Hoàn Cảnh Chính Trị Vào đầu
Thế Kỷ 20
Từ khi Pháp đặt nền đô hộ năm 1884 tại nước ta, dân chúng Việt Nam liên tiếp
nổi lên tranh đấu chống Pháp giành độc lập. Lúc đầu, những cuộc khởi nghĩa bạo
động nổ ra dữ dội khắp nơi trong nước, nhưng lực lượng quân sự Pháp được trang
bị tối tân hơn, đã đàn áp mạnh mẽ và dẹp yên dần dần các cuộc khởi nghĩa của
phong trào Cần vương và Văn thân. Không thể chiến đấu bằng quân sự, các sĩ phu
vào đầu thế kỷ 20 kiếm cách tranh đấu khác, chuyển qua vận động duy tân để canh
tân đất nước, và từ đó tiến lên đòi hỏi độc lập.<!>
Khởi
nghĩa Yên Bái
Khởi nghĩa Yên Bái là một cuộc tổng
nổi dậy bằng vũ trang, nhằm đánh chiếm một số tỉnh và thành phố trọng yếu của
miền Bắc Việt Nam vào ngày 10 tháng 2 năm 1930, do Việt Nam Quốc Dân Đảng
(VNQDĐ) tổ chức và lãnh đạo. Mục đích của cuộc nổi dậy là lật đổ chính quyền
thuộc địa của Pháp để xây dựng một nước Việt Nam theo chính thể cộng hòa. [2] Tỉnh
lỵ Yên Bái chỉ là một trong những mục tiêu của cuộc tổng tấn công của VNQDĐ vào
quân đội và chính quyền thuộc địa. Lực lượng khởi nghĩa bị đánh bại, đảng viên
của VNQDĐ bị truy nã, giam cầm, và hành hình. Các lãnh tụ Nguyễn Thái Học và
Phó Đức Chính bị Pháp áp giải từ Hà Nội lên Yên Bái chặt đầu cùng với 11 đồng
chí sáng sớm ngày 17 tháng 6 năm 1930. Những cái chết hào hùng ấy khiến địa
danh Yên Bái mặc nhiên gắn liền với cuộc tổng nổi dậy, và từ đó lịch sử Việt
Nam mệnh danh sự kiện này là cuộc Khởi Nghĩa Yên Bái hay Tổng Khởi Nghĩa Yên
Bái.
NGÀY TANG
YÊN BÁI
TƯỞNG NIỆM
13 LIỆT SĨ VNQDÐ LÊN ĐOẠN ĐẦU ĐÀI
1930-2017
Cuối thế kỷ thứ 19 thực dân Pháp
đô hộ Việt Nam từ năm (1884). Quân dân, sĩ phu Việt Nam liên tiếp nổi lên nhiều
phong trào chống giặc dành chủ quyền. Các cuộc khởi nghĩa Văn Thân, Cần Vương đều
thất bại nhưng không dập tắc được lòng yêu nước của người Việt Nam. Ðầu thế kỷ
20, các phong trào cách mạng rút được kinh nghiệm thất bại của hai phong trào
trên nên thay đổi chiến thuật. Phong trào Ðông Du (19051908) của Phan Bội Châu
(1867-†1940) được Tăng Bạt Hổ (1858-†1906) giúp đưa du học sinh sang Nhật Bản,
nhằm đào tạo giới trẻ khi tốt nghiệp về canh tân đất nước, Phan Bội Châu chủ
trương theo chế độ quân chủ, đồng thời nhờ Nhật giúp để đánh Tây…
17 THÁNG SÁU
TƯỞNG NIỆM NGÀY TANG YÊN BÁI
Trần Trung Đạo
Massachusett, USA – Vào
khoảng thời gian này 85 năm trước, tức vài hôm sau Ngày Tang Yên Bái, ngày 17
tháng Sáu năm 1930, bức hình bên đây được đăng trên báo Pháp. Mười ba chiếc đầu
của các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng vừa bị chém còn phơi trên bãi cỏ.
Chiếc đầu được đánh dấu tròn được tờ báo ghi chú “đây là đầu của Nguyễn Thái
Học”.
Theo tác giả Hoàng Văn Đào
trong tác phẩm “Từ Yên Bái tới ngục thất Hoả Lò”: Trong chuyến xe lửa bí mật,
riêng biệt khởi hành từ Hà Nội lên Yên Bái, các tử tù cứ hai người còng làm
một, trò chuyện ở toa hạng tư trên một lộ trình dài 4 tiếng đồng hồ. Cùng đi
với các tội nhân còn có thanh tra sở mật thám Pháp, hai cố đạo người Âu là Linh
mục Mechet và Dronet. Máy chém di chuyển theo cùng chuyến xe. Đao phủ thủ phụ
trách buổi hành quyết là Cai Công. Cuộc hành quyết khởi sự vào lúc 5 giờ kém 5
phút sáng ngày 17.6.1930 trên một bãi cỏ rộng với sự canh phòng cẩn mật của 400
lính bản xứ. Xác chết 13 người chôn chung dưới chân đồi cao, bên cạnh đồi là
đền thờ Tuần Quán, cách ga xe lửa độ một cây số.
17/6 Nguyễn
Thái Học hy sinh
18/6 Cô Giang tuẫn tiết
…Tờ mờ sáng ngày 18 tháng 6
năm 1930, cô về làng Thổ Tang, tổng Lương Điền, phủ Vĩnh Tường (nay thuộc Vĩnh
Phúc) để lạy tạ cha mẹ chồng (ông Nguyễn Văn Hách và bà Nguyễn Thị Quỳnh), tháo
chiếc đồng hồ có khắc chữ "G" tặng cho Nguyễn Văn Lâm, em trai Nguyễn
Thái Học và từ giã mọi người.
Trên đường đi cô ghé quán trà bên gốc cây đề, thuộc Xóm Mới, xã Đông Vệ giáp
quốc lộ số 2, cách làng Thổ Tang ước chừng một cây số. Sau khi uống bát nước
trà xanh, từ biệt bà chủ quán, cô đến đứng dưới gốc cây đề, mắt nhìn về hướng
làng Thổ Tang và tự kết liễu đời mình bằng khẩu súng lục mà Nguyễn Thái Học
tặng cô ở đền vua Hùng ngày nào.
Chuyện Bảy Mươi
Mốt Năm Trước (17/6/1945 – 17/6/2016)
Phạm Cao Dương
Lần
Đầu Tiên Lễ Tưởng Niệm Nguyễn Thái Học và Các Liệt Sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng
Được Công Khai Tổ Chức ở Kinh Đô Huế trong Một Nước Việt Nam Độc Lập có Thủ Tướng Trần
Trọng Kim tới dự.
“TINH THẦN YÊN BÁY BẤT
DIỆT”.
Yên Báy hay Yên Bái
trong “Tinh Thần Yên Báy Bất Diệt”
Ngày nay có
người cho là TINH THẦN YÊN BÁI (i ngắn), vậy thì bài sau đây sẽ làm sáng tỏ
TINH THẦN YÊN BÁY (Y DÀI) hay TINH THẦN YÊN BÁI (I NGẮN)
Bài viết này
mục đích làm rõ về địa danh Yên Bái từ đó tìm ra nguồn gốc của “tinh thần Yên
Báy bất diệt” (y dài hay i ngắn). Vậy địa danh Yên Bái có từ lúc nào, lịch sử
hình thành Tỉnh Yên Bái ra sao? tại sao cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc
Dân Đảng lại có tên là “Tổng Khởi Nghĩa Yên Báy (y dài)”.
VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG
Vũ Ngự Chiêu
© 2013 by Chieu N. Vu. All Rights Reserved.
Như một nén hương tưởng niệm nhà văn Nguyễn Thượng Tiến, cộng
sự viên báo Việt Nam tại Hà Nội năm 1946.
Đây là một trong những đảng cách mạng đầu tiên trong nội địa
Việt Nam, qui tụ sự nối kết giữa giới học
thức, điền chủ trung lưu và quân nhân do Pháp đào tạo, với mục đích giải phóng
đất nước bằng võ lực. Chào đời vào dịp Giáng Sinh 1927, Việt Nam Quốc Dân Đảng
[VNQDĐ] hoạt động được hơn hai năm thì bị Pháp khám phá và hủy diệt sau nỗ lực
bi hùng vào đầu năm Canh Ngọ (1930), lưu lại một gương sáng lịch sử “không
thành công thì thành nhân.” (1)
Nhượng Tống và những tài liệu
liên quan đến Việt Nam Quốc Dân Đảng
Do Nhị
Linh sưu tầm và phổ biến tại Blog:
Vào label: Nhượng Tống
Loạt bài trên Phụ nữ
tân văn năm 1930 thuật lại "vụ Yên Bái".
Jun 17, 2015
Cách đây đúng 85 năm, diễn ra vụ hành quyết "các nhân vật
Yên Bái" thuộc Việt Nam Quốc Dân đảng.
Phó Đức Chính là nhân vật số hai của Việt Nam Quốc Dân đảng, là người bị chém
thứ mười hai, ngay trước Nguyễn Thái Học. Người duy nhất không chống án và/hoặc
xin ân xá trong phiên tòa trước đó (thực chất là "hội đồng đề hình",
một "thủ thuật tư pháp" của người Pháp), cũng là người đòi nằm ngửa
xem lưỡi dao guillotine sập xuống.
Các nhân vật lớn của Việt Nam Quốc Dân đảng quãng thời gian
1927-1930 là Nguyễn Thái Học, lãnh tụ, cùng một loạt nhân vật: Ký Con Đoàn Trần
Nghiệp, Phó Đức Chính, Nguyễn Khắc Nhu...
Ông Nhượng Tống với
Việt Nam Quốc dân đảng
Phạm Mạnh Phan
Việc tước khí giới quân đội Pháp đêm mồng 9 tháng
ba dương lịch 1945 đã đem lại nền độc lập cho nước nhà. Trong khi quốc gia được
giải phóng, các đảng chính trị đã thấy công nhiên xuất đầu lộ diện để làm việc
cho tổ quốc.
Nhiều người nhắc nhở đến Việt nam quốc dân đảng,
một đảng chính trị đã gây nên bao vụ đổ máu ghê hồn để chống lại với kẻ thù
chung.
Muốn biết về Việt nam quốc dân đảng, không gì bằng
hỏi ngay một yếu nhân của đảng đó, ông Nhượng Tống, người đã trung thành với đảng
ngay từ lúc khai sơ.
Nhượng Tống Nam Đồng thư xã
Trong
vòng nhiều năm cho tới nay, muốn tìm hiểu về Nam Đồng thư xã, tài liệu khả tín
nhất là cuốn sách này của Nhượng Tống:
(Nguyễn
Thái Học (1902-1930), Việt Nam thư xã, 1945, xuất bản nhân dịp kỷ niệm 15 năm
vụ Yên Bái; tác phẩm này về sau đã có vài lần tái bản)
Sở dĩ nói cuốn sách khả tín là vì tác giả là Nhượng Tống, vừa là thành viên
sáng lập Nam Đồng thư xã vừa là thành viên sáng lập Việt Nam Quốc dân đảng
(trong khi đó, Nguyễn Thái Học không phải thành viên sáng lập Nam Đồng thư xã).
Chương IV cuốn sách mang tên "Nam Đồng thư xã" cho biết Nam Đồng thư
xã "lập nên vào cuối năm 1926", vì "trình độ trí thức của dân
mình còn thấp kém quá! Đại đa số người dân không có một chút gì là công dân
giáo dục", thế nên tôn chỉ của Nam Đồng thư xã là "dậy cho người ta
biết thương đồng bào, biết yêu Tổ quốc, biết thế nào là quyền lợi và nghĩa vụ
của một người công dân. Sau nữa, giúp cho ai nấy có đôi chút thường thức về các
khoa chính trị, như kinh tế học, xã hội học, các hiến pháp, các chủ
nghĩa".
Nhương Tống viết về NGUYỄN
THÁI HỌC 1902-1930
LỜI
NGỎ
Các
Bạn, Dù sao thì ba chữ Nguyễn Thái Học tới nay cũng đã là một cái tên trên lịch
sử. Không phải trên lịch sử của dân tộc Việt Nam bị xiềng xích! Mà là trên lịch sử của cả nhân loại, hiện nay
còn quằn quại đau thương! Đó không phải là ý riêng tôi, một bạn cùng thề với
Anh. Nhưng là ý chung hết thảy những kẻ hữu tâm ở thế gian này, chẳng hạn như
những nhà văn Nhật Bản, khi họ viết cuốn ‘’An Nam Lê Minh Ký’’ hay ‘’Nam Phương
Dân Tộc Vận Động Sử’’. Trong các cuốn sách ấy, người ta đã vì công lý, vì nhân
đạo mà nói nhiều về Nguyễn Thái Học.
Vậy
mà Quốc Dân ta, các đồng bào Anh, đối với thân thế Anh, nhiều người mong được
biết qua loa mà không thể được! Bao nhiêu là đợi trông! Bao nhiêu là tủi nhục!
Cho nên trong lúc này, là lúc có thể được, tôi cần phải viết ngay cho Anh một
cuốn tiểu sử. Tôi tự nhận đó là một nghĩa vụ. Nghĩa vụ đối với Quốc Gia, vì thân
thế Anh chính là tấm gương phấn đấu, hy sinh, cần phải được nêu ra để khích lệ
tất cả mọi người trong nước.
Nhượng Tống viết về Phó Đức
Chính
Đây
là bài viết của Nhượng Tống về Phó Đức Chính, đăng báo năm 1946:
Phó
Đức Chính
“Mình
về mình nhớ ta chăng?
Ta
về ta nhớ hàm răng mình cười…”
Nếu
nụ cười của mỹ-nhân có sức buộc được lòng người, thì nụ cười của anh Chính cũng
làm cho tôi nhớ Anh mãi mãi…
Nước
da thiết bì, khuôn mặt gân guốc, cặp mắt to còn phản chiếu một linh-hồn trong
trắng, nụ cười của anh không phải đã có duyên thầm hay đầy tình tứ. Tuy vậy, nó
tỏ cho ta biết anh là một người bình tĩnh, vui vẻ, luôn luôn bằng lòng với
mình, và tin cậy ở bạn-hữu. Sự bằng lòng và sự tin cậy ấy còn tỏ ra một lần
cuối cùng khi anh đứng trước hội-đồng Đề Hình của người Pháp lập ở Yên-Bái… Khi
ấy, sau khi kết cho anh cái án xử-tử, vì anh tự nhận là người chỉ huy việc khởi
nghĩa ở đấy, viên chánh Hội-Đồng hỏi lại anh:
“Có
chống án không?”
Anh
mỉm cười đáp:
“Làm
một việc hỏng cả một việc rồi! Còn sống làm gì nữa mà chống án?”
Nhượng Tống viết về Phạm Hồng
Thái và Tâm Tâm xã
Giai
đoạn 1945-1946 tao loạn, làm nảy sinh những mối cộng tác rất kỳ lạ. Vũ Bằng
từng kể mình bắt tay với Khái Hưng làm cùng một tờ báo, coi như đó là một điều
rất bất thường. Nhưng Vũ Bằng thì ai mà chẳng cộng tác được: cùng quãng thời
gian ấy, sự cộng tác của Nhượng Tống và Khái Hưng mới là đáng kể và kỳ lạ. Bài
báo dưới đây xuất hiện trên một tờ báo có sự cộng tác ấy.
Ta có thể để ý, ở đoạn đầu bài, khi Nhượng Tống kể lại về "tai nạn dịch
thuật" phiên tên Phạm Hồng Thái thành "Phan Hồng Tài", xét về
niên đại thì đó chỉ có thể là tờ Khai hóa hoặc tờ Thực nghiệp dân báo (Dân
báo).
Thực chất, chính là quanh hai tờ báo này mà lứa trí thức Việt Nam sinh cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã tìm được cách khởi đầu cho sự nghiệp trước tác của
mình. Nhượng Tống, nhưng cả Khái Hưng nữa; cũng chính nhờ tòa soạn mấy tờ này
mà Nhượng Tống sẽ quen biết với Phạm Tuấn Lâm, Phạm Tuấn Tài, để từ đó mà nảy
sinh Nam Đồng thư xã vài năm sau.
Lịch sử Việt Nam, thật ra, có những câu chuyện rất là khác.
Tiểu sử Nhượng Tống
Nhượng
Tống (1904 – 1949[1]) là một nhà cách mạng Việt Nam. Ông cũng là nhà thơ, nhà
văn và dịch giả.
“Theo tác giả
Hoàng Văn Đào thì Nhượng Tống đã bị Nguyễn Văn Kịch, biệt động nội thành của
Việt Minh ám sát ngày 20 tháng 8 năm 1949, tức 26 tháng 7 âm lịch năm Kỷ Sửu (theo Việt Nam Quốc Dân Đảng, Lịch Sử Đấu Tranh
Cận Đại 1927- 1954, tr. 466-467
và ở đây:[1]).”
Ông tên thật là Hoàng Phạm Trân, do bút danh Nhượng Tống nên còn gọi là Hoàng
Nhượng Tống. Ông quê ở làng Đô Hoàng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Thân sinh của
ông là Hoàng Hồ, một danh sĩ đời nhà Nguyễn, nổi tiếng chống Pháp. Điều này ảnh
hưởng rất lớn đến hoạt động chính trị của ông sau này.
VĂN HÓA DÂN TỘC SỬ QUAN BIỆN CHỨNG PHÁP VĂN
HÓA DÂN TỘC SỬ
Đỗ Quý Sáng (1943-2002)
TÂM THỨC VÀ VÔ TÂM THỨC VIỆT TÍNH
Khổng Tử khi thấy thế đạo của
ngài chưa được tin dùng đã có lần than: “Đạo của ta cùng rồi sao?” để thấy tri
thiên mệnh như ngài mà cũng có lúc phải giao động. Một số người khi thấy cái thế
hung bạo, bành trướng của Cộng sản đã ngã lòng và cho rằng Cộng sản chỉ có tiến
chứ không bao giờ tụt xuống. Lấy tất yếu mà nói thì hễ nhân vi là có sơ lâu,
không có vật gì lên đến cực đại mà đứng mãi, không có vật gì có khởi điểm mà
không có dứt điểm. Dùng Dịch Lý mà suy xét, không có vật gì không có chuyển biến.
Trong lãnh vực nhân vi, niềm tin là căn nguyên của mọi động tác và biến chuyển.
Hễ một niềm tin mới được xuất hiện, sự duỗi dài của niềm tin ấy sẽ khiến thành
tựu vào sự việc.
Tình Sử Cô Giang - Cải lương - Soạn
giả Hương Chiều.
Jul 14, 2015
Tình Sử Cô Giang - Cải lương - Soạn giả Hương Chiều.
Giới thiệu kịch thơ Lời Thề ở Đền Hùng.
Vở kịch thơ Lời Thề ở Đền Hùng ca ngợi mối tình cao đẹp của
nhà Chí sĩ Nguyễn Thái Học và nữ anh thư Nguyễn Thị Giang, tiêu biểu cho hang ngũ
cách mạng tiền phong, không phải chỉ của Việt Nam Quốc Dân Đảng mà của toàn thể
dân tộc Việt Nam.
Có nhiều phê bình cho rằng Cô Giang tự tử chứ không phải do
can đảm chiến đấu mà tử trận như các chiến sỉ bỏ mạng sa trường. Bà Hồng Diệp
(Nguyên bí thư Thành bộ VNQDĐ Houston) nói rằng kịch bản Lời thể ở Đền Hùng do Ảo
Giản Phan Ngô soạn chỉ thuật lại câu chuyện chứ không mô tả bối cảnh ấy nên vẫn
có hiểu lầm rằng Cô Giang chủ bại sau khi người yêu tuẫn quốc.
Nhờ các phân giải ấy, Đường Sơn Đỗ Quý Sáng trước tác kịch bản
Lời Thề ở Đền Hùng với thời điểm trước, khi khí thế cách mạng của Việt Nam Quốc
Dân Đảng còn hừng hực lửa và làm sang tỏ vai trò trung trinh của một người liệt
nữ trong khúc quanh éo le của lịch sử.
Lấy Đền Hùng làm nơi tuyên thệ, tác giả có ý muốn nói lên
chính nghĩa và mục đích phục vụ không rein gì cho Việt Nam Quốc Dân Đảng mà cho
tất cả mọi đảng phái trong quốc dân Việt.
Đem nỗi bi hùng tráng của đảng trưởng Nguyễn Thái Học và Cô
Giang vào vở kịch “ Lời Thề ở Đền Hùng” là nói lên tinh thần Việt bất diệt ở mọi
hoàn cảnh khó khan trong lịch sử. Tất cả đều là những quyết tâm hy sinh vỉ đại
nghĩa dù “ Chưa thành công, cũng thành nhân”.
Có thể nói cả hai vở kịch đều diễn tả cao đẹp mẫu người liệt
nữ phi thường Nguyễn Thị Giang, một bậc cân quắc anh thư đã làm chúng ta:
“ Hãnh diện chẳng vì song núi đẹp,
Anh hùng liệt nữ quá hy sinh.”
Xin trân trọng giới thiệu kịch thơ.
Trung Hiếu
Kỷ niệm lần thứ 87 ngày tang Yên Báy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét