Giáo-Sư Lê Hữu Mục đã từng ở Huế, và tôi thì suốt thiếu-thời ở Huế, cho nên Giáo-Sư Lê Hữu Mục đã là một phần trong ký-ức của tôi. Hồi đó, tôi “được” động-viên chuyên-môn với tư-cách “văn-nghệ-sĩ & ký-giả” vào làm việc tại Phòng 5 Bộ Tham-Mưu Đệ-Nhị Quân-Khu, từ tháng 4 năm 1954 đến tháng 10 năm 1956, thời-gian xảy ra nhiều biến-cố sôi-động nhất trong lịch-sử nước nhà.
<!> Tôi vừa viết bài tuyên-truyền và cũng đích-thân lên xe “Tác-Động Tinh-Thần” (Moral Action= tiền-thân của Tâm-Lý-Chiến [Chiến-Tranh Tâm-Lý], rồi Chiến-Tranh Chính-Trị sau này) của Đại-Đội Võ-Trang Tuyền-Truyền đi phổ-biến tại các nơi giáp vùng Việt-Minh, vừa phụ biên-tập tuần-báo “Tiếng Kèn” của ký-giả Lê Đình Thạch, vừa nhập vào toán phóng-sự chiến-trường của nghệ-sĩ Tô Kiều Ngân, vừa viết thời-luận hằng ngày cho chương-trình phát-thanh “Tiếng Nói Quân-Đội tại Đệ-Nhị Quân-Khu”.
Tôi được Bộ Tư-Lệnh, do Tham Mưu Trưởng là Thiếu-Tá Trần Thiện Khiêm ký Công-Vụ-Lệnh (bằng tiếng Pháp), cử kiêm-nhiệm Trưởng Ban Phát-Thanh, thông-thường gọi là Trưởng Đài hoặc Giám-Đốc Đài “Tiếng Nói Quân-Đội tại Miền Trung”, thay-thế nhạc-sĩ Anh-Chương.
Khi ông Ngô Đình Diệm về nước làm Thủ-Tướng, Trung-Tướng Nguyễn Văn Hinh, với tư-cách Tổng Tham-Mưu-Trưởng Quân-Đội Quốc-Gia Việt-Nam, đã sử-dụng quân-đội để chống lại, với khẩu-hiệu “Mười Vé Phi-Cơ cho gia-đình họ Ngô [ra khỏi Việt-Nam], hay là tính-mạng của cả trăm ngàn (?) chiến-sĩ Quốc-Gia?”
Tại Đệ-Nhị Quân-Khu, dưới quyền Tư-Lệnh là Đại-Tá Trương Văn Xương, Phòng 5, do Đại-Úy Đặng Văn An chỉ-huy, cầm đầu các hoạt-động của quân-đội, và cả dân-chúng, chống lại họ Ngô. Và tôi là người phụ-trách viết bài thời-luận, tuyên-truyền, hiển-nhiên phải nằm trong phe Hinh+Xương.
Nhưng tôi tự mình tách ra, tránh né âm-mưu của họ, bằng cách không những đã không viết gì chống-đối Ông Diệm, mà còn đả-kích thực-dân Pháp lúc đó đang còn thao-túng chính-quyền Quốc-Gia và có cố-vấn trong Quân-Đội Việt-Nam, đồng-thời đề-cao lý-tưởng tự-do mà Hoa-Kỳ gieo-rắc khắp năm châu.
Đài Huế hồi đó phát trên làn sóng rất mạnh, thính-giả nghe rõ cả ngoài Miền Bắc lẫn trong Miền Nam.
Trong những ngày khởi-sự ủng-hộ Ông Diệm, tôi được người bạn là nhạc-sĩ Ngọc-Linh, từ nhóm thân-Diệm đầu tiên, đến “móc nối” để lợi-dụng Tiếng Nói Quân-Đội mà củng-cố vị-thế của thủ-tướng đang bấp-bênh trong Nam.
Tôi biết rõ hơn về nhân-vật Ngô Đình Diệm, lúc đó vẫn còn xa-lạ đối với đại-đa-số đồng-bào, phần lớn là nhờ nhạc-sĩ Ngọc-Linh.
Thế là tôi công-khai ly-khai, dùng Đài Quân-Đội Miền Trung để chính-thức chống lại Hinh+Xương, tức là chống lại Pháp, và hậu-thuẫn Diệm là “người của Thế-Giới Tự-Do” tức của Hoa-Kỳ.
Phe Hinh+Xương phải lập một đài phát-thanh khác, nhưng nhỏ và yếu nên chỉ nghe được quanh Huế mà thôi.
Kết-quả là “Tiếng Nói Quân-Đội” của tôi, nghe được khắp nước, nhất là ở Sài-Gòn, đã góp một phần tích-cực tác-động quân-sĩ, trấn-an dân-nhân, ổn-định tình-hình, giúp Ngô Thủ-Tướng thoát cảnh khốn-đốn ban đầu...
Nhạc-sĩ Ngọc Linh là bào-đệ của Giáo-Sư Lê Hữu Mục. Tôi quen Giáo-Sư Lê Hữu Mục trước tiên là qua nhạc-sĩ Ngọc-Linh.
Lê Hữu Mục là một trong số các nhà khoa-bảng/trí-thức hiếm-hoi của Huế thời bấy giờ. Ông dạy đại-học, nhưng ông cũng là một tay chơi đàn tuyệt-vời.
Chương-trình phát-thanh của tôi, ngoài các mục bình-luận thời-cuộc, tin-tức thời-sự, điểm báo, phóng-sự chiến-trường, quân-nhân tìm hiểu, Anh-ngữ thực-hành (lớp dạy tiếng Anh vô-tuyến đầu tiên cho người Việt-Nam do tôi đảm-trách), thi-ca, kịch vô-tuyến, nhạc ngoại-quốc, cổ-nhạc, dân-ca 3 Miền, đương-nhiên là có tân-nhạc; mà mục tân-nhạc của Đài Quân-Đội Miền Trung hồi ấy thì vượt trội hẳn mục tân-nhạc của Đài dân-sự Huế, vì các tài-năng, nhất là giới trẻ, đều đã đổ dồn qua phía nhà-binh (một phần là do Phòng 5 trả tiền thù-lao cao hơn).
Các ca-sĩ như Ngọc-Cẩm & Nguyễn Hữu Thiết, Kim Tước, Hà Thanh, Bạch Yến, v.v... đều hát ở đây trước khi dời vào Sài-Gòn.
Điều-khiển ban tân-nhạc thì có các nhạc-sĩ tên-tuổi như Lê Quang Nhạc, Ưng Lang, Lâm Tuyền, Văn Giảng, Lê Trọng Nguyễn, v.v...
Nhưng trong mấy năm có Ngọc Linh giúp tôi ở Đài Quân-Đội Miền Trung thì trên thực-tế Giáo-Sư Lê Hữu Mục là nhạc-trưởng, vì ông có tài sử-dụng và phối-hợp các nhạc-cụ, sắp-xếp chương-trình, giải-quyết các vấn-đề liên-quan.
Điều đáng nói nhất là Giáo-Sư Lê Hữu Mục chỉ đến chơi đàn với tư-cách nghệ-sĩ và thân-hữu, cống-hiến tài-năng cho thính-giả bốn phương, chứ không phải là bán công trình-tấu để nhận tiền thù-lao.
Do đó, Giáo-Sư Lê Hữu Mục có nhiều uy-tín hơn và được mọi người kính trọng hơn.
Tôi gần-gũi với Giáo-Sư Lê Hữu Mục nhiều hơn là vào thời-gian ông ra tờ tuần-báo “Rạng Đông”.
Tôi thấy ông làm mọi việc, hầu như là chủ-nhiệm kiêm chủ-bút kiêm tổng-thư-ký tòa-soạn, đích-thân đọc kỹ từng bài lai-cảo, tìm hiểu từng tác-giả, giải-đáp thắc-mắc cho từng người.
Thế mà ông còn lo về phần trước-tác của chính ông.
Trong lúc đó, ông là giáo-sư giảng-dạy tại Viện Đại-Học Huế, nơi có đặc-san “Đại Học” với sự đóng góp bài-vở giá-trị, nhất là nghiên-cứu văn-học, triết-học, lịch-sử, v.v... của những thành-phần ưu-tú như ông.
Riêng với tờ tuần-báo “Rạng Đông”, tôi được ông giao giữ mục “Vườn Thơ”.
Rõ-ràng là ông, nếu không làm thơ, thì cũng là một tay rành về thơ, hơn là chỉ một độc-giả yêu thơ; và ông đã dành thời-gian mời các nhà-thơ đến dự những buổi mạn-đàm về thơ, tại tư-thất ông là nơi dùng làm tòa-soạn của tờ “Rạng Đông”.
Trong ký-ức tôi, ít nhất có hai kỷ-niệm vẫn còn đậm nét sau bao khúc quanh thời-gian.
Từ cuối tháng 10 năm 1956 trở đi, mãn hạn quân-dịch, tôi rời “Tiếng Nói Quân-Đội” ra khỏi môi-trường văn-nghệ (văn thơ kịch nhạc) của chính-quyền, về lại với ngành Cảnh-Sát Công-An.
Bên phía Thông-Tin (chủ-chốt văn-nghệ), từ Nha Trung-Phần đến Ty Thừa-Thiên, có chuyện tranh-giành ảnh-hưởng giữa các nhân-vật, đều là nhà-thơ, về các chức-vụ chỉ-huy trong ngành Thông-Tin. Trong khung-cảnh đó, có việc dò-xét moi-móc đời tư của nhau, cốt dìm người khác để mình leo lên.
Trong một buổi họp tại tòa-soạn tuần-báo “Rạng Đông”, nhà-thơ Đỗ Tấn (tên thật là Đỗ Tấn Xuân, tác-giả tập thơ “Mùa Hoa Sim Nở”), đã đùa chỉ tôi mà bảo: “Anh là cảnh-sát văn-nghệ đấy nhé!” Nó chỉ có nghĩa là một viên-chức cảnh-sát mà làm văn-nghệ, nhưng nó cũng có nghĩa ngầm là một viên-chức mật-vụ, hoặc văn-nghệ-sĩ mà làm công-tác dò-xét, nhắm chính vào giới văn-nghệ. Ý hẳn Đỗ Tấn muốn chọt một kẻ nào đó trong số nhà-thơ viên-chức Thông-Tin có mặt trong buổi họp ấy, song câu nói đó làm tôi nổi sùng, vì tôi không ở trong ngành Thông-Tin.
Tôi thấy Giáo-Sư Lê Hữu Mục có vẻ tinh-ý thông-cảm tâm-trạng của tôi.
Lát sau, ông lấy ra một bài thơ của tôi, đọc lên, phê-bình với lời ngợi-khen, rồi kết-luận:
“Thanh-Thanh bao giờ cũng vẫn là Thanh-Thanh”.
Tôi đoán là ông gián-tiếp trả lời Đỗ Tấn giùm tôi, nên tôi thầm cám ơn ông.
Hồi đó, dân Huế vẫn còn thủ-cựu, nếu không nói là cổ-hủ, lạc-hậu hay quan-liêu. Đi ra khỏi nhà thì phải phục-sức đường-hoàng, nhét áo trong quần, không mặc sơ-mi “chim-cò” (có hình, có hoa). Nói-năng thì phải lựa lời, nhất là tôn-trọng tuổi-tác, địa-vị xã-hội, cấp-chức chính-quyền.
Những ai tiếp-xúc với Giáo-Sư Lê Hữu Mục, dù không phải là học-sinh/sinh-viên, cũng vẫn gọi ông là “giáo-sư”, thông-thường thì gọi ông là “ông”.
Thế mà, có một hôm, trong buổi họp, nhà-thơ Trần Dạ Từ, đã gọi Giáo-Sư Lê Hữu Mục là “anh”.
Tiếng “anh” mà Trần Dạ Từ, người trẻ tuổi nhất, chưa có sự-nghiệp, dùng để gọi một giáo-sư đại-học, một trong số ít các nhà trí-thức được chế-độ trọng-vọng, đã gây ngạc-nhiên cho nhiều người.
Trần Dạ Từ thì hồn-nhiên, không để ý gì đến chuyện đó.
Nhưng khi ra khỏi tòa-soạn “Rạng Đông”, tôi nghe có tiếng xì-xầm: “ông Mục bất-bình vì Trần Dạ Từ gọi ông là anh”.
Dù sao, tôi vẫn không tin là Giáo-Sư Lê Hữu Mục bực Trần Dạ Từ về chuyện đó, bởi ông không hề có ý lập nên một Hội của các nhà-thơ, để giữ chức-vụ Hội-Trưởng hay Chủ-Tịch (như bên “Hội Văn-Nghệ-Sĩ và Ký-Giả Miền Trung”), không phân-biệt gì khi mời các nhà-thơ đến họp, và trước sau ông cũng vẫn là một người yêu thơ, có tâm-hồn thơ.
Về sau, vì hoàn-cảnh chung của Đất Nước, cũng như riêng của cá-nhân, tôi không còn gặp mặt Giáo-Sư Lê Hữu Mục, nhưng vẫn gặp ông trong một số tác-phẩm của ông.
Về mặt văn-học nghệ-thuật, ông đã đóng góp vào kho tàng Văn-Hóa Việt-Nam nhiều công-trình biên-khảo có giá-trị cao.
Tuy ở xa ông, nhưng khi đề-cập đến ông, tôi vẫn còn nhớ thời-gian cộng-tác với ông qua tờ tuần-báo “Rạng Đông” với lòng kính mến như tự ngày nào.
Alameda, Tháng Tư 2007
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét