Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Năm, 4 tháng 12, 2025

Chuyện Vãn: Sợ Vợ Mới Anh Hùng - Vương Trùng Dương


Phim Sợ Vợ Mới Anh Hùng ra mắt vào đầu năm Ất Mão 1975, cách nay tròn nửa thế kỷ, ngay tựa đề cũng biết phim hài vì hai diễn viên Thanh Việt, Khả Năng đã một thời nổi tiếng danh hề. Và sau nầy, hài kịch Sợ Vợ Mới Là Anh Hùng sản xuất năm 1989 ở Mỹ với hai diễn viên điện ảnh Hùng Cường vai Chú Phón và La Thoại Tân vai ông Chủ. Đàn bà như giòng sông lặng lờ êm đềm trôi nhưng khi nổi cơn thịnh nộ chẳng khác gì gặp lúc mưa lũ, xả đập, nổi cơn thịnh nộ, nước cuồn cuộn chảy, cuốn phăng tất cả chướng ngại vật, không có gì cản nổi! Như biển lặng gặp giông bão, động đất ngoài biển khơi, thủy triều dâng cao, táp vào bờ!
<!>
Trước đây trong các bài viết liên quan đến đề tài nầy. Bài viết Nữ Lưu Nổi Máu:
“Kịch tác gia Pháp Molière (1622-1673) qua hai vở kịch L’école des Maris và L’école des Femmes (Trường Học Làm Chồng - Trường Học Làm Vợ) để lại câu nói “Đàn bà là con vật khó hiểu”; trước đó, nhà văn Tây Ban Nha Cervantes (1547-1616) đã cho rằng “Giữa cái có và cái không của người đàn bà, không có chỗ đứng cho một cây kim gút” cho thấy đàn bà là hình ảnh kỳ bí, không thể nào hiểu được một cách đơn giản…

Bên cạnh hình ảnh thiết tha, dịu dàng, nhu mì, khả ái, đoan trang, mẫu mực, thanh tao, uyển chuyển... cùng những đức tính tuyệt vời của đấng nữ lưu nâng niu cho giọt máu được hình thành trong cõi đời của mình mà bao nhiêu danh họa, văn thi sĩ tài hoa đã cống hiến không biết bao nhiêu bút mực đã làm say đắm, ngất ngây tâm hồn người thưởng ngoạn từ xa xưa đến nay thì cũng có bao nhiêu hình ảnh trái ngược được đề cập qua văn chương, sách vở khi giai nhân nổi cơn thịnh nộ…

Theo các sử gia ngày xưa, vị vua cuối cùng của nhà Thương ở Trung Hoa vào khoảng từ năm 1166 đến 1134 trước Công Nguyên là Thọ Tân hoàng đế: Trụ Vương. Vua Trụ là người thông minh, có sức mạnh phi thường nhưng tàn bạo và hoang dâm. Nhà Thương trị vì thiên hạ được 661 năm, đến đới Trụ Vương thì bị sụp đổ bởi Đắt Kỷ.

Vua Trụ có hoàng hậu họ Khương và hai quý phi họ Hoàng, họ Dương thuộc loại sắc nước hương trời, bên cạnh có hơn nghìn cung nữ trẻ đẹp nhưng vẫn chưa thỏa mãn, cho cận thần săn gái.

Nghe tin Tô Hộ, Thứ sử Ký Châu có đứa con gái thuộc loại tuyệt sắc giai nhân nên vua Trụ cho mời Tô Hộ vào cung Long Đức, báo tin muốn tuyển Đắt Kỷ vào cung. Tô Hộ tìm cách từ chối vì không muốn đứa con gái mình rơi vào tay hoàng đế dâm đãng. Vua Trụ nổi giận, đem Tô Hộ ra xử với trọng tội khi quân, nhờ Vưu Hồn và Bí Trọng can gián nên thoát khỏi tội hình. Khi Tô Hộ về tới Ký Châu, vua Trụ sai Sùng Hiền đem quân tới trị tội và bắt giam người con trai là Tô Toàn Trung. Tô Hộ đau lòng vì có con gái nhan sắc đem dâng hiến cho kẻ hiếu sắc thì cảm thấy nhục nhã, cưỡng lại thì bị tai ách nên đêm khuya vào hậu cung toan tự tử. Ông vào nhìn con lần cuối cùng trước khi vĩnh biệt cõi trần. Đắt Kỷ biết được sự tình nên xin thân phụ cho nàng vào triều để gia đạo bình an và cũng là đạo làm con.

Nhìn thấy Đắt Kỷ, vua Trụ liền đưa Tô nương nương vào lầu Thọ Tiên để hưởng hoan lạc. Suốt hai tháng trời, vua Trụ đắm chìm trong tửu sắc ở cung Thọ Tiên. Thấy nguy cơ cho bậc đế vương, các quan đại thần tìm cách can gián như Đỗ Nguyên Tiễn, Mai Bá... đều bị hành hình.Đắt Kỷ hiến kế cho vua Trụ đúc cột đồng gọi là Bào Lạc, cao ba chục thước, rộng tám thước (thước ở Trung Hoa thời đó bằng 0,25 mét, gần 10 inches) có ba miệng lỗ để đốt than cho nóng, bắt phạm nhân chun vào trong cho cháy thiêu. Mục đích của Đắt Kỷ, cho trị tôi như vậy để kẻ khác khiếp sợ.

Để hưởng thụ, vua Trụ nghe lời Đắt Kỷ, cho xây Lộc Đài rộng ba dặm ,, cao hơn một nghìn thước; xây Khuyển Đài để nuôi muôn thú cho Đắt Kỷ săn bắn.

Khi Đắt Kỷ vào ở cung Thọ Tiên, hưởng lạc lâu ngày cùng nhà vua, hoàng hậu họ Khương và hai quý phi gọi Đắt Kỷ vào chầu, lên án Đắt Kỷ mê hoặc hoàng đế đã bỏ việc triều chính và dọa sẽ trị tội.

Đắt Kỷ nuôi nỗi căm hận nhưng chưa tạo được thời cơ nên tìm cách mua chuộc đại phu Bí Trọng rồi bày mưu, lập kế để vu oan giá họa cho hoàng hậu họ Khương cho người làm chuyện phản nghịch để cướp ngôi. Khương hậu bị kết tội, Trụ Vương cho khoét mắt rồi dùng hai thanh sắt nung đỏ, áp vào tay để khai và nhận tôi nhưng Khương hậu cam chịu cho đến chết. Quý phi họ Dương thấy nguy cơ nên tự vận để tránh cực hình.

Đắt Kỷ chính thức làm hoàng hậu, nói gì Trụ Vương cũng nghe nên lộng hành áp đảo quan lại trong triều. Để tất cả cung nữ cúc cung tận tụy, Đắt Kỷ cho xây hầm rắn độc, trong đợt đầu, bắt 72 cung nữ có lời đàm tiếu, lột áo quần, quăng xuống hầm rắn. Ngoài ra, Đắt Kỷ còn bày ra các thú tiêu khiển trên xác hoạn quan và cung nữ, bên cạnh những cực hình rất dã man.

Bao nhiêu đại thần can ngăn đều bị hành hình, ngay cả Tỷ Can, chú ruột của vua, bị mổ bụng xem gan to đến đâu như ý của Đắt Kỷ. Khi vua Trụ không đủ sức cung phụng cho Đắt Kỷ, nàng kiếm trai tơ, Bá Áp Khảo với ngón đàn tuyệt vời, đẹp trai nên nàng tìm cách gần gũi để hưởng lạc nhưng chàng ta khờ dại không đáp ứng nên bị kết tội có ý hại nàng. Đắt Kỷ cho hành hình bằng cách lột quần áo rồi cho người xẻo từng miếng thịt để trị tội.

Khi Chu Vũ Vương chỉ huy quân sĩ xông vào hoàng thành; vua Trụ tự thiêu trên lầu Trích Tinh và Đắt Kỷ bị giết, kết thúc triều đại hùng mạnh nhà Thương…

Trong tác phẩm Thiên Long Bát Bộ, nhà văn Kim Dung xây dựng nhân vật Mã Phu Nhân cũng tương tự nhu vậy. Khang Mẫn là vợ của Mã Đại Nguyên, bang phó Cái Bang nên thường gọi là Mã Phu Nhân. Nàng cũng là nhân tình của Đoàn Chánh Thuần, biết Đoàn lang có vợ là Thư Bạch Phụng và bốn nhân tình khác như Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Túc, Chung Phu Nhân, Vương Phu Nhân nên Mã Phu Nhân vừa yêu vừa hận, muốn xé gan lóc thịt tình quân. Mã Phu Nhân tự cho mình sắc nước hương trời, bất cứ đấng mày râu nào trông thấy dung nhan cũng ngẩn ngơ, thèm thuồng.

Trong dịp tổ chức Bách Hoa hội ở Lạc Dương, Mã Phu Nhân như đóa hoa sáng chói giữa nghìn nam nhân, ai trông thấy cũng ngưỡng mộ nhan sắc, duy nhất chỉ có bang chủ Cái Bang là Kiều Phong, bỉnh bơ, không chú ý gì đến nàng. “Người không thèm ngắm ta, thử hỏi ta tự phụ xinh đẹp cón có ý nghĩa gì kia chứ? Hơn một ngàn người vì ta mà thần hồn điên đảo, người như thế ta chịu sao nổi” (TLBB). Thế là Mã Phu Nhân nuôi hận trong lòng, tìm cách cấu kết với hai trưởng lão Cái Bang là Bạch Thế Kính và Toàn Quán Thanh, bày mưu ám hại bang chủ Kiều Phong cho thân bại danh liệt. Bao nhiêu tai họa đẫm máu do ả gây nên, trước hết là Mã Đại Nguyên, kế đến là các tay cao thủ trong võ lâm để trút lên đầu Kiều Phong rồi lật tẩy chàng gốc Khiết Đan, kẻ hận thù với dân tộc Hán. Kiều Phong thoát chết trong âm mưu của Mã Phu Nhân nhưng người tình của chàng là A Châu lại chết dưới chưởng phong của chàng để lại nỗi thương tâm dằn vặt trong lòng!.

Nam Vương Đoàn Chính Thuần nổi tiếng là tay phong tình, vương phi Thư Bạch Phụng nổi máu “ghen” chuyện chàng “ăn chả” nàng bèn nổi giận, ra chốn sơn lâm gặp chàng ăn mày, thương tích dơ dáy “ăn nem” trao tấm thân ngà ngọc, mỹ miều để mang giọt máu: Đoàn Dự. Rồi đến Vương phu nhân, thân mẫu của Vương Ngọc Yến, thấy tình lang Đoàn Chính Thuần đâm bang cù thị, hết tù tì người nầy đến tù tì người khác, nàng nổi máu anh hùng, thành lập “đội thám kích” truy lùng những tay đại đạo hái hoa đem về đảo Cô Tô cho nếm mùi gian khổ. Ghen nhau trong vòng lẩn quẩn như vậy cho đến khi hội tụ trong hoàn cảnh vô cùng nghiệt ngã, trong hận thù và yêu thương, trong giây phút tử sinh, bốn nàng đều muốn nghe lời tỏ bày hình ảnh của mình còn có trong trái tim của Đoàn lang không? Và, ai cũng cũng có cả nên toại nguyện trút hơi thở cuối cùng, xác kề bên nhau!

Hình ảnh tiêu biểu cho nhân vật nữ lưu nổi máu đã lưu truyền trong lịch sử nhân loại như Võ Tắc Thiên vào cuối thế kỷ thứ VII ở Trung Hoa. Nhân vật nầy cũng được đề cập nhiều nhất qua nhiều ngoài bút của sử gia và văn nhân...

Trong thời kỳ phong kiến, phận nữ lưu bị xem nhẹ thế mà từ cung phi dám nổi máu thay đổi triều đại để “thay trời làm vương”. Phế bỏ triều đại nhà Đường từ thời Cao Tổ đến Duệ Tông (618-684); sau khi Dường Cao Tông mất, Vũ Hậu ra tay phế bỏ Trung Thông, Lý Thông, Lý Đản, lên ngôi hoàng đế, đổi quốc hiệu nhà Chu (690-705) thống trị Trung Hoa.

Võ Tắc Thiên nổi tiếng người đàn bà dâm đãng, thủ đoạn tàn nhẫn đến nỗi giết con để vu oan giá họa... lung lạc cả vương triều phong kiến đầy uy quyền trở thành lá bài phải nằm trong bàn tay.

Và, với nữ lưu, không có tác động nào gây cơn thịnh nộ nào bằng ghen, xin khái quát qua vài hình ảnh được lưu truyền…

Xin đơn cử vài hình ảnh đã nghe quen quen thời xa xưa còn lưu lại sách vở.

Vào năm 200 trước công nguyên, đời Tây Hán, vợ của Hán Cao tổ Lưu Bang là Lữ Trĩ. Vợ chồng bên nhau lúc thuở hàn vi, nàng thuộc người mẫu mực. Khi chàng trở thành Hoàng đế và nàng trở nên Hoàng hậu, chàng có người hậu phi là Thích Cơ trẻ đẹp, dễ thương. Rồi một hôm, chàng say, nằm ngủ trên đùi Thích Cơ, có kẻ mách báo và nàng bắt gặp, để tâm, chờ ngày trả thù. Khi Hán Cao Tổ chết, Thích Cơ bơ vơ, Lữ Hậu manh tâm trả thù. Lữ Hậu truyền bắt Thích Cơ và cung nhân hầu cạnh để đem ra hành hình rất dã man: bắt uống thuốc câm, bị chặt tay chân, khoét mắt, cắt tai rồi giam vào ngục tối đầy phân. Nạn nhân đau đớn, không thốt lên tiếng, chỉ ú ớ cho đến khi kiệt lực, tắt thở.

Đời Tam Quốc vào thế kỷ thứ III, chúa chư hầu Hà Bắc là Viên Thiệu có người vợ là Lưu phu nhân nổi máu cũng “rợn người”. Viên Thiệu có 5 nàng hầu rất khả ái nên tỏ lòng trìu mến. Khi Viên Thiệu chết, Lưu phu nhân bắt 5 nàng hầu ra giết. Nàng sợ vong hồn người chết về báo oán nên sai người cạo tóc, lột mặt, khoét mắt rồi bằm nát 5 thây chết thành đống bầy nhầy. Chưa hết, con trai của nàng là Viên Thượng sợ thân nhân họ trả thù nên sai bắt thân nhân gia thuộc của 5 nàng đem ra giết để trừ hậu hoạn!.

Vào thế kỷ thứ X, đời Tống, ở về phía Đông Bắc Trung Hoa, Hoàng đế nước Kim có hai nàng cung phi, Lệ Cẩm & Ngọc Sương tuyệt trần nên được sủng ái. Hoàng hậu ứa gan nhưng đành câm lặng. Trước khi nhà vua chết, có dặn quần thần đem chôn sống hai nàng ái phi theo vua.

Hoàng hậu thực hiện đúng theo di ngôn Hoàng đế nhưng lại nghĩ nếu để hai nàng trẻ đẹp nguyên vẹn theo vua nơi “âm cảnh” thì cả ba cứ quấn quít bên nhau tha hồ tình tự, ái ân... gai con mắt. Nàng truyền thị vệ khoét mắt, vạch mặt, cắt mũi Lệ Cẩm và Ngọc Sương thành quỷ, ngâm giấm rồi đem chôn.

Câu chuyện được đề cập rất nhiều: Tây Thi. Đời Đông Châu, Việt Vương Câu Tiễn thua Ngô nên bị Ngô Phù Sai cầm tù ở nhà đá mang tên “Thạch Thất”, cả hai vợ chồng phải chăn ngựa cho nhà vua. Câu Tiễn giả khùng, giả ngu nếm phân và tìm cách hối lộ với gian thần của Ngô là Bá Hy nên được cho về. Giai nhân tuyệt sắc nước Việt ở thôn Tây Bích La, gọi là Tây Thi, người đời liệt kê “Tứ đại mỹ nhân” được dùng mỹ nhân kế, đem dâng cho Ngô Phù Sai. Ngô vương mê mệt, ngày đêm cùng bên Tây Thi muốn tận hưởng giây phút lạc thú, quên cả giang sơn, đất nước. Câu Tiễn ngày đêm chiêu binh thao lược. Nước Ngô ngày càng suy yếu vì Phù Sai đắm chìm trong tửu sắc, bỏ bê việc triều chính. Cuộc chiến bùng nổ, Ngô bại trận, Phù Sai tự tử.

Tây Thi làm tròn sứ mệnh của người con nước Việt, sau tháng ngày thăng trầm nơi cung cấm, ngán ngẩm cảnh đời, mong trở lại yên sống nơi cố hương. Người hùng Phạm Lãi trong tháng ngày sóng gió có mối tình sâu đậm với Tây Thi. Câu Tiễn vừa ái mộ tinh thần hy sinh của người đẹp, vừa xúc động trước sắc nước hương trời dù trải qua bàn tay thô bạo. Vương phi Câu Tiễn cảm nhận được điều đó, Phạm Lãi không muốn kẻ đầy quyền phỗng tay trên nên tìm cách tựu kế với vương phi. Trên cuộc hành trình, vương phi mật sai kẻ thân tín bắt Tây Thi cột vào đá rồi ném xuống dòng Tam giang. Sát hại cho chết và cũng không muốn Câu Tiễn được nhìn xác chết.

Chấn động xưa nay là hình ảnh Võ Hậu, vợ vua Đường Lý Trị vào lúc suy vong. Võ Tắc Thiên độc ác, dâm đãng và khuynh đảo cả một giang sơn rộng lớn, trị vì cả một dân tộc đông nhất trên thế giới ở thời kỳ phong kiến…

Thị xã Hà Đông nằm về hướng nam Hà Hội, nối tiếp nhau bởi con đường Nguyễn Trãi. Ở Trung Hoa cũng có địa danh Hà Đông, địa danh nầy nữ lưu đã đi vào văn chương, thế rồi người đẹp thị xã Hà Đông lại mang tiếng oan về máu ghen hung dữ, nó lại trở thành ngôn ngữ chung “Sư Tử Hà Đông” ám chỉ hình ảnh nổi máu “tam bành lục tặc”, thật oan cho người đẹp bên cạnh kinh thành nghìn năm văn vật.! gọi là sư tử vì sư tử là chúa tể sơn lâm, mỗi khi nổi giận rống lên chấn động, khiếp đởm cả rừng xanh.

Theo điển tích, nhà thơ Đỗ Phủ (712-770) đời Đường ở Trung Hoa có câu “Hà Đông nữ nhi thân tính Liễu” lấy từ sách kinh nhà Phật “Sư tử hống liễu nghĩa kinh”. Sau ba thế kỷ, sự tình cờ trùng hợp với ý thơ của Đỗ Phủ, bạn thân của Tô Đông Pha là Trần Tạo, tự Quý Thường, sùng đạo Phật, quy y với pháp danh Long Khâu. Trần Tạo có người vợ cũng Liễu Thị, máu ghen dữ dằn, vang lừng “năm châu bốn bể”; nhà thơ Tô Thức đã làm bài thơ tứ tuyệt giễu bạn ta:

“Thùy tự Long Khâu cư sĩ hiền,
Đàm không thuyết pháp dạ bất miên.
Hốt văn Hà Đông sư tử hống
Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên”.

(Hiền lành mộ đạo có Long Khâu

Đọc kinh thuyết suốt canh thâu
Bỗng nghe sư tử Hà Đông rống,

Kinh hoàng bỏ gậy rớt nơi đâu).

Trở lại với hình bóng quê hương, nhà thơ trào phúng Tú Xương dùng hình ảnh “Sư Tử Hà Đông” để nói lên tình cảnh vợ lớn, vợ nhỏ:

“Hầu hạ đã cam phần cát lũy

Nhặt khoan còn ỏi tiếng Hà Đông!”

Từ đó, chàng trai Hà Nội xuôi Nam, mò mẫm tán tỉnh người đẹp Hà Đông, bị phản pháo rồi đem hình ảnh Hà Đông thời xa xưa gán ghép vào rồi dệt thành nhiều giai thoại con gái Hà Đông.

Thế thì, mấy ai nhờ đọc được tích xưa nên bắt chước Tú Xương “Nhặt khoan còn ỏi tiếng Hà Đông” bèn thử thời vận, trong nhờ đục chạy. May quá, phước lành!...”

Trong bài viết Quanh Chuyện Tóc Bạc & Sợ Vợ:

“Chữ ‘sợ’ theo tự điển: Ở trạng thái không yên lòng vì cho rằng có cái gì đó trực tiếp gây nguy hiểm, tác hại bản thân, không thể chống lại hoặc tránh khỏi. Không yên lòng đo lường trước sự việc xảy ra… “Sợ vợ là trạng thái tâm lý của người chồng thường được biểu lộ qua ngôn ngữ, cử chỉ hay hành động mà ở đó biểu hiện sự phục tùng của người chồng đối với vợ về một hay nhiều phương diện trong cuộc sống”.

Cần phân biệt sợ vợ với tôn trọng vợ, nể vợ, yêu vợ và nhường nhịn vợ. Tôn trọng vợ là sự tương kính với nhau. Nể vợ là cảm thấy khó làm trái ý, làm mất lòng vợ vì lòng quý mến. Yêu vợ là có tình cảm dễ chịu khi tiếp xúc với vợ, muốn gần gũi và thường vì vợ mà hết lòng. Nhường nhịn vợ là chịu phần kém, phần thiệt về mình, để cho vợ được hưởng phần hơn trong quan hệ đối xử.

Còn đối với sợ vợ là biểu hiện sự phục tùng của người chồng đối với vợ. Tuy nhiên, sự phục tùng này có thể xuất phát từ việc tôn trọng, yêu thương, chiều chuộng vợ hoặc có thể ngược lại.

Tục ngữ có câu: “Nhất vợ nhì trời. Lệnh ông không bằng cồng bà”.

Ca dao còn có câu:

“Trời ơi ngó xuống mà coi
Vợ tôi nó đánh bằng roi trâm bầu”

Và, ví von lập luận của phe sợ vợ:

“Muốn cho trong ấm ngoài êm
Vợ ta, ta sợ cả đêm lẫn ngày.

Muốn cho êm ấm cửa nhà
Vợ kêu chồng dạ bẩm bà, tôi đây!”

Sợ vợ chẳng có gì lạ, là hiện tượng phổ biến trên thế giới. Ngày xưa với quan niệm Á Đông thì ít đề cập đến sợ vợ vì giữ Tam Tòng: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Và câu tục ngữ “Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng” nên không có chuyện sợ vợ. Vài giai thoại cho rằng sợ vợ có sự khác nhau được ví von như:

Đàn ông Pháp khi sợ vợ thường chui vào hầm rượu vang, uống cho thật say và nằm im. Đến khi tỉnh lại, họ đi kiếm một chai Champagne mang về tạ lỗi.

Đàn ông Anh khi sợ vợ thường kiếm một đám sương mù thật dày đặc để chui vào. Trong đám sương đó, họ lén lút viết đơn xin ly dị và để rồi lén lút đốt đi khi sương tan.

Đàn ông Tây Ban Nha mỗi khi sợ vợ là chán đời đi đánh nhau với bò tót. Sợ càng nhiều, họ đánh lại càng hăng. Kết quả là các nhà vô địch sợ vợ đều ít khi trở về nhà sau mỗi trận đấu, hoặc nếu có trở về thì cũng khiến cho vợ thất vọng tràn trề vì “gia tài còn lại một vòi nước trong”.

Đàn ông Ý khi sợ vợ thường chui vào bếp nấu món mỳ ống. Nấu nướng xong, họ bưng lên, rắc cà chua và phó-mát vào, rồi ngồi chờ vợ cho phép mới dám ăn.

Đàn ông Đức mỗi khi bị vợ mắng là ra xe hơi nằm. Chính những lúc tâm hồn u uất, nằm suy nghĩ về những mối tương quan vật chất và tinh thần giữa vợ và xe vậy mà họ làm ra được những chiếc xe hơi nổi tiếng nhất thế giới.

Không hiểu đàn ông Mỹ khi sợ vợ thì thế nào? Các cụ ta ở Mỹ khi sợ vợ thì chui vào đâu?

Sợ vợ cũng tùy theo độ tuổi, trung niên (30-40), sồn sồn (50-60), già (70-80), già khú đế (80 trở lên)… Với luật pháp xứ Cờ Hoa thì số phận đàn ông hẫm hiu, xếp loại đứng cuối bảng phong thần, ngay cả súc vật!...

Trong bài viết Ghen & Hận Trong Tác Phẩm Kim Dung:

Trong quyển Võ Lâm Ngũ Bá, cuộc tình chớm nở giữa Vương Trùng Dương và Lâm Triều Anh từ khi xuất hiện trong chốn võ lâm, không những hận ở đôi tình nhân nầy mà còn kéo dài đến thế hệ khác. Vương Trùng Dương vì nghĩa, hành hiệp giang hồ, chống giặc Kim, lập nhiều chiến công nhưng quân Kim quá mạnh, nghĩa quân về sau đại bại, Vương Trùng Dương phẫn uất xuất gia, không màng thế sự nữa, tự xưng là Hoạt Tử Nhân, nghĩa là sống cũng như chết. Chấp nhận sống trong ngôi cổ mộ sau núi Chung Nam.

Bằng hữu khuyên bảo tái xuất giang hồ nhưng Vương Trùng Dương bất chấp, kiên quyết không bước ra khỏi mộ. Tám năm sau, Lâm Triều Anh, đẹp, thông minh và giỏi võ công, nữ kình địch ngày trước của ông đến bên mộ, gây chuyện, chửi mắng, nhục mạ đối thủ suốt bảy ngày bảy đêm. Chịu hết nổi, ông liền ra giao đấu. Vừa bước ra khỏi mộ, nàng cười to: “Đã ra khỏi mộ, tức là sống lại rồi, không được vào mộ nữa”. Hai người hóa thành bằng hữu, phiêu bạt giang hồ. Vương Trùng Dương tuy có tình cảm với Lâm Triều Anh nhưng vì sự nghiệp chống quân Kim nên “lửng lơ con cá vàng” không muốn kết hôn, từ yêu đến hận dẫn đến trận quyết đấu với nhau.

Lâm Triều Anh thông minh, võ công tuyệt đỉnh, hai bên ngang ngửa nhau, bất phân thắng bại nhưng Vương Trùng Dương không muốn nàng trút hận tình phải sinh tử, nàng thắng trong cuộc đấu và giành quyền giữ ngôi cổ mộ.

Trước khi đấu Lâm Triều Anh ra điều kiện: Nếu huynh thắng, muội sẽ tự vẫn tại chỗ, thế là không bao giờ còn thấy mặt nhau. Nếu muội thắng, huynh phải nhường muội trú trong “hoạt tử nhân mộ”… Trước tình thế đó, Vương Trùng Dương buộc lòng phải thua vì không nỡ thấy nàng tự sát.

Sau khi vào cổ mộ, Lâm Triều Anh lập ra phái Cổ Mộ, tìm hiểu thêm môn võ công mà Vương Trùng Dương khắc họa ở đây, rồi nghiền ngẫm sáng chế môn võ công Ngọc Nữ Tâm Kinh nhằm khắc chế toàn bộ võ công của Vương Trùng Dương và phái Toàn Chân.

Môn võ công này đặc biệt trong cách luyện tập, phải hai người cùng luyện, hai người đó phải là nữ (nam và nữ luyện nhau cũng được nhưng bất tiện) vì khi luyện phải cởi bỏ hết quần áo.

Lâm Triều Anh cho rằng hiệp nghĩa như Vương Trùng Dương mà vô tình bạc nghĩa thì mọi nam tử trên thế gian đều tệ như vậy cả… Lâm Triều Anh ra qui luật, đệ tử được truyền y bát, phải thề suốt đời sống trong cổ mộ, không được rời khỏi núi Chung Nam, nếu có nam tử cam tâm tình nguyện chết thay thì lời thề coi như được xóa bỏ. Có điều là không được cho nam tử biết trước điều đó.

Lâm Triều Anh không thu nhận đệ tử, chỉ có một a hoàn hầu cận, hai người khổ thủ ở trong nhà mộ, hơn mười năm không ra ngoài. Lâm Triều Anh truyền thụ tất cả võ công cho a hoàn. Nữ a hoàn đó (Tôn bà bà) thu nhận hai đệ tử là Lý Mạc Sầu và Tiểu Long Nữ…

Trong quyển Thần Điêu Hiệp Lữ, Lý Mạc Thu là đệ tử đời thứ ba trong phái Cổ Mộ. Thời trẻ, Lý Mạc Thu bản tính lương thiện, tài sắc vẹn toàn, cưỡi con lừa hoa trên cổ có đeo chiếc chuông có thể phát ra tiếng nhạc, như tiên nữ giáng trần. Nàng tuy lạnh lùng nhưng yêu thương Lục Triển Nguyên, trang chủ của Lục Gia Trang. Nàng bất chấp lời thề trong Cổ Mộ, dâng hiến trinh tiết cho người tình nhưng rồi chàng bội ước và lấy Hà Nguyên Quân làm vợ.

Từ khi Lý Mạc Thu hiền thục trở thành Lý Mạc Sầu tàn nhẫn và độc ác với môn võ Ngũ Độc Thần Chưởng, nghe cũng thấy ớn lạnh. Lý Mạc Sầu cùng Võ Tam Thông đến phá rối đám cưới của Lục Triển Nguyên nhưng bị vị cao tăng chùa Thiên Long ở Đại Lý ngăn chặn; buộc họ phải để cho đôi vợ chồng Lục Triển Nguyên được sống bình yên trong 10 năm.

Sau 10 năm, Lý Mạc Sầu quay trở lại trả thù nhưng hai vợ chồng Lục Triển Nguyên đã tự vẫn. Chưa hết hận thù, Lý Mạc Sầu tìm đến giết cả nhà Lục Lập Đỉnh (em trai của Lục Triển Nguyên) và tìm hai đứa bé là Lục Vô Song (con Lục Lập Đỉnh) và Trình Anh (chị họ của Lục Vô Song) để bắt. Tuy nhiên, bà chỉ bắt thành công Vô Song, còn Trình Anh được vợ chồng Võ Tam Thông cùng Hoàng Dược Sư giúp đỡ.

Võ Tam Thông là đồ đệ của Nhất Đăng Đại Sư, tuу có ᴠợ con nhưng luôn mang trong mình tình уêu ᴠới ᴠợ của Lục Triển Nguуên nên tình tình cũng bất bình thường. Tình đời thật oái ăm, sau nàу khi ᴠợ chết dưới taу Lý Mạc Sầu, Võ Tam Thông cùng ᴠới 2 con thề quyết trả thù Lý Mạc Sầu… Khi quân Mông Cổ tấn công thành Tương Dương, hai anh em Đại Võ & Tiểu Võ không cùng Quách Tĩnh trấn thành mà ra ngoài thành đánh nhau, Lý Mạc Sầu lợi dụng thời điểm đó hạ độc, may nhờ Dương Quá cứu ѕống. Mối hận tình từ đời cha đến đời con với bao oan nghiệt.

Trong quyển Ỷ Thiên Đồ Long ký, nhà văn Kim Dung phác họa hình ảnh Chu Chỉ Nhược, giai nhân tuyệt sắc, muốn lánh cõi trần ô trọc nên vào tu trong phái Nga My. Khi lụy vì tình, nàng trở thành con người đa mưu, thủ đoạn cao cường để triệt hạ tình địch cả nam và nữ. Chu Chỉ Nhược là con gái người lái đò trên sông Hán Thủy. Ông bị quân Nguyên sát hại khi đưa Thường Ngộ Xuân qua sông. Khi đó Trương Tam Phong đang dẫn Trương Vô Kỵ tìm thầy chữa độc Huyền Minh Thần Chưởng liền ra tay cứu giúp. Chưởng môn Võ Đang gửi Chu Chỉ Nhược tới phái Nga My và cô bé trở thành đệ tử của Diệt Tuyệt Sư Thái.

Chu Chỉ Nhược theo lời sư phụ Diệt Tuyệt Sư Thái muốn chiếm đoạt võ công thượng thừa, ở trên hoang đảo, để độc chiếm Ỷ Thiên kiếm và Đồ Long đao, nàng đánh thuốc mê cho mọi người, nhẫn tâm lấy kiếm rạch mặt và giết Hân Ly, trói Triệu Minh và bỏ lên con thuyền thả lênh đênh, mưu đồ để Triệu Minh chết đói vừa đổ vạ cho nàng.

Trở về Trung Nguyên, Chu Chỉ Nhược yêu Trương Vô Kỵ, nàng phá lệ môn quy (gạt đi di nguyện sư phụ), dùng khổ nhục kế để chiếm cho được trái tim Vô Kỵ, trong đám cưới lúc uống rượu giao bôi giữa Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược (nhất bái, nhị bái) thì Triệu Minh (Triệu Mẫn) xuất hiện trong nắm tay có những sợi tóc vàng của Kim Mao Sư Vương (nghĩa phụ Vô Kỵ), Vô Kỵ bỏ mặc tất cả để chạy theo Triệu Minh. Chu Chỉ Nhược cảm thấy ê chề, nhục nhã với kẻ phụ tình trước quần hùng võ lâm… quyết phục thù.

Chu Chỉ Nhược thấy Triệu Minh xuất hiện nên sợ bại lộ âm mưu, đã sử dụng một chiêu ác độc nhất trong Cửu Âm Bạch Cốt Trảo đánh vỡ sọ Triệu Minh để bịt đầu mối. Tuy nhiên Triệu Minh chỉ bị thương, nhờ vết thương đó, Vô Kỵ mới dần hiểu được rằng Chu Chỉ Nhược là người đánh cắp Ỷ Thiên kiếm và Đồ Long đao, luyện thành Cửu Âm Bạch Cốt Trảo giấu trong thân kiếm, bắt cóc cha nuôi của mình là Tạ Tốn và là người giết Hân Ly.

Không thể nào ngờ cô gái thơ ngây Chu Chỉ Nhược trở thành ác nữ gieo bao tai họa trong chốn võ lâm. Trong bản cũ, Kim Dung viết Chu Chỉ Nhược thấy tay đã dính chàm nên xuất gia, còn Vô Kỵ sống với Triệu Minh. Sau nầy ông lại viết lại Chu Chỉ Nhược đến gặp Vô Kỵ và Triệu Minh, nhắc lại lời hứa năm xưa cho nàng, hàm ý rằng có thể cả ba sẽ cùng chung sống.

Trong quyển Thiên Long Bát Bộ đề cập đến hai cao thủ tỷ muội với nhau cùng yêu chàng trai và nổi ghen trở thành tình địch cho đến tuổi già, cùng quyết đấu rửa hận và chết bên nhau!

Vô Nhai Tử là đệ tử của Tiêu Dao Tử, chàng trai tuấn tú tao nhã, cầm kỳ thi họa mọi thứ đều tinh thông, nên sư tỷ Thiên Sơn Đồng Lão và tiểu muội Lý Thu Thủy đều đem lòng yêu Vô Nhai Tử. Vô Nhai Tử chỉ có hình bóng về người em gái của Lý Thu Thủy, ông vẽ bức tranh và tạc một pho tượng ngọc, Thiên Sơn Đồng Lão và Lý Thu Thủy giống hệt nhau nên khó phân biệt. Lý Thu Thủy còn cố tình quấy nhiễu khi Thiên Sơn Đồng Lão đang tu luyện Bát Hoang Lục Hợp Duy Ngã Độc Tôn Công, khiến cơ thể của bà cứ mãi nhỏ bé như một đứa trẻ. Để trả đũa, Thiên Sơn Đồng Lão đã rạch mặt Lý Thu Thủy.

Hai sư tỷ muội cùng yêu chàng trai của mình nên thù oán càng sâu, Vô Nhai Tử dẫn Lý Thu Thủy đến hang động dưới Vô Lượng Sơn ở Đại Lý. Tại đây hai người chung sống với nhau và có một đứa con gái tên là Lý Thanh La (mẹ của Vương Ngọc Yến tức Vương Ngữ Yên). Khi chung sống nhiều năm chàng lạnh nhạt với Lý Thu Thủy, hàng ngày chỉ mãi ngắm nhìn bức tượng đá do mình điêu khắc, Lý Thu Thủy chán nản và đã bỏ sang nước Tây Hạ và trở thành thái phi đầy quyền lực, đồng thời lập ra Nhất Phẩm Đường.

Hai cao thủ tuyệt đỉnh phái Tiêu Dao là Thiên Sơn Đồng Lão và Lý Thu Thủy vì cùng yêu Vô Nhai Tử mà đánh ghen với nhau từ thuở thanh xuân cho đến lúc gần đất xa trời, chỉ vì muốn khẳng định rằng trong trái tim của Vô Nhai Tử chỉ có hình bóng của mình thôi. Trận huyết đấu cuối cùng giữa hai lão bà ở cái tuổi xấp xỉ một trăm, khi mà Vô Nhai Tử đã chết. Trận huyết chiến vì ghen lúc sắp mất người nào cùng lập mưu để được chết sau, xem như đó là cách chiến thắng tình địch trong trận đấu kéo dài suốt những thập niên! Cuối cùng, cả hai cùng nhắm mắt xuôi tay trong một trận đấu sinh tử dứt điểm, và cùng vỡ mộng, khóc cười khi phát hiện người trong bức tranh Vô Nhai Tử không phải là tình địch của mình mà họ lầm tưởng. Trớt quớt!...

Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ đề cập đến cái ghen vì giữ người tình độc đáo chưa từng có trong đời thường: Nhậm Doanh Doanh và Lệnh Hồ Xung

Nhậm Doanh Doanh là con gái duy nhất của Nhậm Ngã Hành, Giáo Chủ Nhật Nguyệt Thần Giáo. Nhậm Ngã Hành bị kẻ phản đồ là sư đệ Đông Phương Bất Bại bắt giam dưới đáy của Động Đình Hồ vì đang mê say luyện Hấp Tinh Đại Pháp. Để che mắt trong giang hồ, Đông Phương Bất Bại nói dối với Nhậm Doanh Doanh và phong là Thánh Cô tái xuất giang hồ.

Lệnh Hồ Xung vốn là đứa trẻ mồ côi sống lang thang, được vợ chồng Nhạc Bất Quần (Chưởng Môn phái Hoa Sơn) và Ninh Trung Tắc đem về nuôi nấng dạy dỗ và trở thành đại đệ tử.

Lớn lên cùng với Nhạc Linh San (con gái của Nhạc Bất Quần) nhưng với mưu đồ gian ác của Nhạc Bất Quần trong thủ đoạn chiếm đoạt bí kíp võ công Tịch Tà Kiếm Phổ nên đổ lên đầu Lệnh Hồ Xung gặp nhiều biến cố và bất trắc…

Khi lưu lạc giang hồ, Lệnh Hồ Xung lúc lâm trọng bệnh, tình cờ quen Nhậm Doanh Doanh ở thành Lạc Dương do Lục Trúc Ông gọi Doanh Doanh là cô cô… Thế rồi từ đó cuộc tình chớm nở giữa Lệnh Hồ Xung và Thánh Cô Nhậm Doanh Doanh.

Sau đó Lệnh Hồ Xung lang thang giang hồ với tấm thân bệnh tật không ai có thể cứu được, Doanh Doanh đã âm thầm theo dõi để giúp đỡ, nàng có quyết định kỳ quặc khi ra lệnh toàn thể giáo chúng trên dưới, nếu gặp Lệnh Hồ Xung ở đâu là phải ngay lập tức giết chết, mục đích là để Lệnh Hồ Xung luôn ở bên cạnh cho nàng chăm sóc, bảo vệ.

Đây là tình yêu và ghen tuông rất độc đáo, thay vì ra lệnh giáo chúng phải tận tâm bảo về người yêu thì nàng chỉ thị gặp Lệnh Hồ Xung ở đâu giết đó để chàng lãng tử nầy phải “nhờ cậy” sự kiểm soát của nàng.

Trong tiểu thuyết Kim Dung có rất nhiều nhân vật có máu ghen tuông, nhưng cái ghen của Thánh Cô Nhậm Doanh Doanh không giống ai, đặc biệt, độc đáo…

Trong Thần Điêu Hiệp Lữ, Quách Phù và Quách Tương là hai chị em ruột (con của Quách Tĩnh và Hoàng Dung) cùng yêu chàng trai Dương Quá (Dương Qua) nhưng Quách Phù có tâm địa xấu, Quách Tương có tâm hồn trong sáng.

Quách Phù đẹp, võ công tầm thường, được cha mẹ nuông chiều nên cậy thế với bản chất ương bướng, tai quái, ích kỷ nên chẳng ai dám làm nàng phật ý. Khi ở trên đảo Đào Hoa của ông ngoại Hoàng Dược Sư, nàng tàn sát, chó gà, chim muông…

Với bản tính kiêu ngạo, hống hách nên khi thấy Dương Quá không ân cần, vồn vã với nàng nên nghĩ Dương Quá coi thường mình vì vậy nàng chặt đứt cánh tay chàng và làm Tiểu Long Nữ trọng thương gần chết.

Sau cùng nàng lấy Gia Luật Tề làm chồng nhưng cảm thấy Gia Luật Tề cũng “lửng lơ con cá vàng” cho đến lúc ở chiến trường sinh tử, nàng mới nhận ra rằng người nàng yêu là Dương Quá, nàng hiểu rằng vì yêu nên nàng mới ghen với chính em gái Quách Tương của mình. Trận chiến ở thành Tương Dương, cha mẹ và em trai đều tử nạn nên Quách Phù tự tử cùng mọi người khi Tương Dương thất thủ.

Quách Tương đau buồn với mối tình đơn phương nhưng khác với tình yêu ích kỷ, hẹp hòi, nông cạn của người chị Quách Phù. Sau cùng vì không tìm được Dương Quá nên Quách Tương đau khổ cho mối tình đơn phương, bỏ đi tu trên núi Nga My, trở thành tổ sư sáng lập của phái Nga My…

Tôi có người bạn, sau những năm lao tù, vượt biên định cư ở Quận Cam. Bản tính anh hiền lành nhưng trong lúc đôi co với vợ, anh nổi giận, không kiềm hãm được, tát tai. Đứa con gái gọi 911, Cánh Sát đến còng tay và bị tù 6 tháng, không được vào quốc tịch. Vừa qua anh bị giam giữ ở Adelanto, trung nam California, trên con đường đến thiền viện Chân Nguyên. Không biết khi nào bị trục xuất?.

Qua hình ảnh nầy, nhớ lại cuốn phim Sợ Vợ Mới Anh Hùng, ở xứ Cờ Hoa nầy thì Sợ Vợ Mới An Toàn! Nghĩ cho cùng cũng tội nghiệp cho đấng mày râu nếu chẳng may gặp phải “Sư Tử Hà Đông”!

Little Saigon, December 2025

Vương Trùng Dương

Không có nhận xét nào: