồng trù vô lại hoa !
高伯适 Cao Bá Quát


* Chú thích :
- Khâm Đới 襟帶 : KHÂM là Vạt áo; ĐỚI là dây thắt lưng; KHÂM ĐỚI SƠN HÀ 襟帶山河 là Núi sông như vạt áo và dây thắt lưng ôm ấp quyện chặc lấy nhau, lấy ý ở một câu trong "Đằng Vương Các Tự 滕王閣序" của Vương Bột đời Đường là :

襟三江而帶五湖, KHÂM Tam giang nhi ĐỚI Ngũ hồ,
控蠻荆而引甌越。 Khống Man kinh nhi dẫn Âu việt.
Có nghĩa :
- Tam giang như vạt áo và Ngũ hồ như dây thắt lưng ôm quyện lấy nhau.
- Khống chế đất Man kinh và như dẫn dắt đất Âu Việt.

- Ca Quản 歌管 : CA là lời ca; QUẢN là Ống Tiêu, Ống Sáo; nên CA QUẢN chỉ Lới ca tiếng hát trong âm nhạc hòa tấu, chỉ sự hát xướng vui chơi.
- Chu Kiều 朱橋 : tức là Cầu Chu Tước trong bài Ô Y Hạng của Lưu Vũ Tích :

朱雀橋邊野草花, Chu Tước kiều biên dã thảo hoa,
烏衣巷口夕陽斜. Ô y hãng khẩu tịch dương tà !
Có nghĩa :
Bên câu Chu Tước cỏ hoa hoang,
Trước hẽm Ô Y nắng xế tàn.
- Cẩm Vũ 錦宇 : CẨM là Gấm; VŨ là ỐC VŨ 屋宇 là Nhà cửa; nên CẨM VŨ là Nhà cửa đẹp như gấm, chỉ nhà giàu có khá giả.
- Vi Khúc 韋曲 : Tên một con phố ở Trường An ngày xưa, trong bài thơ mượn để chỉ kinh thành Thăng Long.


- Hồng Trù 紅綢 : là Gấm lụa màu đỏ, ở đây chỉ khúc múa bằng gấm lụa màu đỏ ngày xưa, HỒNG TRÙ là múa lụa đỏ chỉ khúc múa vui chơi ngày xuân.
- Vô Lại 無賴 : là Không cần dựa dẵm, không cần nhờ cậy...

* Nghĩa bài thơ :
Tuyệt Cú Ngày Xuân (2)
Các phủ đệ kéo dài cả ngàn dặm như núi sông ôm ấp lấy nhau, muôn vạn nhà đều có cuộc sống phong lưu trong lời ca tiếng hát vang lừng. Những con chim én thuở xưa bên cầu Chu Tước cạnh các nhà giàu có ngày trước lại bay về. Trên phố Vi Khúc ở Trường an các điệu múa lụa đỏ rực rỡ mà không cần nhờ vào những đóa hoa xuân.

Cảnh thái bình thịnh vượng giàu có vui chơi của cư dân đất kinh thành trong những ngày đâu xuân rực rỡ.
* Diễn Nôm :

XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ (Kỳ 2)


Nhà cửa núi sông muôn dặm xa,
Phong lưu hát xướng tự muôn nhà.
Én xưa Chu tước nay tìm đến,
Lụa đào ca múa át ngàn hoa !
Lục bát :
Núi sông ôm ấp muôn nhà,
Phong lưu cuộc sống hát ca tư bề.
Én cầu Chu tước tìm về,
Vi Khúc múa hát chẳng hề nhờ hoa !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

3. Bài thơ Xuân Nhật Tuyệt Cú (kỳ 3) :

春日絕句(其三) XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ (Kỳ 3)

旭掛旗臺煙水消, Húc quải kỳ đài yên thủy tiêu,
三營四觀日迢迢。 Tam doanh tứ quán nhật thiều thiều.
萬重山勢長春色, Vạn trùng sơn thế trường xuân sắc,
千尺江流送往潮。 Thiên xích giang lưu tống vãng triều.
高伯适 Cao Bá Quát


* Chú thích :
- Húc 旭 : là HÚC NHẬT 旭日 Mặt trời buổi sáng, Mặt trời mới mọc.
- Tam Doanh Tứ Quán 三營四觀 : Các đơn vị tổ chức của quân đội ngày xưa.
- Nhật Thiều Thiều 日迢迢 : Nếu NHẬT là Ngày, thì là Ngày dài dằng dặc; Nếu Nhật là NẮNG, thì có nghĩa là Nắng chan chan.
- Sơn Thế 山勢 : là cái thế của núi non.
- Vãng Triều 往潮 : Nước thủy triều rút đi.

* Nghĩa bài thơ :
Tuyệt Cú Ngày Xuân (3)
Khi mặt trời buổi sáng mọc, quân kỳ được treo lên kỳ đài thì hơi nước ẩm cũng tiêu tan. Trong tam dinh tứ quán ngày đã trở nên dài dằng dặc (tràn ngập cả nắng vàng). Chập chùng muôn vạn thế núi đều đầy hương sắc của mùa xuân. Trong khi ngàn thước sông cuộn trôi cũng đã cuốn đưa nước thủy triều đi xuống.

* Diễn Nôm :

XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ (Kỳ 3)


Sáng thượng kỳ đài mây khói tan,
Ba dinh bốn quán nắng chan chan.
Muôn trùng thế núi đầy xuân sắc,
Ngàn thước sông trôi nước xuống ngàn.
Lục bát :
Kỳ đài sáng khói mây tan,
Ba dinh bốn quán nắng vàng đầy vơi.
Khắp nơi thế núi xuân tươi,
Muôn ngàn sông chảy cuốn lui thủy triều.
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm.

Hẹn bài dịch tới !

杜紹德
Đỗ Chiêu Đức

Không có nhận xét nào: