Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Hai, 20 tháng 7, 2020

TÂN NHẠC VN – CA KHÚC VƯỢT THỜI GIAN ..Ai Về Sông Tương - Túy Phượng

Vợ chồng nhạc sĩ Văn Giảng chụp năm 1949.
Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn các ca khúc “Ai Về Sông Tương”, “Hoa Cài Mái Tóc”, “Từ Đàm Quê Hương Tôi”, “Mừng Ngày Đản Sanh” của Nhạc sĩ Văn Giảng.Nhạc sĩ Văn Giảng (1924 – 2013) là một nhạc sĩ Việt Nam có những sáng tác thuộc nhiều thể loại. Ông là tác giả của nhiều bản hùng ca. Khi viết tình ca, ông ký tên Thông Đạt, ông là tác giả ca khúc “Ai Về Sông Tương” nổi tiếng. Ngoài ra ông còn có bút danh Nguyên Thông cho những ca khúc viết cho Phật giáo. Nhạc sĩ Văn Giảng sinh ngày 12 tháng 5 năm 1924 tại Huế. Xuất thân trong một gia đình trung lưu có truyền thống về âm nhạc; ông nội của Văn Giảng là một nhạc sĩ cổ nhạc, ngay từ bé Văn Giảng đã tỏ ra những năng khiếu về âm nhạc. Ông bắt đầu tập chơi mandoline rồi sau đó đến guitar.
<!>
Ông từng dạy nhạc ở Huế, rồi ông vào Sài Gòn thi tú tài và tốt nghiệp cử nhân ở đó. Sau khi thi đỗ Anh văn ở Hội Việt Mỹ, ông trúng tuyển và ông sang Hoa Kỳ học âm nhạc tại Hawaii và Bloomington. Tốt nghiệp xuất sắc, ông được học bổng để tiếp tục nghiên cứu bậc cao học âm nhạc. Sau đó ông trở về nước và được đề cử làm giám đốc Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế.
vangiang_Ai Về Sông Tương1
vangiang_Ai Về Sông Tương2
vangiang_Ai Về Sông Tương3
Phần lớn các sáng tác của Văn Giảng thuộc thể loại hùng ca như Thúc quân (1949), Lục quân Việt Nam (1950), Đêm Mê Linh (1951), Quân hành ca (1951), Qua đèo (1952), Nhảy lửa (1953)… nhưng ông còn viết tình ca với bút danh Thông Đạt, nổi tiếng nhất là nhạc phẩm Ai về sông Tương.
Nhạc phẩm “Ai Về Sông Tương” được Thông Đạt viết vào năm 1949. Về ca khúc này có một giai thoại: Những năm cuối thập niên 1940 đó, Văn Giảng có chơi thân cùng ông Tăng Duyệt, giám đốc nhà xuất bản Tinh Hoa Huế, một số hành khúc của Văn Giảng cũng được nhà xuất bản Tinh Hoa ấn hành. Một lần Tăng Duyệt nói đùa ngụ ý rằng nhạc sĩ Văn Giảng chỉ viết được những bài hùng ca thôi còn về những bài tình ca không phải sở trường của Văn Giảng.
Văn Giảng nghe như vậy và không trả lời. Sau đó ông viết bản “Ai Về Sông Tương” và ký tên Thông Đạt. “Ai Về Sông Tương” được tác giả Thông Đạt gửi đến các đài phát thanh ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và nhanh chóng nổi tiếng. Sau nhiều lần được nghe bản nhạc đó trên đài, Tăng Duyệt gặp Văn Giảng và hỏi ở trong giới nhạc, Văn Giảng có biết Thông Đạt, tác giả bài “Ai Về Sông Tương” là ai không. Tăng Duyệt muốn tìm mua lại bản quyền để xuất bản nhạc phẩm đó nhưng Văn Giảng trả lời không biết.
Một lần hai người bạn của Văn Giảng là nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng và nhà văn Lữ Hồ tới chơi và tình cờ nhìn thấy bản thảo của “Ai Về Sông Tương”. Nhờ đó Tăng Duyệt mời biết Văn Giảng chính là Thông Đạt, tác giả của bàn tình ca nổi tiếng đó.
Vợ chồng nhạc sĩ Văn Giảng chụp năm 1949.
ÔB Lê Văn Khoa (USA) đến thăm ÔB Văn Giảng (Australia).
ÔB Lê Văn Khoa (USA) đến thăm ÔB Văn Giảng (Australia).
Bút danh Thông Đạt chính là tên ghép pháp danh Nguyên Thông của ông và Tâm Đạt của vợ ông.
Ngoài Thông Đạt, Văn Giảng còn có một bút danh khác nữa là Nguyên Thông khi ông viết những ca khúc về Phật giáo. Dưới bút hiệu này, ông đã sáng tác khoảng vài chục ca khúc về Phật giáo, đóng góp không nhỏ cho nền Phật nhạc của Việt Nam. Các bài của ông được thường xuyên hát lên trong các buổi tụng niệm tại các chùa từ Huế vào đến Sài Gòn. Bài “Mừng Ngày Đản Sanh” của ông được dùng làm ca khúc chính thức cho ngày Phật Đản đến tận bây giờ. Nguyên Thông đã được ký dưới những bản Từ Đàm quê hương tôi, Mừng ngày Đản Sanh, Ca Tỳ La Vệ, Vô thường, Hoa cài áo lam.
Trong thời gian làm nhạc trưởng Đài Phát thanh Huế và giáo sư âm nhạc tại các trường Trung học Hàm Nghi, Quốc Học và trường Sư phạm đào tạo giáo viên tiểu học, nhạc sĩ Văn Giảng có sáng tác và ấn hành một tập nhạc dành cho thiếu nhi mang tên “Hát Mà Học” gồm có 10 ca khúc: “Đến Trường”, “Chơi Ná”, “Chê Trò Xấu Nết”, “Mèo Chuột”, “Tham Mồi”, “Gương Sáng Lê Lai”, “Quang Trung Hùng Ca”, “Trăng Trung Thu”, “Chúc Xuân” và “Tạm Biệt”.
Cũng trong lãnh vực âm nhạc, nhờ xuất thân từ một gia đình có truyền thống âm nhạc, Văn Giảng thích tìm tòi và nghiên cứu nhạc cổ truyền Việt Nam. Năm 1956, ông đã tìm ra phương pháp ký âm cho nhạc sĩ cổ truyền có thể nhìn bài bản mà trình tấu chung với nhạc sĩ tân nhạc và từ đó, ông thành lập ban cổ kim hòa điệu “Việt Thanh”, ban nhạc đầu tiên trong nước dưới hình thức tân cổ hòa điệu với những nhạc khí tranh, tỳ, nhị huyền, nhị hồ, đàn nguyệt… hoà tấu chung với dương cầm, tây ban cầm, đại hồ cầm…
vangiang_Hoa Cài Mái Tóc1
vangiang_Hoa Cài Mái Tóc2
vangiang_Hoa Cài Mái Tóc3
Trong lĩnh vực này, ông đã hoàn thành tác phẩm độc đáo “Ai Đưa Con Sáo Sang Sông”, một bản đại hòa tấu, thời lượng 60 phút, trình diễn bởi các nhạc sĩ cổ truyền. Ông cũng đã soạn nhiều sách giáo khoa về âm nhạc, hoàn thành quyển “Kỹ Thuật Hoà Âm” dày 350 trang được dùng làm tài liệu dạy âm nhạc ở các trường.
Sau Tết Mậu Thân 1968, cảm thấy sinh sống ở Huế bất an (Tăng Duyệt, bạn thân của ông, bị giết trong biến cố này) nhạc sĩ Văn Giảng vào Sài Gòn lập nghiệp từ năm 1969. Ở đó, Văn Giảng dạy nhạc tại trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn, tham gia sinh hoạt ca nhạc ở đài phát thanh, đài truyền hình và soạn hòa âm cho hãng đĩa Asia, Sóng Nhạc.
Cũng trong thời gian này, với bút danh Thông Đạt, ông viết tiếp một số tình khúc khác. Đồng thời, Văn Giảng được Bộ Văn Hóa Giáo Dục đề cử làm “Trưởng Phòng Học Vụ Nha Mỹ Thuật”, đảm trách học vấn của các trường Âm Nhạc Sài Gòn, Huế và các trường Cao Đẳng Mỹ Thuật.
Năm 1970, ông được huy chương vàng Giải Văn Học Nghệ Thuật Quốc Gia với tác phẩm “Ngũ Tấu Khúc” (Quintet for Flute and Strings). Cùng năm này, ông được chỉ định làm Giám Đốc Nghệ Thuật điều hành Đoàn Văn Nghệ Việt Nam gồm 100 nghệ sĩ tân cổ nhạc và vũ, ban vũ do nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ phụ trách, ban vũ cổ truyền Đại Nội Huế do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba điều khiển, để tham dự “Hội Chợ Quốc Tế Expo 70” tại Osaka, Nhật Bản.
vangiang_Từ Đàm Quê Hương Tôi
Sau 1975, NS Văn Giảng ở lại Việt Nam cho đến năm 1981 ông vượt biên đến đảo Natuna, Indonesia, sau chuyển đến đảo Pulau Galang. Ở đây, trong 6 tháng, Văn Giảng sáng tác một số bài nói lên thân phận của những người lưu vong mà bài đầu tiên là “Natuna Người Tình Đầu” cùng một số 70 ca khúc khác.
Ngày 20 tháng 5 1982, NS Văn Giảng định cư tại Úc, ở đây, ông tiếp tục con đường âm nhạc, soạn và xuất bản nhiều sách dạy nhạc viết bằng Việt ngữ và Anh ngữ, sách nhạc lý như cách dùng hợp âm, tự học tây ban cầm, hòa âm, sáng tác, học hát, học đàn… Ông còn sáng tác thêm nhiều tình khúc được tập hợp thành một số tập, như 12 tình khúc (Tập I), 12 Tình Khúc (Tập II).
NS Văn Giảng mất ngày 9/5/2013 ở thành phố Footscray, tiểu bang Victoria, nước Úc. Sau khi rải cốt tro ông trên biển vào ngày 17/5, vợ ông lên cơn đau tim và mất sau khi đưa vào bệnh viện chiều cùng ngày.
Dưới đây mình có bài:
– Vĩnh Biệt Người Về Sông Tương
Cùng với 13 clips tổng hợp các ca khúc “Ai Về Sông Tương”, “Hoa Cài Mái Tóc”, “Từ Đàm Quê Hương Tôi”, “Mừng Ngày Đản Sanh” do các ca sĩ xưa và nay diễn xướng để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn.
Túy Phượng

1 nhận xét:

Thế Giới Mới nói...

Thưa bà Túy Phượng,
Tôi là Trương Sĩ Lương, học trò của thầy Văn Giảng ở trường Hàm Nghi, Huế, khoảng cuối thập 50, năm nay đã 75 tuổi. Nhiều năm qua, tôi có tin thầy ở Úc, nhưng chưa có dịp liên lạc thì Thầy đã mất năm 2013. Tiếc quá!
Tôi qua Mỹ và định cư tại New Orleans, LA từ năm 1975. Và di chuyển qua Dallas, Texas
năm 1988 làm báo,  làm chủ bút, chủ nhiệm tạp chí Thế Giới Mới, lưu hành đúng 30 năm thì đình bản vào năm 2018, Tuy vậy vẫn còn tiếp tục làm trang nhà www.baotgm.com cho đến hiện tại.
Nhờ học được ít nhạc của thầy qua loa hơn 3 năm, "chưa tới mô" thì ngưng khi chuyển qua QH.
Cũng nhờ ảnh hưởng ít nhiều về âm nhạc với thầy, nên khi qua Mỹ tị nạn, cảm nhận được cơn đau mất nước 1975, tôi cũng tháy máy sáng tác được một số nhạc đấu tranh;  gia nhập và bước vào sinh hoạt với Phong Trào Hưng Ca VN năm 1985 cho tới nay. . Theo thời gian, ai cũng lớn tuổi, như tôi, Nguyệt Ánh... Việt Dzũng thì đã ra đi từ cuối năm 2012 nên ACE bi khưng lại.Thế nhưng, tôi vẫn còn 2 cháu gái là Nini và Vina Uyển Mi vẫo sinh hoat văn nghệ với Asia Entertainment từ năm 2003 đến nay.

Mục đích, của lá thư này là xin phép văn hữu Túy Phượng cho phép tôi được phổ biến trên wwwbaothm.com để nhắc nhở 2 cháu được học hành như ngày nay là cũng gián tiếp nhờ thầy chi dạy.

Kính.Truong Sĩ Lương