Mấy người bạn thân biết tôi còn một số “kỷ niệm vụn” nữa chưa
chịu tiết lộ hết, điện thoại cằn nhằn hoài, biết từ chối
không được, tôi liền cầu cứu
với anh Huân. Ông anh tôi cười:
- Thì cứ bật mí , nhưng bật... nhẹ thôi. Nhớ là tránh, đừng đụng nhiều quá đến chuyện đời tư là
được. Hoặc có đụng đến chuyện
riêng tư của ai, thì chỉ nên nhắc đến những chuyện “không có hại”mà thôi.
Tôi nói với
ông anh tôi:
- Nhưng em đâu
có biết tất cả mọi chuyện, anh giúp em với. Anh kể, rồi em ghi lại.
- Được – ông
anh tôi nhận lời.... À, chú cũng có thể hỏi anh Tâm. Ổng cũng biết
nhiều đấy.
Thế là tôi
lại có những dòng này. Nhân vật đầu tiên tôi kể ở đây là nhà thơ,nhà văn tiền bối Đinh Hùng. Ông Đinh
Hùng những khi làm thơ tình cảm ký bằng tên thật, nhưng khi viết truyện dã sử như Kỳ
Nữ Gò Ôn Khâu, Tên Đao Phủ Thành Đại La, ông dùng bút hiệu Hoài Điệp
Thứ Lang và làm thơ trào phúng, ông dùng bút hiệu Thần Đăng.
Nhà thơ họ Đinh cũng như một
số văn nghệ sĩ bậc tiền bối
khác, cũng gia nhập “xã hội” Phi Yến Thu Lâm, tức “phiện thú lắm”. Một lần theo anh Hoàng Trúc Tâm đến thăm ông tại nhà riêng trên căn lầu đường Trần văn Thạch Tân Định, nhà thơ vừa
tiếp chúng tôi vừa Phi Yến Thu
Lâm. Thấy nhà thơ nằm hút trong một tư thế “lạ”, nhưng tôi không dám hỏi, chỉ đưa
mắt như dục anh Tâm lên tiếng.
Mãi sau, anh Tâm mới hỏi nhà thơ:
- Anh nằm hút, sao không dùng gối gối đầu mà
lại dùng lon Guigoz, bộ không đau đầu sao.
Đinh Hùng
cười:
- Moa dùng
lon Guigoz làm gối quen
rồi, gối đầu bằng gối thường hút hoài cũng không “phê”.
Tâm:
- Thế ông đựng gì trong đó. Kim cương hay vàng khối.
Ông Đinh Hùng:
- Còn quý
hơn vàng, hơn kim cương nữa... sảm thuốc đấy ông ạ.
Thì ra sau
khi hút thuốc rồi, tàn thuốc được nhà thơ “cất” vào lon để nếu không viện trợ cho ai, thì nhà thơ
mang đổi lấy thuốc mới, bớt được nhiều tiền.
Ông nói:
- Đỡ hao xu lắm đấy.
Anh Tâm hỏi:
- Bộ họ thu lại, cũng bán được à.
- Được chứ,
những người không có điều kiện hút thuốc nguyên chất, họ mua về “thầu”, tức là nuốt, hay pha chế để chích.
Thường sau mỗi lần thu thanh như chương trình “Những Trang Sử Việt” do ông Đinh Hùng thực hiện trên đài phát thanh Quân đội, mà gặp hôm anh Tâm cũng có chương trình thu
Kịch Vô Tuyến Truyền Thanh hay tuần báo Văn Nghệ Truyền Thanh do Thiên Hà phụ trách xong, hai
người hay rủ nhau ra Câu Lạc Bộ Báo Chí, trước trụ sở Quốc Hội, góc đường Tự Do, Lê Lợi uống bia. Anh Nguyễn Đình Toàn cũng hay có mặt tại đó.
Một lần, uống được một lúc, ông Hùng cởi bỏ áo
Vest, khoác lên lưng ghế, anh Toàn cười bảo:
- Mày cởi
áo ra, coi chừng gió quạt trần nó
thổi bay mày đi bây giờ.
Ông Hùng:
- Tao gầy, nhưng đâu đến nỗi nào. Bữa nay nóng quá, toát cả mồ hôi ra rồi.
Anh Toàn:
- Mày mà
cũng có mồ hôi
cơ à. Tao tưởng trong người mày chỉ toàn dầu lạc –dầu đậu phọng - để đốt đèn hút thôi chứ.
Nghe anh Toàn nói thế, ông Đinh
Hùng cười hề hề. Họ thân nhau, luôn xưng hô mày tao,
nên những lời đùa rỡn, không vì thế làm mích lòng nhau.
Năm 1967, bệnh ung thư gan của ông Hùng trở nặng, không qua khỏi. Đám tang của ông được rất nhiều người trong giới văn nghệ sĩ và
người hâm mộ tham
dự. Linh cữu được các người thân quen chuyển: hàng đầu do thi sĩ Vũ Hoàng Chương và đạo diễn Thiếu Lang khiêng, hàng thứ hai do Nguyễn Đình Toàn và Hoàng Trúc Tâm, hàng
thứ ba do hai đạo diễn Hoàng Anh Tuấn và Minh Đăng Khánh phụ trách, hàng
thứ tư do nhạc sĩ Thục Vũ và thi sĩ Đông Hồ.
Khi linh cữu
được chuyển lên xe tang và chuyển bánh, mấy người bạn con ông Hùng và những
người hâm mộ ông chia nhau khiêng hoa tang, số hoa còn lại, được chất đầy xe tang và xe của thân hữu đưa tiễn. Ngoài những người khiêng hoa đi bộ trước
xe, hai bên xe tang còn hai hàng thiếu nữ mặc toàn đồ trắng đi kèm hai bên. Và, mặc dù trời mưưa, những người mang hoa và các thiếu nữ áo trắng vẫn
không chịu lên xe theo lời mời của
tang chủ. Nhà thơ Đinh Hùng được an táng tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi.Ông mất năm 53 tuổi.
Trong làng
Phi Yến Thu Lâm sống bằng nghề viết lách, phải kể đến cao thủ Mặc Tử Nguyễn văn Thành. Anh Thành cộng tác với
nhiều báo, nhưng nơi “kiếm cơm” chính của ảnh là báo Sài Gòn
Mới của bà Bút Trà. Tuy là đệ tử Phi Yến Thu Lâm, nhưng Mặc Tử khác
với các cao thủ khác là không bao giờ ép hay mời ai hút thử bao giờ.
Mặc Tử thường nói phải có duyên với ả phù dung mới hút được, chứ
miễn cưỡng, hút vào ói
mửa ra hết,
phí thuốc đi...Một
điều “khó tin mà có
thật” là Mặc Tử đi hút lại hay rủ Hoàng Trúc Tâm đi cùng, dù anh Tâm
không nghiện hút. Rủ anh Tâm đi chỉ cốt có người có xe chở đi, nhất là có người chịu nghe Mặc Tử tâm
sự. Đến bàn hút, Mặc Tử phê, Tâm ngồi bên nghe Mặc Tử nói. Cũng nhờ vậy,
anh Tâm biết thế
nào là dọc tẩu tốt,
cái nào dở. Theo Mặc Tử, dọc tẩu
tốt, ngon, là dọc “bão
đăng hoài thai” -tức diện để thuốc hút phải úp khít vào ngọn đèn, còn thân dọc
tẩu phải có những đoạn hơi phình lên như “có chửa” mới là dọc tẩu
tốt. Cũng nhờ Mặc Tử, mà anh Tâm còn biết được một điều “bí mật” là phần nhiều các đệ tử Phi Yến Thu Lâm rất ghét
nước, do vậy các ngài ít khi tắm, vì sợ nước làm cho “bay” mất thuốc. Còn nếu như bất đắc dĩ phải tắm, thì đa số chỉ lau người bằng khăn ướt hay tắm... búng.... “tắm búng” nghĩa là khi người các ngài có
mồ hôi, các ngài bèn
dùng tay gãi, rồi
búng ghét đi cho... sạch. Khi nghe Mặc
Tử nói cho biết “lối tắm” này, anh Tâm đã hét lên... sợ, thì Mặc
Tử cười, bảo với anh Tâm: đừng hở cho ai biết nghe mày... “bí mật quốc gia đấy”.
Hoàng Trúc
Tâm và Mặc Tử
là bạn học với nhau trong mấy năm
đầu di cư từ miền Bắc vào Nam. Mặc Tử còn kể lại chuyện thời gian đầu anh ở quân trường Quang Trung, vì bị “cảnh sát mộ - tức là bị bắt lính” bất tử nên đã khốn khổ vì bị cơn ghiền hành, vì ngoài mấy “bi” xái để thầu, đâu có thuốc đâu. Sau, có anh bạn bên Trung Tâm ba nhập ngũ gửi
gấm, nên Mặc Tử đã được ông trung sĩ thư ký tiểu đoàn tân binh thương tình giúp đỡ,
bằng cách cho làm thư
ký đại đội tân binh.Được
làm thư ký đại đội, không phải tập nhiều, và có thể ở “nhà”, ở doanh trại,
những khi cơn ghiền đến có thể chống trọi bằng mấy xị rượu
cho qua cơn. Và
lâu lâu, ông trung sĩ lại dẫn Mặc Tử ra ngoài Trung Chánh kiếm mua giấy, màu, về làm bích báo cho đại đội. Nhân dịp đó, Mặc Tử đã tìm ra một cao thủ địa phương có bàn đèn tại nhà, thuận cho Mặc Tử hút. Vét hết tiền lương
quân dịch đưa cho chủ nhà để
trả tiền thuốc, thế là Mặc Tử thoát được “cơn nguy biến”.Mặc Tử còn gặp may nữa, là trước khi tất cả các tân binh quân dịch được đi phép hàng tuần, trong đại đội của anh, có một anh bạn ở Chợ Lớn được đi phép đặc biệt, vì có tang ông bác ruột, thế là Mặc Tử bèn nhờ anh bạn này tìm cách kiếm cho mình bộ đồ nghề để
tự hút, mà không còn phải phiền đến người khác. Lúc đầu anh bạn này từ chối, vì anh đã từng chứng kiến ông bố ruột anh khổ sở vì thuốc xái, nhà đã nghèo, kiếm không đủ ăn thế mà có đồng nào ổng lại nướng hết cho Phi Yến Thu Lâm, thú chẳng thấy đâu, trong khi vợ con đói lên đói xuống. Nếu như không nhờ được giới thiệu làm
trung gian cung cấp rau
trái cho quân đội Mỹ, thì gia đình đã không thể ngóc lên nổi. Khi thấy bị từ chối, Mặc Tử
bèn “biểu diễn”
một màn “khổ nhục kế” là đang ngồi nói chuyện, cao thủ nhà ta tự dưng
ngã vật ra, mắt
trợn trừng, chân tay co giật,
làm như “sắp đi” đến nơi, chừng được mớm mấy bi sảm mới dần tỉnh lại, thều thào:
- Không thóc
khổ thế đấy, tưởng vài bi để dành đợi bạn đi
phép giúp có đồ nghề, nên không dám xài hết... không ngờ....
Cao thủ Mặc
Tử chỉ than thân trách phận vậy thôi, không ngờ anh bạn Chợ Lớn chợt
nhớ đến ông già mình cũng
từng bị như vậy, nên đành nhận lời giúp, sau khi không quên lên lớp:
“không biết hút
sách ngon lành gì mà mấy
người bập vào
để đến nỗi khổ thế không biết. Tao có chết cũng không bao giờ ngậm vào cái dọc tẩu”. Và thật không ngờ, khi hết phép đặc biệt trở về, anh bạn Chợ Lớn đã dúi cho Mặc Tử cái dọc tẩu tuy cũ, nhưng Mặc Tử nhà ta
bảo còn tốt
chán. Về sau
mới biết anh bạn Chợ Lớn đã
lượm được cái dọc tẩu của ông già ảnh bỏ đi, vì đã khá giả, ổng
đã mua sắm được
bộ đồ ”ra hồn”. Anh bạn Chợ Lớn đã gỡ cái mặt để nhồi thuốc ra, phần diện dấu vào hộp đồ ăn,
còn cái dọc cột chặt theo bắp chân. Anh bạn không những không lấy tiền mà còn trả lại số tiền Mặc Tử gửi mua. Nhưng có đồ nghề rồi, lại khổ nữa, vì không tạo ra được “sân chơơi”, vì lính tráng ngủ chung trong dẫy nhà cả chục giường, không thể ngang
nhiên nằm hút trong phòng
được, lại còn phải dấu an
ninh, cuối
cùng Mặc Tử tìm cách “thăng thiên”, tức là leo lên trần nhà, đặt một tấm ván lên đó, nằm hút. Cũng có lần bị an ninh lùng vì mùi thuốc phiện thơm lừng bay xa, nhưng rồi an ninh cũng bó tay, vì không ai ngờ cao
thủ nhà ta lại tạo “trường bắn” trên trần nhà như vậy.
Anh Huân tôi kể,
một lần theo Mặc Tử đến nhà một “đồng nghiệp” xin bài cho báo xuân, khi
anh ấy còn ngoài “dân
sự”ông này cũng là một tay
Phi Yến Thu Lâm có hạng, ông ta có hẳn một căn gác lửng bằng gỗ dùng “để phê”, lần đó anh Huân tôi đã được chứng kiến một cảnh tưởng chỉ có trong tưởng
tượng, đó là khi anh Mặc Tử và ông bạn phê được một lát, thì từ đâu đó,
một con thạch sùng, hay còn gọi là con mối, bò ra khi ngửi thấy mùi thuốc. Con thạch sùng này có màu trắng ngà, nhìn rất sạch, rất
đẹp, nó cũng đã bị ghiện. Không những nó bò ra “hút” mà còn
tỏ ra thân thiện với chủ nhà, vì
có lúc, anh Huân tôi thấy nó
leo lên đùi chủ nhà nằm mà
không một chút sợ hãi. Mặc Tử bảo đó là bạn hút lâu năm của ông bạn anh.... Mặc Tử sau thời gian huấn luyện ba tháng ở quân trường, cộng
thêm mấy năm được giữ lại làm việc tại phòng Tâm Lý Chiến Quang Trung, anh đã bị đổi ra sư đoàn 5 bộ binh, vì lý lịch nghiện hút. Mặc Tử bị đổi ra đơn vị mới đúng vào thời điểm chiến trường An Lộc gay go nhất. Anh đã
tử trận ngay
lần đầu nhẩy trực thăng vận.
Anh Huân tôi
kể tiếp: từ chuyện con
thạch sùng ghiền thuốc phiện, anh nhớ lại một vị đàn anh trong làng báo trong một lần nhậu đã
kể, khi chưa di cư ông đàn anh đã làm báo viết văn... và hẳn nhiều người còn nhớ khoảng thời gian
1930, 1932 ở Hà Nội - khu vực Hàng Đào, Hàng Bạc đã xảy ra mấy vụ trộm,
mà không tìm ra thủ phạm.Điều lạ
là nhiều nhà bị trộm vét
khi chủ nhà có mặt ở
nhà, hoặc bị trộm vét mà cửa vẫn đóng, then vẫn cài.Đặc biệt, hình như kẻ trộm biết lựa đồ để lấy. Toàn những thứ gọn nhẹ, đắt tiền như đồng hồ,
kính, vòng chuỗi.Cảnh
sát, miền Bắc gọi là Phú Lít, từ chữ Police mà ra, cho người canh rình nhiều ngày, nhiều nhóm bất hảo được gọi điều tra, nhưng họ đều
chứng minh được họ không phải là thủ phạm những vụ trộm ấy. Mãi đến một lần khu Hàng Đào, Hàng Bạc bị mất điện do trận mưa to gió lớn tạo ra, nhân viên điện lực sau khi sửa
chữa, đã tìm thấy xác
một con khỉ khá lớn, bị điện
giật chết, do
giây điện đứt, điện truyền vào
một lan can bằng sắt một căn
nhà lầu, trên mình con khỉ
còn quấn vòng xuyến, chắc mới trộm được. Lúc đó, mọi người
mới biết thủ phạm các vụ
trộm bí mật. Cũng từ xác chết của
con khỉ, cảnh sát đã tìm ra thủ phạm chính là một anh chệt già, ghiền thuốc phiện. Ông tàu này đã huấn luyện cho chú khỉ đi chôm đồ về nuôi ông ta. Nhờ thân hình nhỏ, chú
khỉ đã len lỏi qua chấn song
cửa sổ dễ
dàng, mà không bị phát
hiện. Nếu không có trận mưa bão, và nếu chú khỉ không chết, chắc cảnh sát không thể tìm ra thủ phạm của các vụ trộm đã xảy ra.
Kể cho tôi
nghe về chuyện chú khỉ chôm đồ năm xưa xong, anh Huân nói với tôi:
- Không biết những điều đàn anh kể chuyện năm xưưa, có bị các ngài “bẹc” không, vì những
năm đó chưa có mặt tao trên cõi đời này.
Tôi cười:
- Chắc không sai đâu. Đối với các ông ấy thiếu gì chuyện ly kỳ hơn, bẹc chuyện khỉ ăn trộm làm gì. Em
nghĩ mấy tờ báo thời ấy, nếu có chuyện khỉ ăn trộm thế nào chẳng có báo loan tin. Tìm trong
thư viện cũ ở Hà Nội để check lại không khó, chỉ sợ thư viện trung ương bị tụi ngu trộm bán ve chai lấy tiền thì không kể.
Sau ông Đinh
Hùng, và cao thủ Mặc Tử tôi xin kể lại những điều tôi được biết về
anh Hoàng Anh Tuấn. Du học bên Pháp về, năm 1958, nhưng tuy là dân Tây học,
dân đi Tây nhưng anh
lại hết sức xuề xòa. Quần áo thích mặc nhất là quần lính treillis,
dù phía trên mặc áo đẹp hay áo thường không cần biết.
Hoàng Anh
Tuấn thường nói:
- Mặc như thế là sang lắm rồi. Hồi còn ở Tây, gặp đúng lúc Vẹm và
Tây đánh nhau, không nhận được “chi viện” của gia đình, mùa đông tao
mặc cái quần dạ,khi cởi ra giặt, cái quần không đổ xuống mà đứng
thẳng đơ, đủ hiểu ra sao rồi. Đấy là chưa kể vì ít tiền căn phòng
mướn ở trọ trên tầng cao vút, cao gần thấy cổng nhà trời, mùa đông
lạnh cứng người, bao nhiêu quần áo lấy mặc hết lớp nọ đến lớp kia cũng
không thấm gì,tao phải mua một bóng đèn 500 watts thủ trong chăn mới
chợp mắt được.Tuy bớt lạnh, nhưng lại sợ bóng đèn bể, mất giống, thì tan
nát đời trai.
Đầu tóc
cũng thế, không hề quan trọng với anh Tuấn. Hễ tóc dài, anh sẵn sàng
gọi người hớt tóc dạo đi qua nhà vào hớt.... Mặc dù “cậu” ở Tây
nhiều năm, nhưng khi ngồi viết bài
ở nhà hay ở tòa báo, luôn luôn co chân trái lên ghế, như dân chạy nước
lụt, và môi miệng luôn méo mó, luôn
uốn éo như đứa trẻ đang tập viết.Thời gian chưa lên trông coi đài phát thanh trên Đà
Lạt, gia đình Hoàng Anh Tuấn ở trong trong cư xá Chu Mạnh Trinh,
Phú Nhuận, anh đã nhận lời lo phần kịch bản cho chương trình Kịch Vô Tuyến trên
đài phát thanh Quân Đội. Anh Tuấn bảo với anh Tâm, trưởng ban kịch: chỉ
chơi kịch mới. Và mỗi tuần anh đã có một vở kịch như đã nói. Hoàng
Anh Tuấn cũng chính là người đặt tên cho chương trình kịch vô tuyến
ấy là Ban Kịch Nói Đêm Hồ Gươươm.
Anh bảo, đừng dùng tiếng thoại kịch, nó nhàm rồi, xài đã cũ mòn rồi. Ngoài thính giả, tên và ban kịch
Đêm Hồ Gươm đã được trung tá Quản Đốc Đài, cũng là nhà văn Kỳ Văn
Nguyên rất thích. Tôi lúc đó đã ở lính, ở tiểu đoàn 50 chiến tranh
chính trị, phía sau Cục tâm lý chiến, mỗi lần ban kịch Đêm Hồ Gươm có giờ thâu, tôi hay sang xem,
nhân thể làm quen với anh em văn nghệ sĩ của đài Quân Đội.Tôi đã quen
biết anh Hoàng Anh Tuấn trong dịp này.
Một lần
cùng anh Tâm đến đón anh Tuấn vì có giờ thâu, đến nơi thấy anh Tuấn
còn đang ngồi viết phần cuối của vở kịch chưa xong, nhìn anh Tuấn viết, Tâm đã nói:
- Ngồi nhìn
ông viết, mệt bỏ mẹ đi, nắn nót từng chữ... Mà cũng có đẹp hơn
chút nào đâu....
Tuấn cười:
- Ai bảo mày
nhìn. Nhắm mắt lại, nếu mệt tụi bay ra kia nằm, khi nào xong, tao
gọi.
Cũng như
Nguyễn Thụy Long, anh Tuấn viết
cũng rất nhanh.Một vở kịch
vô tuyến phát thanh trong một tiếng, Hoàng Anh Tuấn chỉ viết trong một
đêm. Vừa viết, vừa phân vai xem ai đóng vai kịch đó thích hợp. Ngoài
ra, anh còn lựa nhạc nền và nhạc hay tiếng động chuyển cảnh lấy mà
không cần đến người phụ trách kỹ thuật.
Hoàng Anh
Tuấn nhiều khi đến đưa bài cho báo Thứ Tư tuần san, thấy anh Tâm bận, anh Lâm Vị Thủy người
phụ trách phần thơ của độc giả, có giờ dạy, chưa đến tòa báo được,
thế là anh tự động lục thư
và bài của độc giả gửi đến, trả lời thư hay sửa bài của độc giả
dùm. Có lần anh
Tuấn đã “làm dùm” một
bài thơ cho một người. Anh bảo:
- Tay này đã
nhiều lần gửi thơ cho báo, nhưng không lần nào có thể chọn đăng được. Lần này cũng vậy, nhưng tao thấy ý của bài thơ lần này rất được, nên tao khuyến khích tài năng mới, kẻo tội nghiệp.
Một lúc sau
anh Tuấn đưa anh Tâm bài thơơ, cười:
- Này mày
đọc xem có được không, nếu được, thì cho sắp chữ.
Khi thấy anh
Tâm tin tưởng, định đưa thẳng
bài cho nhà chữ, mà không đọc, Tuấn đã la lên:
- Đọc đi mày.
Xem sao.
Nể lời, anh
Tâm đọc bài thơ anh Tuấn mới làm và bài chính của độc giả
gửi. Thì ra anh Tuấn đã
khuyến khích tài năng mới bằng cách làm “mới” hoàn toàn bài thơơ, mà chỉ giữ lại phần tên của bài thơ và tên tác giả.
Đợi anh Tâm
đọc xong, anh Tuấn cười:
- Thế nào báo tụi bay kỳ này cũng bán thêm cả chục số. Cu
cậu sẽ sướng mê. Thấy có bài được đăng, sẽ mua tặng bạn bè, nhất
là để lấy le với người yêu... hì... hì... cũng giống như mình thở
còn tình yêu thời học trò ấy mà.
- Chiều hôm qua đang ngồi uống bia với mấy người bạn ở Kim Sơn, tao chứng kiến một tai nạn, suýt
chết người. May mà tay cảnh sát và mấy người đi đường nhanh tay cứu
kịp. Không thôi cả cha chạy xe xích lô và khách chết tốt rồi.
Cô thư ký
trẻ nhất nhanh miệng:
- Chuyện ra
sao, chú Tuấn.
Tuấn thản nhiên:
- Có một cô đi
xích lô... Cô ấy mặc áo dài “kiểu cổ áo bà Nhu –
loại áo dài cổ rộng, do bà Ngô Đình Nhu hay mặc”, không biết cha đạp xe nghĩ gì, mà chiếc
xích lô cứ lao vùn vụt, trong khi đèn
đỏ phía xích lô đã bật từ lâu. Và phần đường chạy ngang đang đèn
xanh, một chiếc xe Jeep của quân đội đang lao tới. Người
cảnh sát vừa thổi còi, cùng mấy người buôn bán và đi dạo gần đấy
chạy ra nắm thân xích lô, kéo lại
kịp.
Khi chiếc
xích lô ngừng lại rồi, người cảnh sát hỏi bằng giọng gay gắt:
- Chạy xe
kiểu gì thế hả. Đèn giao thông đã bật đỏ rồi mà còn chạy... sao
không thắng lại.
Người phu xe
sợ hãi:
- Tôi ... tôi
có thắng... mà không hiểu
sao cái xe vẫn trôi
đi.
Người cảnh
sát lại hét lên:
- Cái gì...
anh thắng xe rồi đấy hả. Nhìn lại coi.... cái thắng xe mãi tít phía
dưới kia kìa, cha nội.
Mới nghe
thấy thế, mấy cô thư ký
đã hét lên:
- Chú...
chú... cái chú quỷ này.
Hoàng Anh Tuấn cười:
- Cái gì... sao
gọi tao là quỷ, ai bảo mấy đứa nghe.... Lần sau bịt tai lại.
Một lần khác, anh Tuấn kể:
- Hai bà bạn
lâu ngày không gặp nhau. Một hôm một bà đến thăm bà kia tại nhà riêng.
Vừa lúc ấy, con trai bà chủ nhà về tới. Không đợi con bạn chào hỏi,
bà khách đã nói như reo
lên: “kìa, cháu... cháu lái phi công đấy hả”.
Con bà bạn
lễ phép trả lời:
- Dạ thưa
bác cháu lái phi cơơ.
Còn vợ cháu mới lái phi công ạ.
Bẵng một thời gia dài, sau ngày mất
nước, tôi không có dịp gặp anh Hoàng Anh Tuấn, mãi đến năm 2005, từ Nam Cali lên Bắc Cali chơi, tôi theo anh Nguyễn Văn Quý Cameraman thuộc nhóm Việt Ảnh
của cố đạo diễn Bùi Sơn
Dzuân đến thăm anh tại nhà dưỡng lão Mission De La Casa , anh bị bệnh
nặng và không còn nói được, dù còn tỉnh,
còn nhớ hỏi thăm những người quen cũ bằng cử động của hai bàn tay. Nhìn con
người tài hoa, bây giờ nằm đấy, vẻ mệt nhọc hằn rõ trên gương mặt,
tôi không dấu
được dòng nước mắt ngậm ngùi.
Trong số
những văn thi sĩ người gốc miền Bắc sau di cư vào miền Nam, không thể không nhắc đến nhà
thơ Lê Minh Ngọc, tác giả tập thơ được giải thưởng văn học Trăng Thề.
Tuy sống giữa Sài Gòn của những năm 1960 – 1970, nhưng nhà thơ họ Lê
sống như những nhân vật xưa, đúng hơn những nhân vật trong tiểu thuyết
kiếm hiệp: Chiêu Hiền Đãi Sĩ.
Hai ông bà Lê
Minh Ngọc có tiệm cà phê và bánh mì điểm tâm mang tên Hòa Mã. Công
việc kinh doanh do bà Ngọc đảm nhiệm. Ông Ngọc xuất hiện ở quán, ngồi đọc báo tại một bàn riêng như một
người khách. Ông ngồi đấy như một cách “trang trí” cho quán hàng.
Quán Hòa Mã rất đông khách, vì chỉ riêng cà phê không thôi, người
uống một lần rồi luôn nhớ trở lại.Hàng ngày, sau ba giờ chiều quán
đóng cửa. Từ năm sáu giờ trở đi là “giang san” riêng của ông Ngọc. Những chiếc bàn ghế
của quán cà phê buổi sáng, được kéo sát lại theo chiều dọc của
quán, đồ nhậu
được bày sẵn, khi có khách “chiêu hiền đãi sĩ” của ông Ngọc đến, bia mới được
khui ra, chỉ có một loại bia chai lớn, có hình trái dứa nhỏ xíu bên
cạnh hình trang trí bên ngoài vỏ chai bia. Dù bia đã được ướp lạnh,
bao giờ trong ly của “khách”cũng có đá cục. Chủ nhân Ngọc thường nói
với bạn bè:
- Những
người biết uống bia và biết thưởng thức cái ngon của bia, phải uống
loại bia chai lớn có hình trái dứa, và bia phải thật lạnh.
Mà muốn luôn
có nhiều bia có hình trái dứa, đâu có dễ dàng gì, chủ nhân phải
đặt tại một đại lý quen thân, chủ đại lý phải cho nhân viên lựa từng
chai có hình đặc biệt, để riêng cho bạn. Phải cầu kỳ, tốn công như
vậy, vì trong một thùng bia thường chỉ có một, hai chai có hình trái
dứa là nhiều, có khi chẳng có chai nào, chỉ có chai “loại thường”.Nhà
thơ họ Lê sẵn sàng “sẵng giọng” nếu có ai đó mang rượu, bia, hay đồ
nhậu đếu góp, ổng bảo: bộ tụi bay khinh tao không đủ rượu mời bạn
bè hay sao mà phải mang đến. Nhiều người đến với nhà thơ một hai
lần, rồi “né” luôn, vì không muốn không được đóng góp.
Khách của
“chiêu hiền đãi sĩ”làm đủ nghề, chứ không chỉ
riêng giới thơơ văn,
báo chí. Một trong những người quen thân với thi sĩ Lê Minh Ngọc là
“ông Nguyễn thị Đào” buôn bán vật liệu xây cất, cửa tiệm ở xế quán
cà phê của nhà thơ. Mọi người gọi ông bằng tên đó, vì cửa tiệm bán
vật liệu mang tên bà, mọi người gọi ông như vậy vì chợt nhớ đến nhân
vật “Nguyễn Thị Đào” của bà Huyện Thanh Quan khi thay chồng xử án...
“phó cho con Nguyễn thị Đào, nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai”?
Người quen
của nhà thơ Lê Minh Ngọc có thể mang bạn tới, và cũng được tiếp đón
như nhau. Những người không phải giới thơ văn đến với ông Ngọc là do
tò mò, vì nghe nói đến đó sẽ có dịp gặp mặt, chuyện trò cùng nhà
thơ tiền bối Vũ Hoàng Chương, mặc dù nhà thơ họ Vũ không phải ngày
nào cũng có mặt. Cũng có những cây viết, nhà thơ trẻ đến với hy
vọng được các vị tiền bố để mắt đến mình. Còn có người đến đó
để có dịp nhờ vả ông Trinh, một bạn thân của nhà thơ Lê Minh Ngọc,
kiếm dùm chiếc xe hơi vừa với túi tiền. Nhờ ông Trinh giúp chắc chắn
sẽ có được chiếc xe cũ còn tốt, vì ông Trinh là nhà buôn bán xe hơi
tài tử, rất rành về máy móc, chỉ cần nghe tiếng máy xe nổ, ông
Trinh có thể nói không sai xe bị trục trặc ra sao, trục trặc ở đâu.
Không mấy người biết rõ về ông Trinh. Nhưng ông là người hào phóng, rất
có uy tín. Nhiều lần ông đưa bạn bè đến những nhà hàng lớn, tôi đã
chứng kiến cảnh sau chầu nhậu, ông Trinh bảo bồi nhà hàng mang hóa
đơn đến để ông ký nhận, trả tiền sau. Không một người chạy bàn nào
thắc mắc, trái lại họ còn vui vẻ nói lời cảm ớn.
Nhắc đến
những cây viết tiền bối mà không nhắc đến ông Tiền Phong Từ Khánh Phụng là một thiếu sót.
Ông Tiền Phong là người Minh Hưương,
tức “tàu lai” nhưng rất uyên thâm tiếng Việt.Ông Tiền Phong thông thạo tiếng Việt còn hơn nhiều người Việt chánh gốc.Ông dạy
về diễn xuất tại trường
quốc gia âm nhạc Sàigòn nhiều năm. Ngoài ra ông còn dịch truyện tàu đăng
từng kỳ trên rất nhiều báo ở Sàigon trước 1975. Có thể nói không sai
ông Tiền Phong là “cha đẻ” ra truyện kiếm hiệp dịch, nhất là những
truyện của Kim Dung. Lần đầu
tiên tôi thấy trên nhật báo Đồng Nai của ông Huỳnh Thành Vị, truyện
dài mang tên Cô Gái Đồ Long, nhưng không biết đó là truyện hấp dẫn Đồ
Long Ỷ Thiên Kiếm cùa Kim Dung, vì logo trên đầu truyện đăng hàng ngày
trên Đồng Nai lại có hình một cô gái chít khăn mỏ quạ, như các bà,
các cô gái miền Bắc xưa, nên
giống như nhiều
người nghĩ đó là tác giả viết truyện dã sử, viết về con gái của
ông đồ tên Long nào đó, nên không để ý. Mãi sau tôi nhận thấy mỗi lần
người tùy phái của tòa báo lấy báo hàng ngày của các báo bạn từ
đại lý về, là mọi người dành nhau tờ Đồng Nai, dù đang bận. Tôi hỏi
mới biết họ đọc “Cô Gái Đồ Long”. Thì ra vì lệnh của bộ thông tin,
các báo đăng mấy truyện dài sáng tác cũng được, nhưng truyện kiếm
hiệp chỉ được một truyện. Các vị chủ bút liền tìm cách qua mặt bộ thông tin bằng cách ngụy trang
truyện dịch kiếm hiệp giống như Tiền Phong tiên sinh ngụy trang Đồ Long
Đao Ỷ Thiên Kiếm của Kim Dung bằng tên Cô Gái Đồ Long. Sau khi biết rõ
tông tích Cô Gái Đồ Long, tôi tìm đọc và “dính” luôn. Ông Tùy phái
của tòa báo đã là nguồn cung cấp Ỷ Thiên Đồ Long Đao cho tôi từ đầu
truyện.
Một lần đến
nhà thăm ông Tiền Phong, nhân thể xin ông truyện mới cho báo, tôi đã
thấy cách “viết” của ông. Nguyên
một gian nhà giữa, ông để trống. Thay vào đó là hai dãy bàn ghế nhỏ,
kiểu bàn ghế của tiệm cà phê lề đường, chỉ khác một điều trên mặt
bàn là máy đánh chữ.Ông Tiền Phong đi giữa dãy bàn, dịch thẳng truyện
từ nguyên bản tiếng Tàu cho mấy người đệ tử của ông ghi lại. Cứ xong
một đoạn, ông lại đổi truyện khác cho người đánh máykế tiếp. Sau khi
dịch “miệng” cho đủ một kỳ báo, thì ngưng. Như vậy, sau mấy tiếng
làm việc, Tiền Phong tiên sinh đã có bảy tám truyện cho bảy tám tờ
báo mộy lúc. Ông Phong cho hay, mấy người đánh máy là học trò của
ông, ông trả lương tháng, họ vừa giúp thày, vừa kiếm được tiền chi
dụng trong đời sống sinh viên.
Sau nhà thơ
Đinh Hùng, lần lượt các ông Vũ Hoàng Chương, Thục Vũ, Đông Hồ, “ra đi”.
Nhạc sĩ Thục Vũ chết trong ngục
tù cộng sản nơi miền Bắc, thi sĩ Vũ Hoàng Chương cũng mất khi từ nhà tù cộng sản về nhà
được ít lâu. Rồi đến
đạo diễn điện ảnh Minh Đăng
Khánh. Nhưng Minh Đăng Khánh được “may mắn” hơn mọi người là trước khi
mất, anh còn được gặp mẹ và mấy người em từ Hà Nội vào thăm. Bà
cụ và các em Khánh năm 1954, bị kẹt không di cư vào Nam được. Khánh
được gặp mẹ trước khi bị bắt trong đợt các văn nghệ sĩ miền Nam bị
bọn cộng sản cầm tù sau khi miền Nam sụp đổ.
Đúng vào
lúc bọn công an đọc lệnh bắt giam Minh Đăng Khánh có mặt bà cụ và
Nguyễn Thụy Long. Long đã may mắn thoát ra cửa sau an toàn. Khi sắp
giải Khánh đi, một tên công an hỏi:
- Người vừa
ngồi đây đâu rồi – hắn là đồng bọn anh kia phải không - người mà
bọn công an hỏi là Long.
Bà cụ mẹ
Khánh nhanh trí trả lời;
- À, chú ấy
là thợ sửa xe đầu đường, con tôi
sửa xe chịu, nay chú ấy đến đòi tiền.
May bọn công
an không làm khó, vì tụi nó biết
bà cụ Khánh mới từ miền Bắc vào chơi và hiện ở nhà người em ruột
Khánh đang là phó tổng biên tập báo Sài Gòn giải phóng. Khoảng trưa
ngày hôm sau, Hoàng Trúc Tâm vô tình đến thăm anh Khánh, mà không biết
Khánh đã bị bắt. Bà cụ Khánh vừa chỉ cửa sau vừa nói nhỏ:
- Thằng
Khánh bị bắt chiều hôm qua. Anh đi ngay đi, đi lối sau, trà trộn vào
dẫy hàng chợ mà đi, hết sức cẩn thận, bọn chúng còn ngồi rình ở
cửa trước đấy.
Nói xong, bà
cụ mở cửa trước, làm như hỏi han ai điều gì đó, nhưng thực ra là
tìm cách cầm chân tên công an. Bao nhiêu năm sống kẹt lại ở miền Bắc,
bà cụ Khánh quá hiểu rõ bọn chúng ra sao.
Phía cửa sau
nhà Khánh có một cái chợ nhỏ, anh Tâm dắt xe đạp vờ lựa mua mấy
thứ, khi đến cuối chợ rẽ nhanh vào xóm nhà gần bên, đi thoát.Sau một
thời gian bị giam giữ, Minh Đăng
Khánh được thả... Rồi Khánh bị tai biến mạch máu não, hôn mê ba bốn
ngày liền, khi hồi tỉnh lại anh bị
liệt một bên người, nhưng không nặng lắm. Thời gian này Miên Đức
Thắng, ký giả Dạ Thảo, Nguyễn Thụy Long và Hoàng Trúc Tâm thường lui
tới thăm viếng Khánh.
Trong số bạn
bè văn nghệ, Long và Tâm thân với
Khánh nhất, vậy mà Khánh không một lời thở than tâm sự gì với bạn.
Nhưng một người em vợ Khánh một lần đã kể với anh Tâm rằng anh Khánh
bị tai biết mạch máu não do quá
buồn phiền vì người em út Khánh gây ra.
Theo lời
người em vợ Khánh, năm 1954 chỉ một mình Khánh thoát được vào Nam,
toàn bộ gia đình bị kẹt lại. Một người em Khánh rất quý mến anh đã
lấy bút hiệu Minh Đăng Khánh của anh làm bút hiệu cho mình, vì anh ta
cũng là một cây viết lách ở ngoài Bắc. Sau1975 Khánh em vào Nam, làm
phó rồi làm tổng biên tập tờ Sài Gòn Giải phóng, vì công việc,
Khánh em đã viết những bài đả kích người và chế độ Sài Gòn cũ.
Những người bạn của Minh Đăng Khánh anh, do vì không rõ sự việc, nghĩ
là Minh Đăng Khánh bạn mình giờ đã chạy theo Việt cộng giống như một
số tên viết lách theo cộng, bị mọi người khinh bỉ gọi là “cách mạng
30”.
Một hôm, một
người quen báo cho anh Tâm biết Minh Đăng Khánh lại mới được đưa vào
bệnh viện Nguyễn Văn Học, vì bị đứt gân máu lần nữa. Tâm vội chạy
vào bệnh viện thăm, bệnh viện cho biết Khánh không qua khỏi, xác đã
được đưa về nhà.Đứa con thứ hai của anh Khánh kể:
- Cháu
thường đẩy xe cho bố cháu đi dạo,
sáng hôm ấy đi ngang chợ Bà
Chiểu bố cháu nói muốn ăn phở. Vào tiệm, phở được mang ra, hai bố
con mới ăn được mấy miếng, chợt thấy bố cháu đánh rơi đũa muỗng,
đầu ngoẹo qua một bên, thế là cháu vội đẩy xe đưa bố cháu vào bệnh viện cấp cứu,nhưng lần này không còn cứu được nữa.
Đám tang Minh
Đăng Khánh ngoài các bạn trong giới viết văn làm báo như Thiếu Lang,
Hoàng Hải Thủy, Sao Biển, Nguyễn
Thụy Long, Hoàng Trúc Tâm, còn rất nhiều đạo diễn, diễn viên điện ảnh và các nghệ sĩ cải
lương từng làm việc với Khánh.Khi thấy Nguyễn Thụy Long khóc bạn, một ông bạn trong giới cải lương đã nói với Long trong ngậm ngùi:
- Đừng khóc
anh ơơi. Mình phải mừng
cho Khánh mới đúng. Mừng anh ấy đã thoát được khỏi nhà tù khổng lồ
này rồi.
Cũng như đám
tang ông Đinh Hùng, có những cô mặc áo trắng đi bên xe tang, đám tang
Minh Đăng Khánh những cô học trò lớp dạy vẽ do Minh Đăng Khánh hướng
dẫn, mang trên tay họa phẩm, đã được thày khen ngợi, những họa phẩm
ấy được đóng khung đàng hoàng. Đi đầu mấy cô cậu lớp hội họa là
họa phẩm “chân dung” thày.... khổ lớn.Nhưng không
phải thày tự họa, mà đó là bức hình vẽ một anh hề, quần áo, mũ,
màu là một anh Hề
ngoại quốc mà mọi người có thể dễ dàng nhận thấy trên bất cứ
poster quảng cáo của các gánh xiếc Anh Mỹ thường thấy hay trong phim,chứ
không phải Hề trong
các tuồng cải lương. Chỉ có một điều đặc biệt là anh Hề Minh Đăng Khánh trên tay lại cầm một
bông SEN và mất một cái răng cửa. Bức hình
mà Khánh nói là “tự họa”, được hoàn thành trước khi Khánh mất
khoảng một tháng.
Hai anh
Nguyễn Thụy Long và Hoàng Trúc Tâm bắt Khánh “giải thích” ý nghĩa
bức “tự họa”, Khánh chỉ cười nói tôi đấy, rồi nhất định không nói
gì hơn. Sau khi Khánh mất, hỏi vợ con Khánh cũng không ai biết gì về bức “tự họa”... Bà cụ của Khánh nói: Đến tôi hỏi về bức hoạ ấy, nó cũng chỉ cười. Có
kẽ Khánh muốn mọi người hiểu về mình thế nào cũng được...Ông em Khánh đã khiến mọi
người hiểu lầm về Khánh rất nhiều...
Nguyễn Toàn
Sydney
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét